Đề tài một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn I

Nhà nước là cơ quan quản lí cao nhất của xã hội, đặt ra những quy tắc xử sự chung. Nhà nước quản lí xã hội chủ yếu bằng pháp luật, đề ra, theo dõi sự thực hiện pháp luật của nhân dân. Trên mọi lãnh vực của cuộc sống đều cần có sự điều chỉnh của pháp luật để tạo lập trật tự, công bằng và bảo đảm quyền lợi chính đáng của con người.

Trên lãnh vực ngoại thương,các chính sách chủ trương của nhà nước trước hết tác động đến người làm xuất nhập khẩu, sau đó tác động đến người sản xuất, và người tiêu dùng, tức đã ảnh hưởng không ít thì nhiều tới mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nếu nhà nước thực hiện bảo hộ mậu dịch, không khuyến khích nhập khẩu, thì nhập khẩu giảm xuống, sản xuất thay thế nhập khẩu phải tăng lên, và đối với nghề ngân hàng sẽ là một thời kì ảm đạm, các món thanh toán quốc tế sẽ theo đó mà sút giảm tương ứng.

Nếu nhà nuớc chủ trương mở cửa, thúc đẩy giao lưu kinh tế, việc trao đổi thương mại sẽ nhộn nhịp và thanh toán quốc tế sẽ trở thành một khu vực sôi động trong nghề ngân hàng.

 

doc73 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt. Nhà nhập khẩu có thể ký quỹ bé hơn 100% tổng giá trị hợp đồng, như vậy đã tranh thủ được tín dụng của ngân hàng. Họ có thể tìm đối tác mua bán bằng uy tín của ngân hàng, thể hiện ở cam kết thanh toán của ngân hàng phục vụ mình. + Ngân hàng - Đối với ngân hàng thì đây là một hoạt động thu phí, tạo thu nhập cho ngân hàng, và là một nhân tố tạo điều kiện cho ngân hàng thắng trong cạnh tranh. ít rủi ro. Nói như vậy, và ngân hàng chỉ là một trung gian thanh toán, thanh toán bằng tiền của khách hàng là chủ yếu. Tất nhiên không phải không co rủi ro, rủi ro nằm ở chỗ, nếu kí quỹ bé hơn 100% mà khách hàng chưa thanh toán cho ngân hàng đã bị phá sản, thì ngân hàng phải thực hiện thanh toán theo cam kết thực sự của mình trong thư tín dụng, hoặc các lỗi từ chối chứng từ bất hợp lệ, khách hàng không thanh toán và ngân hàng bị ngân hàng bạn ghi nợ tài khoản -Điểm ưu việt của phương thức này là ở chỗ, khớp được thời hạn trả tiền và giao hàng giữa hai bên mua bán từ đó được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. 2.7.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng phương thức DC. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng phương thức này phụ thuộc vào nhiều vấn đề liên quan, vì đây là một quy trình máy móc, phức tạp, yêu cũng xử lý khối lượng chứng từ lớn, phải có sự tham dự của nhiều các cơ quan khác của chính quyền: phòng thương mại, nhà vận chuyển, nhà bảo hiểm..Tuy nhiên, có một số vấn đề ảnh hưởng chủ yếu đến hiệu quả sử dụng phương thức này như sau: 2.7.2.1. Các vấn đề sử dụng UCP 500 UCP là văn bản được coi là văn bản quy tắc quốc tế do ICC (Phòng Thương mại quốc tế - trụ sở tại Paris) ấn hành, và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Nó được coi như một hành lang hoạt động cho giao dịch thanh toán quốc tế của các ngân hàng trong thực tiễn thương mại thế giới. Trong việc thanh toán L/C, các ngân hàng cần hiểu rõ và áp dụng các quy định này vào hành động của mình, tuy rằng không phải là việc đơn giản. UCP đã qua nhiều lần chỉnh sửa và hiện nay sau 5 lần chỉnh sửa UCP 500 là văn bản hoàn thiện và đầy đủ nhất, tuy vậy, UCP chỉ là một thông lệ chứ không thay thế được luật pháp quốc gia, vì vậy, việc sử dụng UCP cần phải phù hợp với luật nhà nước. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thanh toán quốc tế. Riêng Việt Nam, việc áp dụng UCP là duy nhất và không có dẫn chiếu gì đến luật Việt nam về mảng này. Đây là một điều khác của Việt Nam với các nước trong việc áp dụng UCP. Như vậy, muốn sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trước hết phải thông hiểu và vận dụng linh hoạt UCP vào thực tế từng món thanh toán, đây là cẩm nang dành cho những ai cóliên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và thực hiện dịch vụ thanh toán. 2.6.2.2. Về phía nhà xuất khẩu: Nhà xuất khẩu nên hiểu biết về tín dụng chứng từ và xác định đây chỉ là điều kiện phương thức thanh toán trong số rất nhiều các điều kiện của hợp đồng mua bán. Muốn được thanh toán nhà xuất khẩu phải hiểu cách lập và hoàn thành bộ chứng từ hoàn hảo (không có các điều kiện bất hợp lệ), xuất trình đúng thời gian, đúng địa chỉ để được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Việc lập chứng từ thường đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có mối quan hệ tốt đối với các cơ quan cấp phép chứng nhận, cũng như lựa chọn nhà vận chuyển,bảo hiểm phù hợp. Quan trọng hơn, nhà xuất khẩu phải chuẩn bị hàng hoá và cung ứng dịch vụ với thiện chí cao nhất để hoàn thành hợp đồng mua bán đã định và đó chính là cơ sở vững chắc nhất cho một món thanh toán thành công. 2.6.2.3. Nhà nhập khẩu: Một hoạt động mua bán có hiệu quả không chỉ là thiện chí của bên bán mà còn cần cả thiện chí của bên mua hàng, đó là thiện chí nhận hàng theo hợp đồng và thanh toán theo hoá đơn (hối phiếu đòi tiền). Như đã phân tích thì thanh toán là về thứ hai hoàn thành một giao dịch hàng_ tiền, vì vậy trao đổi hàng hoá là cơ sở của việc thanh toán tiền tiếp theo sau. Nhà nhập khẩu phải hiểu về phương thức tín dụng chứng từ để mở một thư tín dụng với các điều khoản phù hợp, và đây chính là linh hồn của phương thức tín dụng chứng từ. Thư tín dụng là cơ sở để đối chiếu chứng từ xuất trình để được thanh toán và một thư tín dụng sẽ là cản trở cho việc thanh toán nếu chứa trong nó nhiều điều khoản tối nghĩa, mập mờ hoặc gây nhầm lẫn, và hiểu theo hai cách hoặc quá chi tiết khiến cho việc hoàn thành chứng từ của đối phương là không thể đạt được. Tuy nhiên nhà nhập khẩu cần lưu ý rằng phương thức tín dụng chứng từ là đảm bảo trả tiền với các điều kiện, điều khoản về bộ chứng từ, chứ không liên quan gì đến các gian lận về hàng hoá. Có nghĩa là, nếu nhà nhập khẩu nhận được hàng hoá hư hỏng và sai quy cách, thì không được phép yêu cầu ngân hàng phát hành ngừng thanh toán hoặc truy đòi thanh toán, mà nhà nhập khẩu lúc này sẽ khởi kiện nhà xuất khẩu trên cơ sở hợp đồng mua bán mà thôi. Và nếu không thắng kiện, thì lỗi là ở nhập khẩu đã chọn nhầm đối tác trong kinh doanh. 2.6.2.3. Về phía ngân hàng. Trong phương thức thanh toán này, ngân hàng đóng vai trò tương đối rõ nét so với các phương thức chứng từ, nhờ thu,.. ngân hàng sẽ là người mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, và như thế ngân hàng đã cam kết chăc chắn việc thanh toán chứ không phải là nhà nhập khẩu. Tất nhiên, nhà nhập khẩu trong thương vụ chính là người trả tiền cuối cùng và nhà nhập khẩu không thể viện cớ rằng mình không phát hành L/C để từ chối thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò thông báo về việc mở, tu chỉnh, huỷ bỏ L/C, xác nhận L/C nếu là ngân hàng được yêu cầu xác nhận, thực hiện việc tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và thanh toán. Có thể nói, trong phương thức này, vai trò của ngân hàng thể hiện rõ nhất ở khâu tiếp nhận và khâu kiểm tra chứng từ. Tuy nhiên ngân hàng không phải là người nhập khẩu, bởi vậy việc kiểm tra chứng từ là công việc mang tính chất máy móc và ngân hàng sẽ thực hiện theo cái gọi là thực hành ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế. Vì không hiểu rõ về hàng hoá cũng như chi tiết dịch vụ cung ứng, ngân hàng sẽ kiểm tra như thế nào? Ngân hàng kiểm tra "trên bề mặt chứng từ" và chỉ trên chứng từ mà thôi - ngân hàng sẽ xác định mức độ phù hợp của bộ chứng từ, và phát hiện các bất hợp lệ nếu có, vai trò của ngân hàng chỉ là người giám sát chứng từ, trên cơ sở chứng từ và sẽ không chịu trách nhiệm gì về việc gian lận thương mại giữa hai bên. Tuy vậy, trong phương thức này, ngân hàng sẽ quan hệ với nhà nhập khẩu như một người trả tiền hộ hoặc là người cấp tín dụng để nhập hàng, việc cấp tín dụng là ở chỗ ngân hàng, theo thẩm định của mình, sẽ quyết định mức ký quỹ cho khách hàng của mình có thể 100% hoặc 30%, 15% và 0% đối với các khách hàng có uy tín trong thanh toán, quan hệ lâu dài và tin cậy, như vậy ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán, mà đã tham gia cấp tín dụng và sẽ chịu rủi ro nào đó nếu khách hàng yêu cầu mở L/C của mình phá sản. Nêú là ngân hàng chiết khấu, ngân hàng sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán và sẽ thu tiền lại từ ngân hàng phát hành. Như vậy, khẳng định rằng ngân hàng nắm một vai trò chủ động trong việc thanh toán và nếu ngân hàng không có uy tín thì không thể tham gia thanh toán và buộc khách hàng phải tổn phí xác nhận. Ngân hàng mở L/C phải có công nghệ ngân hàng phát triển, máy móc đầy đủ để có thể liên lạc nhanh chóng và chính xác đến các bên trong khoảng thời gian cho phép. Không chỉ thế, hiệu quả trong việc thanh toán, phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên, đặc biệt là kinh nghiệm trong xử lý chứng từ để tránh gặp sai phạm trong thanh toán. Ví dụ ngân hàng có thể bỏ qua các lỗi chưa trở thành bất hợp lệ, hoặc phải phát hiện những bất hợp lệ để từ chối thanh toán đúng. Việc từ chối thanh toán vô căn cứ (sai) sẽ gây thiệt hại vốn, mất uy tín cho ngân hàng, và sẽ là hậu quả khó sửa chữa, bởi vì ngân hàng kinh doanh bằng uy tín của mình trên thương trường. 2.6.2.4. Sự ảnh hưởng của các nghiệp vụ khác trong ngân hàng. Thanh toán quốc tế là việc thanh toán có liên quan đến việc chuyển đổi đồng tiền giữa các quốc gia, bởi vậy nó quan hệ đến nguồn ngoại tệ của ngân hàng. Thông thường, nếu ngân hàng có thế mạnh về các ngoại tệ thường dùng trong thanh toán như USD, EURO,YEN.. thì nó sẽ thu hút được khối lượng lớn các khách hàng nhập khẩu. Việc khan hiếm ngoại tệ sẽ là cản trở lớn cho Ngân hàng và khách hàng thanh toán cho nước ngoài. Không chỉ thế, nghiệp vụ tín dụng nội tệ ngân hàng cũng là một nghiệp vụ tạo điều kiện cho thanh toán được trôi chảy, trong trường hợp khách hàng thiếu vốn thanh toán, khách hàng có thể vay vốn nội tệ (hoặc vay ngoại tệ nếu được phép) đã cho thanh toán. Rõ ràng, việc cấp tín dụng cho khách hàng đã tác động như thế nào tốt như thế nào đến việc chi trả cho người xuất khẩu . Chương II Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại sở gd ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn I 1. Vài nét về sở giao dịch nH nông nghiệp &phát triển nông thôn I và tổ thanh toán quốc tế. Theo quyết định QĐ 15 ngày 25/11/1990 của Tổng Giám đốc ngân hàng nhà nước, sở giao dịch I được hình thành với chắc năng là nơi thí điểm các chức năng nhiệm vụ theo lệnh của trung ương trước khi đưa vào chính thức triển khai. Địa bàn hoạt động của Sở giao dịch I là thành phố Hà Nội với số khách hàng ban đầu là 7 , dư nợ 800 triệu VND. Tuy Sở giao dịch I được quyết định thành lập ngày 25/11/1991, nhưng Sở đã đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 1991. Đến QĐ 198/QĐ - NH5 (2/6/1998) của thống đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam quyết định thành lập các đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Ngân nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam thì Sở giao dịch được gọi tên chính thức là Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I, gọi tắt là Sở giao dịch I. Sở giao dịch I là pháp nhân tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh và các cam kết của mình, có bảng tổng kết tài sản và con dấu riêng, hoạt động trong khuôn khổ luật nhà nước, điều lệ ngân hàng nông nghiệp và quy định của bản thân Sở giao dịch. Kể từ bước khởi đầu đến nay, Sở giao dịch I đã có một quá trình phát triển với nhiều khó khăn không chỉ của ngành ngân hàng Việt Nam non trẻ nói riêng mà còn của cả nền kinh tế Việt Nam nói chung - mặc dù vậy, qua Sở lịch sử hơn 10 năm tồn tại và phát triển của mình, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp I đã luôn được đánh giá cao về những kết quả thuộc thành tựu nổi bật Sở giao dịch I được đánh giá là một trong những đơn vị hoạt động thành công nhất trong hệ thống, và luôn có những tìm tòi, sáng tạo để hoà nhập với nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Trụ sở của sở giao dịch I đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch - quận Đống Đa - thành phố Hà Nội. Sở giao dịch I có 1 chi nhánh ở Tây Sơn - và các phòng giao dịch trên khắp địa bàn Hà Nội. Với lợi thế của một khu vực đông dân cư, là trung tâm chính trị , văn hoá, kinh tế của cả nước, hoạt động kinh tế sôi động và có sự tập trung đông đảo của các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, Sở giao dịch I đã thu hút được lượng khách hàng tương đối đông đảo. Hệ thống mạng lưới các phòng giao dịch rộng khắp trên địa bàn giúp Sở giao dịch I phục vụ được khách hàng một cách nhanh chóng thuận tiện lợi nhất, theo phương châm " nhiều người lo hơn một người lo". Trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp, Sở giao dịch I luôn được coi là đơn vị tiên tiến và thực hiện xuất sắc các mục tiêu đề ra. Với số lượng cán bộ là 237 người, hoạt động của Sở giao dịch I luôn được lên kế hoạch phân công phân cấp trách nhiệm cụ thể và khoa học để tận dụng tối đa hiệu quả làm việc của cán bộ công nhân viên ngân hàng. Sở giao dịch I vận dụng hình thức chấm điểm và đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng công nhân viên - bảng tự đánh giá sẽ được nhận xét bởi phụ trách phòng (trưởng phòng) và được dùng để đánh giá nhân viên trong công tác, kịp thời uốn nắn các sai phạm và vi phạm kỷ luật lao động, bổ sung các lỗ hổng kiến thức, từ đó có quyết định khen thưởng và xử lý vi phạm phù hợp và kịp thời. Hòa nhập với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng nước ta đang trong thời kỳ phát triển để tiến kịp với lịch sử nghề ngân hàng truyền thống của thế giới, và ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam không thể ngoài cuộc. Ngân hàng Nông nghiệp là ngân hàng thương mại quốc doanh có số vốn pháp định 2200 tỷ VNĐ, là 1 trong 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất đất nước và là ngân hàng duy nhất được tổ chức thành 4 cấp. Ngân hàng nông nghiệp Chi nhánh tỉnh, thành phố Chi nhánh quận, huyện Chi nhánh xã. Với mục tiêu phục vụ cho các ngành nghề nông, lâm, ngư nghiệp, ngân hàng Nông nghiệp coi trọng việc toả chi nhánh của mình đến tận cơ sở để hỗ trợ về vốn hiệu quả nhất cho nông ngư, lâm dân, Sở giao dịch hoạt động cũng theo định hướng đó. Sở giao dịch I hiện nay hoạt động với chức năng của một chi nhánh ngân hàng, là chi nhánh loại I của ngân hàng Nông nghiệp. Tuy nhiên với địa bàn hoạt động hiện nay của mình, Sở hướng tới các khách hàng là doanh nghiệp và cư dân trên địa bàn, các hợp đồng thầu vốn.. Sở đã đa dạng hoá các hoạt động của mình, nhanh nhạy tìm kiếm cơ hội và chủ động nắm bắt nhu cầu của dân cư qua các hình thức huy động tiết kiệm phù hợp. Sở phát hành các loại kì phiếu trả lãi trước, huy động tiết kiệm chiều tối, nhằm đáp ứng các nhu cầu của dân cư khi thời gian không cho phép họ đến ngân hàng vào giờ làm việc hành chính. Luôn linh hoạt và tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng trong mối quan hệ đến cạnh tranh và sống còn của Sở là nét làm cho Sở luôn nổi bật, và là lá cờ đầu trong hệ thống. Hiện tại, cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I được thể hiện như ở sơ đồ sau: Sơ đồ tổ chức Giám đốc Các P. giám đốc Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng kế toán ngân quỹ Phòng tổ chức hành chính Phòng giao dịch Tổ kiểm tra kiểm toán Phòng nguồn vốn Phòng tín dụng Tổ thanh toán quốc tế Như sơ đồ đã thể hiện, hiện nay tại Sở có các phòng nghiệp vụ riêng biệt, chuyên môn hoá trong nghiệp vụ của mình, nhằm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Tuy nhiên, giữa các phòng ban có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để hỗ trợ cho nhau trong công tác. Phòng kế hoạch kinh doanh là phòng quản lý chung về nghiệp vụ, trong đó có phòng nguồn vốn, chuyên trách về mảng huy động vốn, phòng tín dụng chuyên về mảng cho vay với các thành phần kinh tế và hộ gia đình, tổ thanh toán quốc tế chuyên về ngoại hối và dịch vụ thanh toán. Đây là phòng đặc trưng nhất nói lên vai trò của một ngân hàng, ngoài ra, Sở cũng có các phòng ban chức năng khác như Phòng tổ chức cán bộ, phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ của ngân hàng, các bộ phận giúp việc khác cho ngân hàng. Phòng kế toán ngân quỹ thực hiện các công việc kế toán cho ngân hàng và cho khách hàng, thực hiện các yêu cầu về tiền mặt như thu, chi tiền mặt, lập, quản kí sổ , tài khoản của khách hàng. Các phòng giao dịch của Sở trải khắp địa bàn Hà nội, là cơ sở cho chiến lược cạnh tranh thu hút khách hàng cho Sở. Tổ thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I hiện nay đang cung cấp các dịch vụ như: + Mua bán ngoại tệ giao ngay và kỳ hạn + Chuyển tiền thanh toán + Thanh toán nhờ thu + Thanh toán tín dụng chứng từ + Tư vấn khách hàng về thanh toán quốc tế, tiếp thị và cải tiến sản phẩm. Tuy vậy đối với Sở giao dịch I thì thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ mới mẻ, đội ngũ cán bộ thanh toán viên còn trẻ cả về tuổi đời và kinh nghiệm, và đang trong quá trình vừa làm vừa học hỏi. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế tuy chỉ bắt đầu từ 1998, nhưng khi vừa đưa vào hoạt động đã nhận được sự ủng hộ của khách hàng thể hiện qua doanh số hoạt động ngày càng tăng mạnh, chứng tỏ sự cần thiết của nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Đối với bản thân Sở giao dịch I đó là điều dễ hiểu, vì Sở giao dịch I phải thực hiện thanh toán quốc tế để phục vụ các khách hàng của mình, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường trong phạm vi hoạt động, tìm kiếm thu nhập và tiếp cận với thị trường ngân hàng thế giới. Phải nhìn nhận rằng thanh toán quốc tế không phải là thế mạnh của Sở giao dịch I, nhưng Sở giao dịch I sẽ không thể tồn tại nếu thiếu nghiệp vụ này trong xu hướng tiến tới mở cửa cho ngành ngân hàng - tài chính. Bởi vậy, mục tiêu của Sở khi đưa tổ thanh toán quốc tế vào hoạt động là làm - học - tìm cơ hội phát huy trong tương lai. Để đạt đến một kết quả ngang tầm, hoạt động thanh toán quốc tế còn cần nhiều những kinh nghiệm và trình độ mà không phải một sáng một chiều có thể làm được. Tổ thanh toán quốc tế hiện nay có 11 người và tuổi đời chưa ai quá 30, đó là một đội ngũ trẻ, năng động và lý thú với cái mới. 2. Hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở. 2.1. Các văn bản. Trong lúc hoạt động thanh toán quốc tế đã là một nghiệp vụ ngân hàng được triển khai thường xuyên đối với ngân hàng Ngoại thương thì đối với hệ thống ngân hàng Nông nghiệp,và Sở giao dịch I hoạt động này còn rất non trẻ. Cho đến thời điểm tháng 5/2002, hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở chỉ mới được hơn 4 năm. Đó là một thời gian ngắn, vừa tìm tòi học hỏi nghiệp vụ vừa hoà mình vào thị trường thanh toán đang phát triển sôi động. Đáp lời tờ trình số 41/SGD vào ngày 22/4/98, công văn số CV853/NHNo - 08 (27/4/98) của Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam đã cho phép Sở giao dịch I được phép hoạt động thanh toán quốc tế, cụ thể: - Tín dụng - Bảo lãnh ngoại tệ - Thanh toán quốc tế. - Mua bán ngoại tệ. Sau đó theo công văn số 489 - NHNo - 08 (24/3/99) cho phép chi nhánh thực hiện mở L/C thanh toán hàng nhập và tập trung các tài khoản thanh toán về trung tâm điều hành... Cùng các văn bản khác về qui chế thanh toán liên ngân hàng, quy chế bảo lãnh vay vốn nước ngoài, mở L/C trả chậm, các quy chế này đã tạo ra hành lang cho hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch và các chi nhánh được phát triển. Và cụ thể nhất là văn bản số 234/HĐQT - 08 của hội đồng quản trị của ngân hàng nông nghiệp đã ban hành các quyết định quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh ngoại hối trong hệ NHNo và PTNT Việt Nam, quy định cụ thể và chi tiết về nguyên tắc hoạt động cũng như các nghiệp vụ được phép tiến hành. Cũng như các ngân hàng thương mại khác tại Việt Nam, hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I áp dụng quy tắc thống nhất về tín dụng chứng từ, UCP 500 của Phòng Thương mại quốc tế. Việc áp dụng UCP 500 vào thực tiễn hoạt động thanh toán quốc tế của Sở hầu như không có điều chỉnh nào, và đây là điều khác không chỉ của Sở mà là của Việt Nam so với thế giới. UCP 500 chỉ là các nguyên tắc do ICC ấn hành, nhưng được áp dụng rộng rãi trên thế giới và trở thành khuôn mẫu cho hoạt động tín dụng chứng từ của các ngân hàng, những người làm việc liên quan tới phương thức tín dụng chứng từ như người nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Tuy vậy, UCP không phải là luật hoặc công ước quốc tế, bởi vậy khi xảy ra tranh chấp, việc giải quyết là theo luật quốc gia - Việt Nam chưa có bộ luật điều chỉnh về tín dụng chứng từ, khiến cho các chủ thể rất khó giải quyết đúng sai. Hiện nay, thực tiễn hoạt động ngân hàng cho thấy, các giấy tờ giao dịch giữa nhập khẩu khách hàng hiện nay tuy rất nhiều và rườm rà như giấy nhận nợ, giấy yêu cầu mở L/C, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ xuất khẩu... song các giấy tờ này đơn thuần là giấy tờ giao dịch và không thể hiện được ràng buộc giữa các bên. Như vậy, có thể nói Sở giao dịch I hiện nay triển khai hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ trong hoàn cảnh chung của các ngân hàng khác tại Việt Nam, đó là văn bản cho phép đã có nhưng chưa được quy định thật sự cụ thể và thông thoáng . 2.2. Quy trình thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch. Theo quy định số 447/QĐ - NHNo của Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam đã ban hành quy định về quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Đây là văn bản cụ thể, quyết định chi tiết cho hoạt động thanh toán quốc tế tại các chi nhánh của hệ thống và được triển khai áp dụng từ 1/7/2001. 2.2.1. Quy trình thanh toán thư tín dụng chứng từ nhập khẩu. 2.2.1.1. Mở, ký quỹ L/C, thông báo sửa đổi L/C. a. Khách hàng gửi ngân hàng bộ hồ sơ mở L/C gồm: - Thư yêu cầu mở L/C theo mẫu của ngân hàng nông nghiệp. - Bản sao có xác nhận sao y bản chính của văn bản. + Hợp đồng ngoại thương + Văn bản cho phép nhập khẩu (đối với ngành hàng có điều kiện) + Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh - đăng ký mã số xuất nhập khẩu (nếu là khách hàng giao dịch lần đầu). Ngân hàng tiếp nhận bộ hồ sơ mở L/C, ghi sổ theo dõi và kiểm tra - thanh toán viên sẽ không sửa chữa hoặc bổ sung các chi tiết vào thư mở L/C mà yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh nếu phát hiện mâu thuẫn hoặc sai sót. Thư mở L/C phải có chữ ký kế toán trưởng và chữ ký chủ tài khoản đơn vị. Trong vòng 8h làm việc, ngân hàng phải xác định mức ký quỹ mở L/C - khách hàng phải chuyển tiền vào tài khoản ký quỹ trước khi mở L/C - khoản tiền ký quỹ không được phép vay từ chính ngân hàng. Ngân hàng phải xem xét nguồn vốn thanh toán L/C của khách hàng là vốn tự có, hay vốn vay. Tuỳ trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng ký, đóng dấu sẵn đơn xin vay, giấy nhận nợ , nếu thanh toán bằng vốn vay thì để trống ngày nhận nợ. Ngày ngân hàng thanh toán bộ chứng từ là ngày hạch toán nhận nợ vay được ghi vào giấy nhận nợ. b. Ngân hàng mở L/C: Thanh toán viên sau khi chấp nhận mở L/C cho khách hàng sẽ: - Đăng ký số tham chiếu L/C - Chọn ngân hàng thông báo/thương lượng: Nếu khách hàng không chỉ định thì chọn ngân hàng thông báo là ngân hàng có quan hệ đại lý với mình, nếu là ngân hàng do khách hàng chỉ định mà không có quan hệ đại lý, ngân hàng mở L/C ghi tên vào 57 của L/C. - Nhập dữ liệu vào máy tính để mở L/C, mở bằng SWIFT theo mẫu điện MT 700, MT 701, MT 999, nếu khách hàng yêu cầu mở bằng thư thì mở bằng SWIFT mẫu MT700, ghi vào trường 72 cụm từ chỉ thị "bằng thư" và Sở giao dịch của NHNo sẽ chuyển L/C theo chỉ thị của chi nhánh mở. Chi nhánh mở L/C hạch toán nội bộ bảng số ký quỹ ngoại bình quân số thanh toán mở L/C và thu phí mở L/C theo quyết định của NHNo. Thanh toán viên trình hồ sơ mở, điện mở L/C cho phụ trách phòng, lãnh đạo chi nhánh duyệt và chuyển điện đến Sở giao dịch NHNo. Chi nhánh giao bản gốc L/C cho khách hàng, vào bìa hồ sơ L/C và lưu kho theo dõi. Trường hợp mở L/C xác nhận: Thanh toán viên kiểm tra phí xác nhận ai chịu, ngân hàng không cho vay trả phí xác nhận. Nếu ngân hàng thông báo trùng với ngân hàng xác nhận, L/C phải ghi câu ‘ please add your confirmation’ Nếu ngân hàng thông báo không phải ngân hàng xác nhận thì có thể đề nghị ngân hàng đại lý có quan hệ tốt với ngân hàng Nông nghiệp, đứng ra xác nhận - Trường hợp khách hàng chỉ định thì thanh toán viên thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. L/C phải ghi rõ tên ngân hàng xác nhận. Nếu ngân hàng xác nhận yêu cầu ký quỹ thì thanh toán viên thông báo và yêu cầu khách hàng, số tiền ký quỹ có thể được trả lãi hoặc không. ã L/C chỉ định ngân hàng hoàn trả hoặc cho phép tự động ghi nợ: Phải được sự chấp thuận của Tổng giám đốc NHNo đối với từng L/C cụ thể. Sau khi mở L/C thì thanh toán viên lập ủy quyền hoàn trả cho Ngân hàng hoàn trả bằng SWIFT MT740 hoặc MT999 - nếu là uỷ quyền hoàn trả có sửa đổi phải thông báo Ngân hàng hoàn trả bằng SWIFT MT747 hoặc MT999. Với việc cho phép tự động ghi nợ, trường 78 của L/C phải quy định rõ. c. Sửa đổi L/C. - Khách hàng phải xuất trình thư yêu cầu sửa đổi L/C kèm văn bản thoả thuận giữa người mua - ngưòi bán nếu có. - Thanh toán viên lập SWIFT MT702 để sửa đổi: + Tu chỉnh tăng: tăng ký quỹ hoặc xét vay phần thanh toán tăng thêm. + Tu chỉnh khác. - Nếu phí sửa đổi do người hưởng chịu thì trong L/C phải nêu rõ, thu phí sửa đổi theo quyết định. - Trình hồ sơ và L/C tu chỉnh cho lãnh đạo duyệt, giao 1 bản L/C sửa cho khách hàng. 2.2.1.2. Thanh toán L/C Khi có điện đòi tiền từ ngân hàng nước ngoài, Sở giao dịch đầu mối sẽ nhận, kiểm mã trước khi chuyển về chi nhánh. Nếu điện kiểm mã tự động thì chuyển tiếp điện về chi nhánh theo giờ quy định nếu là điện kèm mã TELEX thì giao cá nhân có quyền kiểm và xác nhận mã, mã đúng đẩy về chi nhánh. Mã sai thông báo cho chi nhánh, ghi rõ mã sai, thông báo ngân hàng nước ngoài về sai . Nhận điện và in bảng kê điện và giao cho thanh toán viên, nếu điện không thuộc chi nhánh phải trả lại trên mạng ngay trong buổi hoặc 8h sáng hôm sau, phụ trách phòng phải xem xét và ký trước khi giao cho thanh toán viên. ã Khi điện đòi tiền thông báo chứng từ phù hợp, tại chi nhánh, thanh toán viên kiểm tra đối chiếu với điều kiện thanh toán, chỉ dẫn thanh toán đã được quy định trong L/C, kiểm tra nguồn tiền thanh toán L/C, thông báo cho khách hàng về việc đòi tiền của ngân hàng nước ngoài. - Lập điện trả tiền bằng SWIFT theo mẫu. - Trích ký quỹ, thu phí, hạch toán xuất ngoại bảng số tiền đã thanh toán, rút số dư trên bìa L/C. - Chuyển điện trả tiền, chứng từ cho phụ trách phòng ký duyệt. ã Khi thông báo chứng từ không phù hợp. Tại chi nhánh, thanh toán viên gửi thông báo cho khách hàng trên bản sao điện của ngân hàng nước ngoài thông báo chứng từ không phù hợp, yêu cầu khách hàng phải cho ý kiến trong vòng 3 ngày làm việc để chi nhánh trả lời ngân hàng nước ngoài. Căn cứ điện đòi tiền và nghe ý kiến khách hàng để chấp nhận hoặc từ chối nhận sai sót đó. Nếu đã phát hành bảo lãnh nhận hàng hoặc ký

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0050.doc
Tài liệu liên quan