Đề tài Một số giải pháp góp phần giải quyết vấn đề cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam

Tài liệu tham khảo

 Lời nói đầu :

 PHẦN 1: CUNG - CẦU TIỀN TỆ

 A- MỨC CẦU TIỀN

 I. Khái niệm

 II. Lý do nắm giữ tiền

 1. Những lý do giao dịch

 1.1 Lượng tiền thực tế

 1.2 Tốc độ và cầu lượng tiền thực tế

 1.3 Những nhân tố trong hệ thống thanh toán

 1.4 Những thay đổi của lãi suất

 1.5 Những quy định của việc phân bổ danh mục vốn đầu tư.

 2. Những lý do về phân bổ danh mục vốn đầu tư.

 2.1 Thu nhập và của cải

 2.2 Lợi nhuận mong muốn

 2.3 Rủi ro, tính lỏng và thông tin

 III/ Những yếu tố quyết định cầu tiền

 1. Cầu tiền thực tế có tương quan thuận với mức độ giao dịch.

 2. Cầu tiền thực tế có tương quan nghịch với sự phát triển và hệ thống thanh toán.

 3. Những quyết định phân bổ danh mục đầu tư.

 IV/ Sự phát triển của lý thuyết về mức cầu tiền tệ.

 1. Học thuyết số lượng tiền tệ

 1.1 Tốc độ chu chuyển của tiền tệ và phương trình trao đổi.

 1.2 Học thuyết số lượng tiền tệ

 1.3 Học thuyết số lượng về cầu tiền tệ

 2. Cách tiếp cận của Cambiridge về cầu tiền tệ.

 3. Lý thuyết ưu thích tiền mặt của Keynes

 3.1. Động cơ giao dịch

 3.2. Động cơ dự phòng

 3.3. Động cơ đầu tư

 3.4. Đặt chung 3 động cơ với nhau

 4. Học thuyết số lượng tiền tệ hiện đại của Friedman

 B. MỨC CUNG TIỀN

 I/ Khái niệm:

 II/ Thành phần của mức cung tiền

 1. Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống Ngân hàng (Mo)

 2. Tiền giao dịch (M1)

 3. Tiền mở rộng ( M2 )

 4. Tiền tài sản ( M3)

 III/ Nhân tố ảnh hưởng lượng tiền cung ứng

 1. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc

 2. Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn của NHT

 3. Lãi suất tái chiết khẩu

 4. Của cải XH

 5. Hoạt động bất hợp pháp trong xã hội

 6. Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn

 7. Sự mất an toàn của các tổ chức tín dụng

 8. Dự doán việc rút tiền của khách hàng.

 9. Lãi suất thị trường

 

 PHẦN 2 : CÂN ĐỐI CUNG CẦU TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.

 I. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam

1. Tốc độ tăng GDP liên tục giảm sút

2. Tiêu dùng xã hội trì trệ và giảm sút

3. Chỉ số giá CPI và lạm phát

4. Đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài giảm mạnh

5. Hoạt động ngoại thương gặp khó khăn

 

 II Xử lý cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam

1. Cốt lõi của cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam

2. Cơ chế cung ứng tổng lượng phương tiện thanh toán ở Việt Nam

3. Cơ chế điều hoà lưu thông tiền tệ ở Việt Nam

3.1. NHNN Việt Nam thiết lập một hệ thống các chỉ báo thị trường

3.2. Công vụ đièu hoà lưu thông tiền tệ trực tiếp

3.2.1 Hạn mức tín dụng

3.2.2 Hạn mức tái cấp vốn

 3.3. Công cụ điều hòa gián tiếp

 3.3.1. Lãi suất

 3.3.2 Dự trữ bắt buộc

 3.3.3. Tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn

 3.3.4. Nghiệp vụ thị trường mở.

 3.3.5. Thị trường tiền gửi

 3.3.6. Thị trường nội tệ liên Ngân hàng

 3.3.7. Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng

 3.3.8. Tỷ giá hối đoái.

 III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CÂN ĐỐI CUNG CẦU TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

 I. Cải thiện môi trường đầu tư trong nước

 II. Hoàn thiện chương trình kích cầu

 III. Kiềm chế đẩy lùi hiện tượng đôla hóa

 IV. Củng cố hệ thống pháp luật.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc39 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1159 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp góp phần giải quyết vấn đề cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình hình bành trướng của chu kỳ tăng nhanh, nhưng do một vài sự tăng lên đó là tạm thời, nên thu nhập dài hạn bình quân không thay đổi quá nhiều. Như vậy, trong giai đoạn phồn vinh thu nhập thường xuyên tăng lên rất íthơn so với thu nhập. Trong giai đoạn suy thoái nhiều thu nhập sụt xuống tạm thời, thu nhập dài hạn bình quân giảm xuống ít hơn thu nhập. Một hàm ý của cách sử dụng của Friedman về khái niệm thu nhập thường xuyên như là một yếu tố quyết định cầu tiền tệ là cầu tiền tệ sẽ không biến động nhiều cùng với các chuyển động của chu kỳ kinh doanh Một cá nhân có thể giữ của cải dưới nhiều hình thức tiền Friedman sắp xếp chúng thành 3 loại tài sản:trái khoán ,cổ phiếu , hàng hoá. Những động lực thúc đẩy giữ những tài sản đó hơn là tiền được thể hiện bằng lợi tức dự tính về mỗi tài sản đó so với lợi tức dự tính về tiền . Lợi tức dự tính về tiền ( rm ) thể hiện trên 3 số hạng rb –rm , re-rm , Pe-rm , bị ảnh hưởng bởi hai nhân tố: - Các dịch vụ do ngân hàng tiến hành đối với các khoản tiền gửi bao gồm trong cung tiền tệ ,chẳng hạn như số tiền thu được dưới hình thức các séc đã bị huỷ hoặc tự động trả tiền các tín phiếu ...Khi những dich vụ này tăng lên , lợi tức dự tính về giữ tiền mặt tăng lên . -Trả lãi cho số dư tiền mặt . Tài khoản hiện tại và các tiền gửi khác được gồm vào trong cung tiền tệ thường xuyên trả lãi . Do những việc trả lãi tăng lên , lợi tức dự tính về tiền tăng lên. Các số hạng rb-rm , re- rm ,biểu thị cho lợi tức dự tính về trái khoán ,cổ phiếu với lợi tức dự tính về tiền . Vì chúng tăng lên nên lợi tức dự tính tương đối về tiền giảm xuống , và cầu tiền tệ giảm xuống .chúng tăng lên và như vậy là bằng tỉ lệ lạm phát dự tính Pe . Khi Pe-rm tăng lên thì lợi tức dự tính về hàng hoá so với tiền tăng lên và cầu tiền tệ giảm xuống . Số hạng sau cùng Pe- rm biểu thị lợi tức dự tính về hàng hoá so với tiền dự tính về dữ hàng hoá là tỉ lệ dự tính của khoản lợi về vốn phát sinh khi giá cả của bằng lợi tức dự tính về mỗi một tài sản đó so với lợi tức dự tính về tiền . B/ Mức cung tiền. I.Khái niệm Mức cung tiền tệ là lượng tiền được cung ứng nhằm thoả mãn các nhu cầu giao dịch , chi trả và dự trữ của các doanh nghiệp , chính phủ và cá nhân . Nó được thể hiện dưới hình thức tiền mặt , tiền gửi ngân hàng và các tài sản tài chính khác . II. Thành phần của mức cung tiền tệ Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng (Mo) Mo là lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng phục vụ cho nhu cầu giao dịch thường xuyên của các chủ thể kinh tế trong xã hội . Mo là bộ phận tiền có tính lỏng cao nhất và đang có xu hướng giảm dần trong tổng lượng thanh toán . Tại các nước phát triển , bộ phận tiền mặt trong lưu thông chỉ chiếm khoảng 5-7% mức cung tiền tệ . Tại Việt Nam , khối tiền này giảm xuống còn khoảng 30% trong những năm gần đây . 2.Tiền giao dịch (M1) M1 là các khoản tiền được sử dụng trong giao dịch , nó được cấu thành từ 2 bộ phận : *Tiền mặt (C) là lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng , phục vụ cho nhu cầu thường xuyên của các chủ thể kinh tế trong xã hội . Tiền mặt giao dịch có hai loại : Tiền giấy hay còn gọi là giấy bạc ngân hàng , do NHTƯ phát hành được đưa vao lưu thông . Tiền kim loại là loại tiền được đúc bằng kim loại , thường đúc với tư cách lẻ để thuận tiện cho trao đổi với hành hoá , dịch vụ với mức giá cả khác nhau và sử dụng thanh toán tự động bằng máy . Tiền mặt được in và đúc theo quy định của luật pháp và tuân thủ các quy chế của chính phủ về việc phát hành tiền . Tất cả tiền mặt in và đúc chuẩn bị phát hành vào lưu thông đều được chuyển tới NHTƯ để bảo quản và chuẩn bị đưa vào lưu thông . *Tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi phát hành séc (D) là tiền gửi của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân kinh doanh gửi tại các ngân hàng thương mại . Mục đích của người gửi loại tiền này là dùng để thanh toán và chi trả hàng hoá và dịch vụ bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng . Lượng tiền giao dịch M1 là bộ phận linh hoạt , nó được sử dụng trong giao dịch thường xuyên và là đối tượng kiểm soát của NHTƯ : M1= C + D . 3. Tiền mở rộng (M2) Tiền cung ứng còn dược xác định theo thành phần tiền tệ M2 . M2 bao gồm M1 và các loại tiền gửi có kỳ hạn , tiền gửi tiết kiệm của công chúng gửi tại các tổ chức tín dụng . Mục đích người gửi loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền tiết kiệm thu nhập vì chúng thường có lãi cao hơn so với loại tiền gửi không kỳ hạn . M2= C+ D+ T trong đó T là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm của công chúng. M2 kém linh hoạt hơn so với M1 nhưng NHTƯ cần phải kiểm soát M2 vì tiền gửi có kỳ hạn là tiềm năng của tiền giao dịch . Giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn có thể hoán đổi cho nhau một cách dễ dàng , đặc biệt khi thị trường tiền tệ phát triển . Vì thế M2 được coi là khối tiền kiểm soát chính thức của NHTƯ . Cách phân chia M1 và M2 với các quốc gia trên thế giới là gần giống nhau , nhưng để kiểm soát và quản lí khối lượng tiền nhiều hơn nữa , đặc biệt ở các nước có thị trường tài chính phát triển thì người ta còn bổ sung thêm thành phần của tiền cung ứng như M1 , M2 ,..., M13 ... Tại Việt Nam , tỉ trọng tiền gửi có kỳ hạn trong M2 đang tăng lên nhanh chóng , tăng lên trên 41% năm 1997 và trên 50% tổng phương tiện thanh toán năm 1998 , phản ánh tôc độ tiền tệ hoá nền kinh tế đang tăng lên . 4.Tiền tài sản (M3) M3= M2 + các giáy tờ có giá M3 = C+ D+ T+ MMF trong đó MMF là các chứng từ có giá được coi như tiền hoặc các tài sản khác có thể chuyển hoá thành tiền . Các nước có thể có cách phân chia M3 khác nhau . Ví dụ :* Tại Mỹ , ngoài M1 , M2 còn quy định M3 ,L : - M3 bao gồm : M2 và tiền gửi có thời hạn với một khối lượng lớn hợp đồng mua lại dài hạn ,.... L bao gồm M3 và các giấy tờ có giá ngắn hạn... *Tại Anh , tiền cung ứng được phân chia thành các thành phần M0= C+ R M1= C+ D III. Nhân tố ảnh hưởng lượng tiền cung ứng. 1.Tỉ lệ dự trữ bắt buộc Nếu tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn tăng trong khi các yếu tố khác không đổi , thì hệ số mở rộng tiền tệ sẽ giảm , dẫn đến lượng tiền cung ứng giảm và ngược lại . Như vậy lượng tiền cung ứng có tương quan tỉ lệ nhgịch với tỉ lệ dự trữ bắt buộc . 2.Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn của NHTƯ Khi NHTƯ thực hiện việc mua bán các giáy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường sẽ làm tăng cơ số tiền tệ , dẫn đến tăng lượng tiền cung ứng . Khi NHTƯ thực hiện nghiệp vụ bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường thì sẽ làm giảm cơ số tiền tệ dẫn đến giảm lượng tiền cung ứng . 3.Lãi suất tái chiết khấu: Khi NHTƯ tăng lãi suất tái chiết khấu, dẫn đến giảm số tiền vay tái chiết khấu, làm giảm lượng tiền cung ứng . Ngược lại khi NHTƯ giảm lãi suất chiết khấu dẫn đến các ngân hàng thương mại tăng tiền vay từ NHTƯ,hay khi NHTƯ giảm lãi suất tái chiết khấu thì có khả năng ảnh hưởng đến làm lãi suất thị trường taưng dẫn đến tăng lượng tiền cung ứng. Như vậy lượng tiền cung ứng có tương quan tỷ lệ nghịch với lãi suất tái chiết khấu . 4.Của cải xã hội Khi của cải xã hội tăng lên tức là tăng sản lượng hàng hoá đưa vào lưu thông dẫn đến tăng câù về tiền, đòi hỏi cung tiền tăng tương ứng. ngược lại, khicủa cải của xã hội giảm làm giảm cung tiền. Như vậy lượng tiền cung ứng có tương quan tỷ lệ thuận với của cải xã hội. 5. Hoạt động bất hợp pháp trong xã hội. Một nền kinh tế có nhiều hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, trốn thuế thìlượng tiền cung ứng giảm và ngược lại. 6.Lãi suất tiền gừi không kỳ hạn. Khi lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tăng thì xảy ra sự chuyển đổi từ tiền mặt sang tiền gửi, người gửi tiền sẽ có lợi hơn. Vì vậy làm cho tỷ lệ C/D giảm, dẫn đến tăng hệ số mở rộng tiền tệ.Tiền cung ứng tăng và ngược lại.Lượng tiền cung ứng có tương quan tỷ lệ thuận với lãi suất tiền gửi không kỳ hạn . 7.Sự mất an toàn của các tổ chức tín dụng Sự không ổn định của các tổ chức tín dụng biểu hiện bằng khả năng chi trả khó khăn , người gửi rút tiền mặt, dẫn đến hệ số mở rộng tiền tệ giảm làm cho lượng tiền cung ứng giảm và ngược lại, nếu hoạt động của các tổ chức tín dụng ổn định ,có uy tín thì lượng tiền cung ứng sẽ tăng. Như vậy lượng tiền cung ứng có tương quan tỷ lệ nghịch với sự không ổn định của các tổ chức tín dụng. 8.Dự đoán việc rút tiền của khách hàng. Các ngân hàng thương mại dự đoán khách hàng gửi tiền và rút tiền gửi nhiều hơn trước thì họ phải tăng dự trữ dư thừa,tỷ lệ ER/D tăng,dẫn đến hệ số mở rộng tiền giảm,lượng tiền cung ứng giảm và ngược lại. Như vậy,lượng tiền cung ứng có tương quan tỷ lệ nghịch với dự đoán việc rút tiền gửi của khách hàng với ngân hàng thương mại 9 .Lãi suất thị trường Khi lãi suất thị trường tăng,chi phí cơ hội của việc nắm giữ dự trữ dư thừa của ngân hàng thương mại tăng,dẫn đến tỷ lệ ER/ D giảm,hệ số mở rộng tiền tệ tăng ,lượng tiền cung ứng tăng.Mặt khác,khi lãi suất thị trường tăng,lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ không đỏi,làm tăng lợi ích của việc vay tiền từ NHTƯ ,dẫn đến ngân hàng thương mại vay tiền của NHTƯ nhiều,làm cho tiền cung ứng tăng. Phần hai - Cân đối cung cầu tiền tệ ở việt nam I.Thực trạng nền kinh tế Việt nam 1.Tốc độ tăng GDP liên tục giảm sút Sau những năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường , nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể.Ta có thể nhận thấy điều đó qua dãy số liệu sau: Năm 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 % GDP tăng 3,7 4,8 8,1 5,3 6,1 8,6 7,9 8,5 9,5 9,3 8,2 Tuy nhiên,trong thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng bị chững lại và có chiều hướng giảm,bắt đầu từ năm 1997 Năm 1996 1997 1998 1999 % GDP tăng 9,3 8,2 5,8 4,8 Sự sút giảm nhẹ sau đó tăng dần của GDP chothấy nền kinh tế của nước ta đang lâm vào tình trạng suy thoái.Đặt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới,sự giảm sút đó do những nguyên nhân khách quan sau: - Chu kỳ kinh tế là biến động lên xuống của thu nhập quốc dân.Thực tế GDP theo thời gian được lặp đi lặp lại có tính chu kỳ.Những biến động lên thể hiện nền kinh tế tăng trưởng,những biến động xuống thể hiện nền kinh tế đang chững lại và giảm dần;tạo nên những chu kỳ kinh tế của nền kinh tế mỗi quốc gia.Có thể nhìn nhận chu kỳ kinh tế thực tế của Việt Nam như sau: Trong suốt 10 năm chuyển sang nền kinh tế thị trường,do việc định hướng đúng đắn và đổi mới về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước,cùng với chính sách mở cửa kinh tế,tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã liên tục tăng từ 3,7% năm 1987 lên 9,5% năm 1995 . - Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á từ tháng 6 năm 1997,một loạt các nước Đông Nam á bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính,tiền tệ bắt đầu từ Thái lan ,sau đó lan rộng ra Malayxia,Inđônêxia, Philippin,Hồng kông và sau đó là Hàn quốc và Nhật bản. Hậu quả của cuộc khúng hoảng tài chính tiền tệ là sự phá giá lớn của đồng tiền các nước trong khu vực so với USD ,ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư trong khu vực Đông Nam á. Nhìn từ nội bộ nền kinh tế nước ta,có thể thấy những nguyên nhân chủ quan sau:sản suất nông nghiệp,công nghiệp,dịch vụ giảm sút có thể khẳng định là do sản phẩm làm ra khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho cả 3 ngành Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp quá nho lẻ,cung vượt quá cầu,hàng hoá nông sản bị ế ẩm .Sản phẩm công nghiệp khó kiếm được thị trường do cạnh tranh kém;còn ngành dịch vụ do sự đầu tư không hợp lý dẫn đến sự bất cập về cung cầu . 2.Tiêu dùng xã hội trì trệ và giảm sút. Sự giảm sút tỉ lệ tăng trưởng của toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân năm 1996 đã tạo ra tâm lý lo lắng cho hộ gia đình,gây trở ngại cho đầu tư tư nhân.Thêm vào đó,ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á vừa qua làm tăng thêm sự hoài nghi và tâm lý dự báo.kết quả là các gia đình quyết định tiết kiệm nhiều hơn và chi tiêu ít hơn để đảm bảo cuộc sống.vì lý do đó tiêu dùng xã hội giảm sút. 3.Chỉ số giá CPI và lạm phát Trong 10 năm đổi mới,nước ta đã có nhiều thành tựu trong việc kiềm chế lạm phát. Trước năm 1986 ,có thể tính từ 1981 – 1985 ,bình quân mỗi năm lạm phát là 150% Năm 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 Tỉ lệ lạm phát(%) 700 412 410 34 67 67,5 17 5,3 4,7 12,5 Cho đến năm 1995,tốc độ tăng GDP là 9,5% và tỷ lệ lạm phát là 12,5% .Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng,đó là những con số được mong muốn .Tuy nhiên,sự giảm sút GDP năm 1996 cũng kéo theo sự giảm xuống của lạm phát,gây trở ngại cho nền kinh tế Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Chỉ tiêu tăng trưởng GDP (%) 9,8 8,2 5,8 4,8 5,5-6 Tỉ lệ lạm phát (%) 4,5 3,6 9,2 0,2 < 0 4.Đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài giảm mạnh Tỷ lệ tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân giảm mạnh.Sự giảm sút này còn bị đẩy nhanh do cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa hàng hoá nhập khẩu và các sản phẩm của khu vực Nhà nước,khu vực luôn được sự nâng đỡ của chính phủ và do cạnh tranh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài . Việc triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp ,bước đầu đã tạo khí thế mới cho nền kinh tế. Trong quý I năm 2000 đã có 1656 doanh nghiệp mới đang kí kinh doanh , tăng 65% so với cùng kỳ với số vốn đầu tư đăng kí khoảng 1300 tỉ đồng, tăng 25%, ngoài ra còn có hàng nghìn doanh nghiệp đăng kí mở rộng quy mô và đa dạng hoá nghành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I năm 2000 khoảng 250 triệu USD , xấp xỉ cùng kì năm ngoái . Doanh thu của khối đầu tư trực tiếp nước ngoài ước khoảng 1400 triệu USD , tăng 56% so với cùng kì năm ngoái. Về ODA , tính đến ngày 16-3 , số hiệp định được kí kết trị giá là 190,64 triệu USD. 5.Hoạt động ngoại thương gặp khó khăn . Hoạt động ngoại thương găp khó khăn liên tục trong những năm gần đây .Chỉ số tăng tổng gía trị xuất khẩu và nhập khẩu từ năm 1990 đến 1999 (%) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Năm Xuất khẩu Nhập khẩu 1990 123,5 107,3 1995 134,4 140,0 1991 86,8 84,9 1996 133,2 136,6 1992 123,7 108,7 1997 126,6 104,0 1993 115,7 154,4 1998 101,9 99,2 1994 135,8 148,5 1999 123,1 100,9 Tuy nhiên ,kim ngạch xuất khẩu tháng 3 năm 2000 đạt 1000 triệu USD , tăng 24% so với cùng kì năm trước .Tính chung cả quý I năm 2000 ước đạt 2940 triệu USD , tăng 33,8% so với quý I năm 1999.Kim ngạch nhập khẩu tháng 3-2000 ước đạt 1100 triệu USD , tăng 14,5% so với tháng 3 năm 1999. Tính chung cả quý I kim ngạch nhập khẩu ước gần 3155 triệu USD tăng 30% cùng kỳ năm1999 Việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế là yếu tố sống còn đối với các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Như vậy, qua những số liệu phân tích ở trên, chúng ta đã có một cái nhìn tổng thể về thực trạng nền kinh tế Việt Nam . Trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay , vấn đề cân đối cung cầu tiền tệ được xử lí như thế nào ? Đó là vấn đề chúng ta xem xét ở phần sau. II. Xử lý cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam . Từ tháng 10 năm 1990, với việc ban hành 2 pháp lệnh về ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng, NHNN Việt Nam với tư cách là NHTƯ hệ thống ngân hàng hai cấp ; đã mạnh dạn thay đổi phương pháp luận về cân đối cung cầu tiền tệ dựa trên tư duy cân đối thu chi tiền mặt qua hệ thóng ngân hàng , từng bước áp dụng phương pháp luận về cân đối cung cầu tiền tệ dựa trên tín hiệu thị trường. Vấn đề đặt ra là khảo sát cơ sơ lí thuyết và thực tiễn vận dụng phương pháp cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây: 1.Cốt lõi của cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam . Theo thuyết kinh tế học thị trường,để cân đối được cung cầu tiền tệ ,trước hết phải đo được lượng tiền trong chu chuyển kinh tế. Có nhiều trường phái về vấn đề này ,song trường phái đo lượng tiền trong chu chuyển kinh tế bằng 2 khối tiền hẹp và rộng,kí hiệu tương ứng là M1và M2 dựa trên tính lỏng của các tài sản tài chính là tương đối dễ chấp nhận và trong thực tế,nó được các tổ chức tài chính quốc tế sử dụng , công bố các số liệu báo cáo tình hình tài chính tiền tệ của các nước trên thế giới. * Khối tiền hẹp M1 : là một tập hợp các phương tiện thanh toán tức thời phục vụ cho các hoạt động giao dịch xã hội . Nó gồm các tài sản tài chính có thể dùng để thanh toán ngay như tiền giấy ngân hàng, tiền đúc,tiền gửi không kỳ hạn M1=C + D trong đó : C là tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng D là tiền gửi không kỳ hạn . * Khối tiền rộng M2là một tập hợp các phương tiện thanh toán trong một thời hạn ngắn, thông thường là một năm trở lại . Nó bao gồm M1và một số tài sản tài chính có kỳ hạn một năm trở lại,chủ yếu là tài khoản tiền gửi ngắn hạn các tài sản thay thế cho tiền gửi như kỳ phiếu ngân hàng,tín phiếu khobạc,thương phiếu.... M2= C + D +T Vấn đề đặt ra là phải lựa chọn khối tiền tệ nào làm đối tượng xử lý cân đối cung cầu tiền .Trong thực tế,nhiều NHTƯ trên thế giới trong những năm 1970 , 1980 đều lựa chọn M1 làm đối tượng xử lý cân đối cung cầu tiền tệ .Tuy nhiên , thực tế lại là một thời điểm nào đó,nhu cầu sử dụng phương tiện thanh toán không chỉ được đáp ứng bằng các tài sản tài chính kỳ hạn ngắn thông qua con đường bán các tài sản đó hay do đến kỳ hạn thanh toán của chúng. Do vậy,NHTƯ của nhiều nước đã chọn M2 , khối tiền rộng làm khối tiền cơ sở. NHNN Việt Nam từ năm 1992 cũng lựa chọn M2 làm khối tiền cơ sở và định cho M2 tên gọi là tổng lượng phương tiện thanh toán . Khối tiền rộng bao gồm các loại tiền và các tài sản tài chính gần tiền. Theo sự phân loại của ngân hàng thế giới , các loại tiền là tiền lưu thông ngoài ngân hàng ( hoặc ngoài các tổ chức tín dụng). Tại Việt Nam hiện nay, tiền lưu thông ngoài ngân hàng chỉ gồm có các loại giấy bạc ngân hàng. Ngoài ra,tiền gửi không kỳ hạn cũng được coi là tiền lưu thông ngoài hệthống ngân hàng. Vì xét trên mức độ thanh khoản thì tiền gửi không kỳ hạn không thua kém gì tiền lưu thông ngoài ngân hàng. Các tài sản tài chính bao gồm vào M2 là tiền gửi tài khoản, tiền gửi có kỳ hạn ngắn, thay thế tiền gửi, tiền gửi ngoại tệ, một số tài sản tài chính khác. Tháng 9 năm 1994, theo kết quả nghiên cứu của ngân hàng thế giới thì lượng tiền trong chu chuyển kinh tế của Việt Nam như sau: Tóm tắt khảo sát tiền tệ Việt Nam 1989-1994 ( tỷ đồng ) Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1. M1 3395 5071 8817 14556 19014 26123 Tiền lưu thông ngoài NH 2352 3735 6491 10579 14218 17318 Các khoản gửi yêu cầu 1043 1336 2398 3971 4976 4305 2. Chuẩn tiền 3446 5948 11175 12333 13200 16807 Tiền gửi tài khoản 1357 2365 2815 3822 3250 4589 Thay thế tiền gửi 6 298 2544 3624 Tiền gửi ngoại tệ 2089 2583 8345 8213 7306 8594 3. Khác 580 340 311 260 74 49 4. M2 7421 11359 20303 27143 32288 38479 Lấy M2 làm đối tượng xử lý cân đối cung cầu tiền tệ ở Việt Nam, đặt ra cho NHNN Việt Nam nhiệm vụ phải thoả mãn được yêu câù của quy luật lưu thông tiền tệ, tức là phải bằng mọi cách thoả mãn nhu cầu sử dụng tiền của xã hội và đạt đến cung cầu tiền tệ cân bằng, tức là: MD = MS, trong đó MD là tổng cầu tiền MS là tổng cung tiền Cầu tiền của xã hội luôn là một đòi hỏi khách quan, còn cung tiền là biến số phải thích ứng với cầu tiền và cung ttiền có thể được điều khiển bởi con người thông qua cơ chế điều hành việc cung ứng tổng lượng phương tiện thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng và cơ chế điều hoà lượng tiền hiện hữu trong chu chuyển kinh tế. 2.Cơ chế cung ứng tổng lượng phương tiện thanh toán ở VN. Trước hết , NHNN phải dự tính mức cung ứng tổng lượng phương tiện thanh toán của kỳ kế hoạch, thông thường là năm kế hoạch. Để có tổng lượng phương tiện thanh toán kế hoạch thì ta phải dựa trên tổng lượng phương tiện thanh toán hiện hữu tại thời điểm dự tính , sau đó xét đến hai yếu tố làm tăng , giảm đại lượng này ở kỳ kế hoạch là tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tốc độ trượt giá hay là tốc độ tăng lạm phát (P ). * Tổng sản phẩm quốc nội là yếu tố quyết định cơ bản đối với sự tăng, giảm tổng lượng phương tiện thanh toán. Tổng sản phẩm quốc nội tăng sẽ đòi hỏi có nhiều phương tiện thanh toán hơn để thực hiện chúng. Tổng sản phảm quốc nội giảm, tổng lượng phương tiện thanh toán đương nhiên giảm tương ứng * Tốc độ tăng lạm phát cũng như tổng sản phẩm quốc nội, là thuận tiện với đại lượng tổng lượng thanh toán . Lạm phát tăng có nghĩa giá cả sản phẩm, dịch vụ tăng, vì vậy cần có nhiều tiền hơn. Ngược lại, nếu giảm phát thì tổng lượng phưong tiện thanh toán sẽ giảm. * Dựa vào mối quan hệ thuận biến của tổng sản phẩm quốc nội lạm phát với tổng lượng phương tiện thanh toán, ta có công thức tính tổng lượng phương tiện thanh toán kỳ kế hoạch: MSkh= MStt + MStt(%GDPkh + %Pkh ) trong đó: MSkh :tổng lượng cung ứng tiền kế hoạch MStt :tổng lượng tiền thực tế %GDPkh :tốc độ tăng trưởng GDP kế hoạch %Pkh : tốc độ tăng lạm phát * Việc cung ứng tổng lượng phương tiện thanh toán cho xã hội ở nước ta hiện nay do nhà nước điều khiển qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng đứng đầu là NHNN Việt Nam. Trong đó, phần cung ứng phương tiện thanh toán do NHNN trực tiếp thực hiện và chiếm vị trí cơ bản, nền tảng . Phần tiền này là tiền cơ sở, MB : MBkh = Ckh + Rkh Như chúng ta đã biết để thoả mãn nhu cầu sử dụng tiền của xã hội, ngoài phần tiền do NHNN trực tiếp tạo ra và trực tiếp cung ứng, thì còn có phần tiền do các tổ chức tín dụng(các NHTM,kho bạc nhà nước,các ngân hàng chuyên doanh, quỹ tín dụng nhân dân...). Cung ứng của các tổ chức này dựa vào nền tảng của NHNN, thông qua các nghiệp vụ cho vay, đầu tư mà làm cho tổng lượng phương tiện thanh toán cung ứng cho xã hội vượt quá phần tiền do NHNN cung ứng. Do vậy ,ta dùng hệ số tạo tiền “m” để phản ánh khả năng tạo tiền của các tổ chức tín dụng: * Một khâu quan trọng của cơ chế cung ứng tiền của NHNN Việt Nam là phải dự kiến, phân bổ số phương tiện thanh toán tăng thêm của kỳ kế hoạch so với kỳ hiện tại. NHNN Việt Nam đã lựa chọn phương án phân bổ dựa trên quan điểm là không dùng tiền phát hành để bù đắp bội chi ngân sách mà chỉ dùng để hỗ trợ hoạt động tín dụng thông qua các tổ chức tín dụng và để mua thêm ngoại tệ hỗ trợ cho quỹ dự trữ ngoại tệ của NHNN Việt Nam. * Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác định một tỷ lệ thích hợp giữa phần tiền tăng thêm ở kỳ kế hoạch dùng cho hoạt động tín dụng và phần tiền tăng thêm dùng để mua ngoại tệ. Đây là một việc khó và NHNN còn đang mò mẫm, nhưng chắc chắn phần tiền tăng thêm kỳ kế hoạch dùng cho hoạt động tín dụng ngân hàng phải thường xuyên chiếm tỷ trọng áp đảo. Bởi lẽ, GDP hàng năm ở nước ta gia tăng với tốc độ cao. Năm 1996 là 9,3%; năm 1997 là 8,2%; quý I năm 1998 là 1998 là 6,5%; quý I năm 1999 là 4,1%; quý I năm 2000 là 5,56%. Chỉ số lạm phát hàng năm còn tăng đáng kể. Quý I năm 1998 là 2,9%; quý I năm 1999 là 2,9%; quý I năm 2000 là 0,8%. Vì vậy, đòi hỏi các tác nhân kinh tế có thêm nhu cầu về phương tiện thanh toán và từ đó yêu cầu vay mượn ngân hàng sẽ tăng. Nó tất yếu kéo theo sự gia tăng cung ứng phương tiện thanh toán từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, cũng như từ phía NHNN Việt Nam: Cùng với sự gia tăng hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá- dịch vụ nước ngoài, sự gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sự gia tăng kiều hối chuyển từ nước ngoài về, NHNN cần có thêm nội tệ để mua ngoại tệ đến từ các nguồn đó để bổ sung lực lượng dự trữ ngoại tệ, đáp ứng sự tăng không ngừng của nền kinh tế quốc dân. Thời gian QuýI-1998 QuýI-1999 QuýI-2000 Nhịp tăng GDP (% ) 6,5 4,1 5,56 Nhịp tăng giá trị sản xuất CN (% ) 13,1 10,3 13,4 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD ) 2404 2197 2939 Nhịp tăng xuất khẩu (% ) 22,6 8,6 33,8 Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD ) 2808 2434 3155 Nhịp tăng nhập khẩu (% ) 3,2 13,3 29,6 Tỷ lệ nhập siêu/kim ngạch XK(%) 16,9 10,8 7,3 Vốn FDI thực hiện (triệu USD ) 450 250 250 Lạm phát ( %) 2,9 2,9 0,8 Kết luận : Việc sử dụng phương tiện thanh toán tiền mặt ở Việt Nam hiện nay và trong một số năm tới đây vẫn còn cao. Do vậy, NHNN Việt Nam đã và sẽ chú trọng tính toán phần tổng lượng phương tiện thanh toán tiền mặt tăng thêm kỳ kế hoạch để phục vụ cho nghiệp vụ phát hành giấy bạc ngân hàng kỳ kế hoạch, đảm bảo xã hội có đủ tiền mặt , tránh được khiếm quyết khan hiếm tiền mặt giả tạo như đã xảy ra ở nước ta vào những năm của thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ 20 . 3.Cơ chế điều hoà lưu thông tiền tệ ở Việt Nam Nếu như cơ chế cung ứng phương tiện thanh toán là quan trọng vì nó tạo ra cơ sở cho việc đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của xã hội ,thì việc điều hoà lưu thông tiền tệ cũng rất quan trọng vì nó đảm bảo biến những ý đồ xử lý cân đối cung cầu tiền tệ trở thành hiện thực ,góp phần thiết thực ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam,phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nước ta hiện nay cũng như sau này. 3.1.NHNNViệt Nam thiết lập một hệ thống các chỉ báo thị trường Trước hết,NHNN Việt Nam đã dần dần thiết lập được một hệ thống các chỉ báo thị trường,thường xuyên tổng hợp và phân tích các chỉ báo đó nhằm rút ra những nhận địn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0684.doc
Tài liệu liên quan