Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hạt điều của Việt Nam

Lời nói đầu

Chương I. Vai trò của việc xuất khẩu hạt điều và Tổng quan về

thị trường hạt điều thế giới . 1

I. Vai trò của việc xuất khẩu hạt điều. 1

1. Giới thiệu khái quát về cây điều và các sản phẩm hạt điều. 1

2. Vai trò và ý nghĩa của sản xuất và xuất khẩu hạt điều đối với

nền kinh tế quốc dân. 3

2.1. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều làm tăng vốn và phát triển khoa học công nghệ, góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. 3

2.2. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo

việc làm và cải thiện đời sống người lao động . 4

2.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều nâng cao hiệu quả sử dụng đất,

cải biến cơ cấu kinh tế và tạo cân bằng môi trường sinh thái. 5

2.4. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. 7

II. Tổng quan về thị trường hạt điều thế giới. 8

1. Tình hình sản xuất hạt điều trên thế giới. 8

1.1. Phân bố sản xuất và sản lượng điều toàn thế giới.

8

1.2. Tình hình sản xuất và chế biến điều. 11

2. Tình hình xuất nhập khẩu hạt điều thế giới.15

2.1. Tình hình xuất khẩu. 15

2.2. Tình hình nhập khẩu. 17

Chương II. Thực trạng xuất khẩu hạt điều của Việt Nam từ

năm 1995 đến nay. 24

 

I. Quá trình hình thành và phát triển sản xuất, chế biến, xuất khẩu

 

hạt điều ở Việt Nam. 24

1. Giai đoạn trước năm 1985. 24

2. Giai đoạn từ năm 1985 đến nay. 25

II. Tình hình sản xuất và chế biến điều nguyên liệu. 26

1. Diện tích . . 26

2. Sản lượng. . 28

3. Năng suất . . 29

4. Chế biến và công nghiệp chế biến. . 30

III. Tình hình xuất khẩu hạt điều của Việt Nam. . 32

1. Quy mô và tốc độ xuất khẩu. . 32

 

2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. .

34

3. Cơ cấu thị trường và giá cả. .

37

IV. Một số đánh giá chung về thực trạng sản xuất và xuất khẩu

sản phẩm hạt điều của Việt Nam. 42

1. Các ưu điểm. 42

2. Những tồn tại cơ bản.

 

45

 

3. Nguyên nhân của những tồn tại.

 

51

 

Chương III. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm

hạt điều của Việt Nam. 54

I. Định hướng xuất khẩu của ngành điều Việt Nam. 54

1. Quan điểm, định hướng sản xuất và xuất khẩu của ngành điều

Việt Nam. 54

2. Mục tiêu chủ yếu nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu sản phẩm

hạt điều từ nay đến năm 2010. 56

2.1. Mục tiêu chung. 56

2.2. Một số chỉ tiêu cụ thể và kế hoạch triển khai của ngành điều.

57

3. Dự báo những cơ hội và thách thức của ngành sản xuất - chế biến - xuất khẩu hạt điều Việt Nam. 59

3.1. Dự đoán xu hướng thị trường hạt điều thế giới.59

3.1.1. Thị trường hạt điều thế giới ngày càng sôi động và tính cạnh tranh ngày càng gay gắt . 59

3.1.2. Giá hạt điều chế biến trên thị trường ngày càng có xu hướng ổn

định tuy nguồn nguyên liệu luôn ở trong tình trạng khan hiếm. 60

3.1.3. Vị trí các nước xuất khẩu hạt điều chế biến có xu hướng thay đổi và hứa hẹn nhiều biến động. 60

3.1.4. Nguồn nguyên liệu chế biến bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố

phi kinh tế. 62

3.1.5. Công nghệ chế biến là yếu tố hàng đầu được các doanh nghiệp quan tâm. 62

3.2. Những cơ hội và thách thức đối với ngành điều Việt Nam. 63

3.2.1. Những cơ hội cho ngành điều Việt Nam nâng cao vị trí trên thị

trường quốc tế. 63

3.2.2. Những nguy cơ đe dọa sự phát triển của ngành sản xuất - chế biến -

 

xuất khẩu hạt điều Việt Nam. 64

II. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm hạt điều

của Việt Nam. 67

1. Nhóm giải pháp vĩ mô. 67

1.1. Chính sách quản lý và cơ chế. 67

1.2. Chính sách tài chính, tiền tệ. 69

1.2.1. Chính sách thuế. 69

1.2.2. Chính sách tỷ giá. 70

1.2.3. Chính sách tín dụng. 72

1.2.4. Chính sách trợ cấp. 70

1.3. Chính sách hỗ trợ khác. 73

1.4. Mở rộng quan hệ quốc tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế .

74

2. Nhóm giải pháp về phía ngành điều. 75

2.1. Giải pháp về quy hoạch và phát triển ngành điều. 75

2.2. Giải pháp phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến. 81

2.3. Giải pháp về vốn. 82

2.4. Giải pháp phát triển mặt hàng. 83

2.5. Giải pháp về thị trường và marketing.

84

2.6. Giải pháp nguồn nhân lực. 86

3. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu

hạt điều 87

3.1. Về công tác kế hoạch và hoạch định chiến lược kinh doanh. 87

3.2. Về nâng cao năng lực sản xuất, chế biến và tạo nguồn hàng

xuất khẩu. 88

3.3. Về thị trường và marketing trong doanh nghiệp. 90

3.4. Về tài chính. 92

3.5. Về nhân lực. 93

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

 

 

doc123 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1912 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hạt điều của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công nghiệp chế biến nhân điều đã hình thành và phát triển hết sức nhanh chóng. Đến nay cả nước đã có tới hơn 80 nhà máy chế biến nhân điều xuất khẩu với tổng công suất lên tới hơn 250.000 tấn hạt thô giải quyết hơn 60.000 lao động chính thức trong các nhà máy, xí nghiệp và hơn 300.000 lao động nông nghiệp.(1( Ngành công nghiệp chế biến phát triển với tốc độ nhanh như vậy là do ngành điều đã áp dụng công nghệ Việt Nam với toàn bộ (1( "Xuất khẩu điều - Cần hài hòa giữa lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp", Báo Thương mại số ra ngày 09/05/2003 thiết bị máy móc được thiết kế chế tạo trong nước, dây chuyền công nghệ kết hợp cơ giới và thủ công nên vốn đầu tư thấp, chỉ bằng 1/10 của thiết bị nước ngoài, hiệu suất thu hồi và chất lượng sản phẩm cao, giá thành chế biến thấp, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Về trình độ và công nghệ chế biến, ngành điều Việt Nam được đánh giá là không chênh lệch nhiều so với các nước khác và có thể rút ngắn khoảng cách nhanh chóng nếu tình trạng thiếu vốn và trình độ quản lý được khắc phục một cách hiệu quả. Một số công đoạn trong quy trình chế biến, Việt Nam đã vượt ấn Độ và Brazil về kỹ thuật và hiệu quả sản xuất. Cụ thể, tỷ lệ hạt vỡ của Việt Nam trong chế biến thấp nhất trên thế giới, chỉ vào khoảng 3% ở giai đoạn cắt vỏ hạt (ấn Độ 8 - 9%) và 13 - 14% ở giai đoạn bóc vỏ lụa (ấn Độ 15 - 17%)(1(. Máy cắt vỏ hạt điều của Việt Nam được các chuyên gia điều thế giới đánh giá là đã kết hợp rất khéo những ưu điểm của máy cắt Otrema của ý, máy cắt nội địa của Thái Lan và cải tiến thêm một số chi tiết thành máy cắt của Việt Nam nên giảm thiểu được tỷ lệ gãy vỡ hạt. Sự ra đời của máy cắt này có đóng góp rất lớn của đội ngũ kỹ sư chế biến Việt Nam. Về xuất khẩu Có thể nói ngành xuất khẩu hạt điều của nước ta đã tăng trưởng với tốc độ mà ít ngành kinh tế nào có thể đạt được. Bình quân thời kỳ 1995 - 2003, kim ngạch xuất khẩu hạt điều tăng với tốc độ 7%, năm 2002 thu về cho đất nước 214 triệu USD, chỉ sau thủy sản, cà phê và gạo. Cùng với sự phát triển của công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu đã liên tục được mở rộng, đến nay sản phẩm hạt điều của nước ta đã có mặt trên thị trường 40 nước và vùng lãnh thổ trên khắp 5 châu lục. Điều đáng mừng là từ năm 1997, ta đã hoàn toàn ngừng xuất khẩu hạt điều thô để đáp ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến đang lớn mạnh. Đây là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế của thị trường thế giới đó là gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Chất lượng nhân điều của ta ngày càng được cải thiện và hiện nay được đánh giá vào loại cao nhất của thế giới. Bên cạnh sản phẩm nhân điều, ngành điều cũng đã phát triển các sản phẩm mới nhằm tận dụng các sản phẩm phụ của hạt điều. Sản phẩm nhân điều của nước ta được đánh giá là có năng lực cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới với hệ số DRC = 0,2 do ta có lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu, lao động và công nghệ chế biến. Sở dĩ ngành điều nước ta đạt được những thành công nói trên là do nhiều yếu tố tác động, trong đó có thể kể đến một số yếu tố sau: (1( "Công nghệ và thiết bị chế biến hạt điều", Trung tâm nghiên cứu công nghệ và thiết bị công nghiệp, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh Thứ nhất là cầu thị trường điều trong những năm gần đây tăng mạnh, trong khi lượng cung lại có hạn làm cho giá hạt điều tăng. Đó là cơ hội tốt cho các nhà kinh doanh, sản xuất và chế biến điều xuất khẩu ở nước ta. Thứ hai là điều kiện tự nhiên ở Việt Nam mà đặc biệt là ở các vùng từ Quảng Nam trở vào rất thích hợp với cây điều. Trong thời gian qua, chúng ta đã biết khai thác lợi thế này để kịp thời chớp lấy cơ hội tốt để phát triển sản xuất - xuất khẩu điều. Thứ ba là Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp có tác động khuyến khích phát triển, chế biến điều như Quyết định số 120/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án phát triển cây điều đến năm 2010, trong đó đã đề ra phương hướng, mục tiêu và đặc biệt là quy hoạch phát triển cây điều. Đây quả thực là một mốc quan trọng của ngành điều bởi từ đây ngành điều sẽ được dẫn dắt theo một định hướng rõ ràng. Như vậy, có thể nói rằng lợi thế lớn nhất của ngành sản xuất - chế biến - xuất khẩu hạt điều hiện nay chính là việc cây điều đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch trong chính sách phân bổ diện tích đất nông nghiệp cho các địa phương và các vùng kinh tế trọng điểm. Chủ trương này đem lại cho ngành điều một số thuận lợi cơ bản sau: Việc quy hoạch giúp các địa phương cụ thể hóa được các chỉ tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp và công nghiệp chế biến xuất khẩu trong dài hạn, từ đó có những giải pháp hợp lý nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Giải quyết hiện tượng các loại cây trồng công nghiệp khác lấn chiếm diện tích đất trồng điều. Thực tế cho thấy, khi giá thu mua nguyên liệu thô hoặc giá xuất khẩu nông sản của thế giới biến động mạnh, người nông dân thường chặt bỏ cây đang khai thác và trồng những giống mới đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Đây là một đặc điểm rất quan trọng mà ngành điều Việt Nam cần lưu ý do ngay bản thân cây điều trước đây và nhiều cây công nghiệp khác hiện nay đã rơi vào tình trạng khó khăn này. Giúp người nông dân yên tâm đầu tư vào sản xuất và trồng trọt vì việc quy hoạch diện tích trồng điều cùng với những chính sách khác cho thấy quyền lợi canh tác của người dân được đảm bảo, những rủi ro khi nguyên liệu bị ứ đọng và giá thu mua giảm sẽ được Nhà nước quan tâm và chia sẻ. Thứ tư là ngành điều đã sớm tiếp thu có chọn lọc kỹ thuật và kinh nghiệm các nước vào điều kiện thực tế nước ta để tổ chức sản xuất, chế biến và xuất khẩu có hiệu quả. Những nhân tố trên đã thực sự tạo động lực thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu điều phát triển nhanh, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước. 2. Nhược điểm Cùng với những thành tựu đạt được, ngành sản xuất và xuất khẩu điều trong thời gian vừa qua cũng đã bộc lộ những nhược điểm sau: Về quy hoạch và kế hoạch Quản lý nhà nước về cây điều trong nhiều năm qua bị thả nổi, chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển điều cho từng địa phương. Việc trồng điều do dân tự làm tự lo là chính nên khi gặp những yếu tố không thuận lợi, dân tự ý chặt đốn điều gây giảm sút về diện tích và sản lượng. Một nhược điểm lớn của ngành điều là mạng lưới các cơ sở chế biến chưa gắn kết với vùng nguyên liệu, ngành điều vẫn chưa định hình được quy mô các nhà máy, tốc độ phát triển mất cân đối với sản xuất nguyên liệu. Tốc độ phát triển nhanh của các cơ sở chế biến trong những năm qua cũng giống như sự phát triển diện tích trồng điều, hoàn toàn do tác động trực tiếp của thị trường và rất thiếu quy hoạch. Các cơ sở chế biến chưa gắn kết và có trách nhiệm với người trồng điều nên chưa tạo được sự hài hòa về lợi ích kinh tế và thúc đẩy lẫn nhau giữa trồng và chế biến. Sự gia tăng mang tính chất tự phát của các nhà máy chế biến hạt điều xuất khẩu đã dẫn tới tình trạng mất cân đối trong hoạt động và cơ cấu của toàn bộ tổng thể. Sự bùng nổ của các nhà máy chế biến hạt điều mà không có sự chỉ đạo và điều tiết của Chính phủ đã đưa ngành điều cả nước rơi vào tình trạng khủng hoảng thừa các nhà máy chế biến và khủng hoảng thiếu nguồn nguyên liệu. Hiện có khoảng 80 nhà máy chế biến đang hoạt động với tổng công suất hơn 250.000 tấn điều thô một năm. Một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ đã buộc phải tạm thời ngưng hoạt động. Hậu quả của sự phát triển không có kế hoạch và định hướng đúng đắn trong những năm vừa qua của ngành điều Việt Nam vẫn còn kéo dài đến tận ngày hôm nay. Phần lớn các doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động thì hầu như không phát huy hết công suất chế biến, hoạt động cầm chừng, phải thu hẹp quy mô, giảm số lượng nhân công, chạy đua không mệt mỏi với mức giá thu mua ngày càng leo thang và chua xót hơn, nhìn những cơ hội trôi qua tầm tay mà đành bất lực vì không đủ khả năng đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu. Tỷ lệ hủy hợp đồng do thiếu nguồn nguyên liệu do lỗi của bên đối tác Việt Nam rất cao, ước tính 20% giá trị các hợp đồng đã ký. Điều này ảnh hưởng xấu đến uy tín của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới Về nguyên liệu Về giống, hầu hết các vườn điều ở nước ta được trồng chủ yếu bằng hạt nên chậm cho ra quả, dễ bị sâu bệnh, phân ly mạnh và nhanh bị thoái hóa. Công tác chọn giống, nhân giống chưa được quan tâm, chưa có một đơn vị chuyên ngành cung ứng về giống. Quy trình canh tác điều (mật độ trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh...) không được chú trọng. Mức đầu tư do nông dân tự bỏ ra cho chăm sóc quá thấp (có nơi chỉ 50.000đ/ha). Do vậy, nhiều vườn điều trồng trên những vùng đất tốt vào thời kỳ cho thu hoạch, gặp thời tiết thuận lợi đã đạt năng suất 0,7 - 0,8 tấn/ha nhưng chỉ sau vài vụ năng suất giảm xuống chỉ còn 0,4 - 0,5 tấn/ha. Về công nghệ chế biến Một điểm yếu khác của ngành điều là chưa tiến hành nghiên cứu ứng dụng để đa dạng hóa sản phẩm và tận dụng các sản phẩm phụ của hạt điều. Quá trình chế biến mới chỉ tập trung vào sản phẩm nhân điều, chưa có kế hoạch và biện pháp đa dạng hóa và tổng hợp để tận dụng các sản phẩm phụ từ điều như dầu vỏ, gỗ vỏ điều... Thực tế cho thấy nếu tận dụng được phụ phẩm của điều sẽ gia tăng một phần giá trị không nhỏ. Công nghệ chế biến điều chủ yếu vẫn ở mức bán cơ giới, thủ công và chưa áp dụng kỹ thuật chế biến mới. Máy móc trong dây chuyền chế biến sử dụng tại các nhà máy phần lớn là có nguồn gốc nội địa và tuổi thọ của rất nhiều thiết bị đã quá cao. Nếu không kịp thời cải tiến, nâng cấp thì ngành điều nước ta rất có thể sẽ bị tụt hậu về trình độ chế biến với các đối thủ. Hầu hết các nhà máy chế biến điều vẫn cần đến lao động thủ công, hầu hết là lao động nữ có trình độ văn hóa thấp, lao động nhập cư và thanh niên nông thôn mới lớn ra thành thị. Về công tác thu mua cho xuất khẩu: Công tác thu mua còn yếu, các xí nghiệp chế biến thiếu vốn để thu mua hạt điều dự trữ. Việc thu mua hạt điều cho chế biến xuất khẩu trong những năm qua được thực hiện dựa trên cơ chế thị trường. Tổ chức mạng lưới thu mua, phổ biến theo kiểu nông dân - thương lái - xí nghiệp chế biến. Hàng năm, VINACAS đều tổ chức họp bàn ra nghị quyết chỉ đạo tổ chức thu mua với mức giá cả phù hợp, bảo vệ quyền lợi người trồng điều, thế nhưng công tác thu mua còn nhiều bất cập. Cây điều cho thu hoạch 1 năm/1 lần và tập trung vào khoảng 60 ngày từ tháng 3 tới tháng 5. Nông dân sau khi thu hoạch đều muốn bán ngay để có tiền đầu tư trở lại (trồng cây mới, chăm sóc cây lớn cho vụ tới, mua phân bón...) Xí nghiệp chế biến hạt điều thì muốn thu mua hạt để dự trữ cho sản xuất, chế biến trong cả năm. Mặc dù chu kỳ sản xuất - chế biến hạt điều có thể dự tính trước được nhưng kế hoạch tiêu thụ hạt điều cho nông dân luôn căng thẳng do ngành điều chưa tổ chức thành một hệ thống kinh doanh khép kín, các cơ sở chế biến không có vùng nguyên liệu, khả năng tài chính hạn hẹp, không có vốn thu mua kịp thời. Trong khi đó, nông dân đến mùa thu hoạch buộc phải bán cùng một thời điểm để thu hồi vốn tiếp tục cho chu kỳ kinh doanh khác, nên vẫn còn hiện tượng tư thương ép giá, ép cấp làm thiệt thòi cho người nông dân, còn một số xí nghiệp chế biến do lo không có nguyên liệu dự trữ chế biến nên mua với giá rất cao, gây khó khăn cho hạch toán giá thành sản xuất. Mấy năm trước khi hạt điều chủ yếu được xuất thô và xuất một cách tự do nên tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá trên thị trường là phổ biến, nhiều thương nhân nước ngoài còn tham gia cả vào thị trường nội địa bằng cách chuyển tiền cho các đơn vị trong nước thu mua, làm thủ tục xuất khẩu cho họ, các đơn vị trong nước chỉ được hưởng hoa hồng thu mua và tổ chức xuất khẩu không đáng kể. Vấn đề vốn dự trữ nguyên liệu của các xí nghiệp chế biến đang là vấn đề nan giải, hạt điều một năm chỉ có một mùa, thời gian dự trữ nguyên liệu dài, lô nguyên liệu cuối cùng ít nhất cũng phải dự trữ 7 tháng (từ tháng 7 đến tháng 1 năm sau), do đó vốn dự trữ phải lớn. Chính vì khó khăn về vốn nên các xí nghiệp chế biến chịu thiệt thòi vì phải gia công làm thuê cho nước ngoài, nhất là thương nhân Trung Quốc, ấn Độ, họ đầu tư mua nguyên liệu rồi thuê các xí nghiệp chế biến, làm thủ tục xuất khẩu, mọi lỗ, lãi do khách hàng ngoại lo, còn xí nghiệp chỉ hưởng phí và chút lãi không đáng kể, thậm chí có những năm xí nghiệp bị lỗ còn nông dân và thương lái thì lãi. Về công tác thị trường Ngành điều vẫn chưa có một chiến lược xuất khẩu, trong đó bao gồm chiến lược mặt hàng, chiến lược thị trường, thể hiện ở: - Sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu, chỉ có nhân sơ chế (nhân sống) và ngay cả nhân sơ chế cũng không thống nhất cách phân loại giữa các cơ sơ chế biến. - Chưa có chính sách thị trường ở tầm vĩ mô, chưa chú trọng xây dựng thị trường chiến lược, vẫn mạnh ai người nấy làm. Hiện nay tỷ trọng xuất khẩu điều nhân của ta vào Trung Quốc còn cao (50%), mà thị trường này thiếu ổn định, nên nếu quá phụ thuộc vào thị trường này thì sẽ vấp phải khó khăn khi thị trường này biến động. Thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa rõ ràng và chưa có đối sách thích hợp đối với từng thị trường. Các doanh nghiệp vẫn ở trong tình trạng bị động ngồi chờ nguồn khách hàng hơn là tổ chức công tác tiếp thị, tìm hiểu thị trường. Phần lớn các cơ sở kinh doanh điều, ngay cả những doanh nghiệp lớn như Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến, DONAFOODS cũng chưa chú trọng thị trường nội địa bởi thị trường nội địa có dung lượng rất lớn, chưa đầu tư nghiên cứu sản phẩm phù hợp, bao bì hấp dẫn. Về chất lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu: Ngành điều Việt Nam còn bộc lộ nhiều yếu kém về chất lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam không đồng đều và không ổn định. Trước hết, kích cỡ hạt của chúng ta thuộc loại nhỏ so với ấn Độ và Brazil nên khó đáp ứng được yêu cầu của các thị trường cao cấp. Cỡ hạt lớn nhất của điều Việt Nam chỉ là 240 - 250 hạt/lb trong khi hạt của ấn Độ có cỡ hạt 180 hạt/lb được người tiêu dùng Mỹ đặt tên là "jambos", nghĩa là voi, Brazil có cỡ hạt lên đến 150 hạt/lb và được gọi là "mamoths" (tên một giống voi khổng lồ thời tiền sử). So sánh về kích cỡ thì hạt điều Brazil hấp dẫn nhất trên thị trường Mỹ vì Brazil phân loại quy chuẩn hạt xuất khẩu theo Hiệp hội các ngành công nghiệp thực phẩm của New York của Mỹ. Hạt điều Việt Nam và ấn Độ có tiêu chuẩn xuất khẩu tương đối giống nhau nhưng so với ấn Độ thì cách phân hạng của Việt Nam vẫn còn cứng nhắc. Cụ thể, theo bảng phân hạng của Brazil và ấn Độ, trong loại SW có SW240, 320, 450 còn Việt Nam thì chỉ có SW đơn thuần. Chính vì vậy, giá bán hạt của Việt Nam đôi lúc kém tính cạnh tranh so với các nước vì nhiều kích cỡ hạt đã được san đều. Tuy nhiên, về mùi vị và độ đậm đà thơm ngon, hạt điều Việt Nam lại được người tiêu dùng đánh giá cao nhất thế giới, vượt cả ấn Độ. Đây là một đặc điểm tự nhiên mà ngành điều Việt Nam cần quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, phần lớn sản phẩm chế biến chỉ ở dạng hạt đã bóc vỏ, chưa có sản phẩm được chế biến sâu với các chủng loại đa dạng. Chưa có doanh nghiệp nào xuất khẩu với số lượng đáng kể sản phẩm hạt chế biến sâu. Những sản phẩm hạt điều được thế giới ưa chuộng như hạt điều chiên bơ, hạt điều rang muối, hạt điều bọc đường, mứt điều chưa được các doanh nghiệp quan tâm sản xuất. Đáng tiếc, một số doanh nghiệp cũng có sản xuất các loại sản phẩm này nhưng chỉ để tiêu thụ trong nước và phục vụ cho công tác tiếp khách. Về sản phẩm nhân điều, sản lượng nhân điều nám, bể cong cao, chiếm tỷ lệ khoảng 60%, 40% còn lại là nhân nguyên trắng hoặc sém nhưng cỡ hạt nhỏ, nhiều nhất là W320 và W 450. Loại tốt như W240 lại rất ít và gần như không có. Tuy các doanh nghiệp đã chú trọng nâng cao cải tiến chất lượng liên tục trong những năm qua, và nhờ đó khả năng cạnh tranh cũng được nâng cao tương ứng, song chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu đa dạng hóa của khách hàng, lợi thế cạnh tranh tựu trung lại vẫn do giá rẻ, nhưng không phải là do chủ động giảm giá để cạnh tranh mà do chưa đáp ứng được nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường thế giới. Về giá xuất khẩu Giá thành nhân xuất khẩu cao, lãi thấp do hầu hết các cơ sở chế biến không có vùng nguyên liệu, thị trường nguyên liệu trong nước cạnh tranh đẩy giá lên quá cao, hiện giá nguyên liệu đã tăng gần 20%(1(. Hơn nữa, lãi suất thương mại cho dự trữ nguyên liệu cao, nên giá thành nhân xuất khẩu cao làm giảm khả năng cạnh tranh của nhân điều nước ta. Hiện nay, các chi phí đầu vào khác cho sản xuất, chế biến điều đều tăng cao như chi phí tiền lương và một số loại chi phí độc quyền như điện thoại, điện, nước cũng gây không ít khó khăn cho ngành điều. Bên cạnh đó, do tình trạng đầu tư khá mạnh vào công nghiệp chế biến điều nên đã xảy ra tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng trong các nhà máy chế biến, đặc biệt là các nhà máy nằm trên vùng nguyên liệu. Một số nhà máy đầu tư khá lớn, khang trang, nhưng ít công nhân. ở nhiều nhà máy trong năm 2003, lực lượng lao động giảm hẳn 50% so với năm 2002.(2( Tình hình đó cũng khiến cho chi phí đầu vào của giá điều xuất khẩu tăng cao. Giá bán một số chủng loại hạt điều của Việt Nam ra thị trường quốc tế còn khá cao so với các đối thủ cạnh tranh do cách phân hạng sản phẩm của Việt Nam còn cứng nhắc. Về công tác xúc tiến thương mại Có thể thấy rằng hoạt động tiếp thị và nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp ngành điều còn rất yếu. Tại hầu hết các doanh nghiệp chế biến, hoạt động tiếp thị và nghiên cứu thị trường còn rất kém nếu không nói là đã và đang bị lãng quên. Chỉ một số ít các doanh nghiệp như DONAFOODS, VINALIMEX có quan tâm đến việc tìm hiểu đối thủ cạnh tranh, có đầu tư cho quảng cáo và tiếp thị. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp chưa thật sự nhận thức được tác động tích cực và tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại trong kinh doanh quốc tế. Nhiều nhà nhập khẩu nước ngoài quan tâm đến mặt hàng hạt điều Việt Nam phải mất rất nhiều thời gian để tìm đến được với các đối tác Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp ấn Độ, Braxin, thậm chí cả Mozambique (1(, (2( "Xuất khẩu điu - Lối ra nào từ nghịch lý giá cả", Thông tấn xã Việt Nam, ngày phát tin 17/07/2003 đã khuếch trương hoạt động xuất khẩu và sản phẩm của mình trên cả mạng internet nhằm thu hút tối đa sự quan tâm của các bạn hàng thế giới. Hoạt động nghiên cứu thị trường trong các doanh nghiệp ngành điều vẫn chưa thực sự được quan tâm thích đáng trong thời gian qua. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là nhằm xác định các bạn hàng ổn định và lâu dài cho từng mặt hàng xuất khẩu, xác định dung lượng thị trường cho từng loại mặt hàng, đồng thời để phát hiện thị trường mới. Trước đây, có hiện tượng một số doanh nghiệp khi đã xuất khẩu vào được một thị trường rồi không chú trọng việc nghiên cứu thị trường đó nữa. Đây có lẽ là một sai lầm bởi khi đã vào được một thị trường rồi thì càng cần phải nghiên cứu thị trường đó sâu hơn để củng cố vững chắc vị thế của mình. Hiện nay vấn đề nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp tất cả mới chỉ dừng lại ở doanh thu bao nhiêu, vòng quay vốn, lãi... mà không phải là thị trường nào cần được đầu tư sâu hơn, thị trường nào ưa chuộng loại sản phẩm nào, nhu cầu trong tương lai là bao nhiêu, khách hàng tiềm năng có được mở rộng hay không... Các nghiên cứu này còn thiếu chiều sâu về thị hiếu và nhu cầu cụ thể của từng loại thị trường. Do đó cần có những biện pháp thích hợp để tăng cường công tác đầu tư nghiên cứu thị trường. Về công tác hỗ trợ cho xúc tiến thương mại: Ngân sách ngành điều dành cho xúc tiến thương mại rất hạn hẹp. Những hạn chế về nguồn kinh phí đã khiến cho công tác quảng bá, xúc tiến gặp nhiều khó khăn. Tiếp đến là vấn đề đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác xúc tiến. Hiện nay trình độ đội ngũ cán bộ xúc tiến của ngành còn chưa đồng đều, một số còn chưa được đào tạo bài bản về marketing, quản trị... do đó đã ảnh hưởng không ít đến chất lượng và hiệu quả công tác xúc tiến. Do vậy, ngành điều rất cần sự hỗ trợ về kinh phí từ các ngành, các cấp có liên quan để có thể mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Những nhược điểm trên sẽ tổng hợp lại làm giảm khả năng cạnh tranh của nhân điều Việt Nam, làm cho xuất khẩu yếu đi. Trong thời gian tới, Nhà nước, ngành điều và các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ, có chính sách phát triển rõ ràng thì ngành điều mới có thể đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển tương xứng với tiềm năng. 3. Nguyên nhân 3.1. Nguyên nhân khách quan Trong những năm vừa qua, do không có sự phối hợp và quản lý đồng bộ của các cấp, các ngành về sản xuất chế biến và xuất khẩu mà cụ thể ở đây là Bộ NN & PTNT và Bộ Thương mại đã dẫn đến tình trạng sản xuất không tập trung và hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Lợi ích của người nông dân không được đảm bảo: khi hàng hóa bán được thì họ đổ xô đi trồng điều, ngược lại khi không tiêu thụ được thì họ lại phá đi trồng cây khác. Điều này vừa thiệt hại cho nền kinh tế cả nước nói chung, vừa ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu nói riêng vì nguồn hàng không đảm bảo. Hơn nữa, công tác quản lý vĩ mô không thống nhất đã gây nên hiện tượng tranh mua trong nước, tranh bán ra nước ngoài đẩy giá hàng trong nước lên cao, làm giảm tính cạnh tranh so với sản phẩm của các đối thủ nước ngoài. Bên cạnh đó, do chưa có quy hoạch lâu dài và mang tính chiến lược từ phía Nhà nước, do đó việc trồng điều và sản xuất ở một số địa phương còn tự phát và manh mún, khiến cho ở một số nơi xảy ra tình trạng hỗn loạn về nguyên liệu và chế biến. Về chế độ chính sách, chính sách thuế nông nghiệp hiện nay của Nhà nước quy định đối với cây điều cũng như cây trồng khác là đang phải nộp thuế tuỳ theo hạng đất mà quy ra thóc/ha. Các hộ nông dân ngoài việc phải nộp thuế nông nghiệp, còn phải đóng góp cho quản lý phí, bảo vệ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với người trồng điều, phải đóng như vậy là quá nặng. Ngoài ra, chính sách vay vốn đầu tư không được ưu đãi nhiều so với các cây trồng khác như cà phê, cao su... Bên cạnh đó, trong những năm qua, Nhà nước chưa có chính sách đồng bộ về vốn, khoa học kỹ thuật cũng như các biện pháp tổ chức để hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất điều. Sự phối hợp giữa Hiệp hội cây điều Việt Nam với các địa phương, đơn vị cũng như giữa các thành viên với nhau trong Hiệp hội cũng còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất. Việc thu mua hạt điều do các doanhnghiệp tiến hành với giá cả không được giám sát chặt chẽ, lúc ép giá gây thiệt hại cho người trồng điều, lúc tranh mua đẩy giá nguyên liệu lên cao gây khó khăn cho các cơ sở chế biến. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng ở các vùng trồng điều còn rất nhiều yếu kém so với các vùng sản xuất nông nghiệp khác, điều đó làm tăng thêm những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khách quan khác như: do mặt hàng điều có tính thời vụ cao nên việc tiến hành thu mua, bảo quản gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình thị trường và giá cả không ổn định đã và đang làm cho người nông dân chưa yên tâm đầu tư vốn và lao động vào việc canh tác, sản xuất. 3.2. Nguyên nhân chủ quan Về chủ quan, những yếu kém cố hữu của ngành điều lâu nay về vốn và trang thiết bị kỹ thuật, trình độ công nghệ chế biến, tay nghề người lao động là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên. Do thiếu vốn nên việc đầu tư về canh tác, giống, kỹ thuật, thủy lợi... cho các vùng chuyên canh chưa được quan tâm một cách thỏa đáng, phần lớn các công trình kỹ thuật hiện có đều do nhân dân tự đầu tư nên quy mô nhỏ, hiệu quả thấp. Hầu hết các doanh nghiệp ngành điều còn non yếu về trình độ sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp này quy mô còn nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ, chúng ta vẫn chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp cần thiết để kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại của mình với việc sản xuất, kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Song có lẽ nhược điểm lớn nhất vẫn là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ sản xuất cũng như xuất nhập khẩu. Hầu hết các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu còn thiếu kinh nghiệm, trình độ ngoại ngữ yếu, kiến thức và hiểu biết về kỹ thuật kinh doanh và tình hình thị trường thế giới không cập nhật. Tóm lại, tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu sản phẩm hạt điều trên thế giới trong những năm gần đây diễn biến khá phức tạp. Trước tình hình đó, hoạt động xuất khảu hạt điều của nước ta vẫn đạt được những kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch thu được từ hoạt động xuất khẩu hạt điều vẫn tăng đều qua các năm, các sản phẩm tiếp tục được đa dạng và các thị trường liên tục được mở rộng. Điều đó cho thấy những nỗ lực không biết mệt mỏi của ngành điều nước ta trong quá trình sản xuất, chế biến và tìm đầu ra cho sản phẩm. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận một thực tế rằng hoạt động sản xuất, xuất khẩu hạt điều của nước ta còn nhiều tồn tại và bất cập. Có thể thấy rằng chất lượng sản phẩm hạt điều chưa cao, thiếu ổn định, hoạt động xúc tiến thương mại còn nghèo nàn và thiếu hệ thống là những yếu tố cơ bản dẫn những tồn tại đó. Trong phần viết này, khóa luận đã phân tích và đưa ra những đánh giá về thực trạng sản xuất, xuất khẩu hạt điều, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hạt điều ở chương sau. Chương III Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8039.doc
Tài liệu liên quan