Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình CPH ở Việt Nam

Lời nói đầu 1

Chương I : 3

Một số những vấn đề lý luận cơ bản về CPH các DN. 3

I. Khái quát chung về công ty cổ phần. 3

1. Khái niệm về công ty cổ phần . 3

2. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan. 4

3. Quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới. 6

4. Đặc điểm của công ty cổ phần. 8

3.5.Đặc điểm về tính chất dân chủ trong quản lý. 12

5. Vai trò của công ty cổ phần. 13

II. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước là một yêu cầu khách quan và là nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 15

1. Khái niệm thực chất CPH. 15

2. Vai trò của DNNN và tính tất yếu của việc CPH DNNN. 15

2.1. DNNN và vai trò của DNNN. 15

a)Khái niệm DNNN. 15

2.2.Tính tất yếu của việc CPH DNNN ở Việt Nam. 17

3.Đẩy nhanh tiến trình Cổ phần hoá là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. 19

chương II : 22

thực trạng cph các dnnn ở nước ta hiện nay. 22

I. Thực trạng DNNN trước khi tiến hành CPH. 22

1.Đánh giá tình hình DNNN trước khi CPH. 22

Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế . 23

2. Nguyên nhân của thực trạng. 24

II. Tình hình CPH các DNNN từ 1991 đến nay. 26

1. Mục tiêu cổ phần hoá. 26

2. Tiến trình CPH ở Việt Nam. 29

2.1. Giai đoạn 1: Thí điểm CPH từ 1992 đến tháng 5 /1996. 29

2.2. Giai đoạn 2: Mở rộng CPH ( từ 5/1996 đến 6/1998 ). 32

Phân theo ngành: 35

Phân theo lãnh thổ: 35

2.3. Giai đoạn 3: Chủ động CPH ( từ 6/1998 đến nay ). 36

3. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở nước ta. 39

3.1. Những thuận lợi. 39

3.2. Những khó khăn. 40

4. Những thành công bước đầu và một số vấn đề còn tồn tại. 43

4.1. Đánh giá kết quả của việc cổ phần hoá các Doanh Nghiệp Nhà nước. 43

4.2. Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH. 45

Số lượng DNNN đã CPH qua các năm 49

Chương III : 55

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình 55

cổ phần hoá ở nước ta 55

I. Những căn cứ để đưa ra giải pháp. 55

1. Xu hướng phát triển các công ty cổ phần hiện nay trên thế giới. 55

2. Dự báo nhu cầu phát triển các công ty cổ phần ở nước ta. 59

3. Chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề cổ phần hoá các Doanh Nghiệp Nhà nước . 60

4. Định hướng các giải pháp cổ phần hoá ở nước ta hiện nay . 61

4.1. Giải pháp phải mang tính kế thừa và phát triển. 61

4.2. Giải pháp phải mang tính đồng bộ và hệ thống. 61

4.3. Giải pháp phải mang tính hiệu quả và khả thi. 61

II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở nước ta. 62

1. Giải pháp về quản lý vĩ mô. 62

1.1. Xây dựng kế hoạch và tạo tiền đề, điều kiện đẩy mạnh tiến trình CPH. 62

1.2.Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách có liên quan. 63

1.3. Cụ thể hoá và phân định rõ ràng hơn về phương thức, lộ trình và trách nhiệm thực hiện. 67

1.4. Đưa ra chính sách ưu đãi đối với DN và người lao động khi tiến hành CPH. 67

1.5. Thiết lập môi trường kinh tế xã hội ổn định: ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát. 68

 

doc83 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình CPH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 DNNN bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào; số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18%, cao nhất là 51% cổ phần của công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%), còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 DNNN đã chuyến thành CTCP có 11 DN hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 DN trước khi chọn làm thí điểm CPH có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là CTCP Cơ điện lạnh, CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều DN trước khi CPH kinh doanh kém hiệu quả , lợi nhuận thấp, vốn giảm dần như Xí nghiệp VIFOCO, Xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định…Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức CTCP thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và DN, người lao động đều có lợi. 2.3. Giai đoạn 3: Chủ động CPH ( từ 6/1998 đến nay ). Chủ trương thực hiện CPH của Đảng và Nhà nước. Ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP thay cho Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996. Các bộ, ngành chức năng cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn. Nội dung của các chủ trương. Về đối tượng CPH: Chính phủ quy định rõ loại DN chưa CPH gồm: các DN hoạt động công ích; các DN sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh như vật liệu nổ, hoá chất độc, chất phóng xạ, in bạc và các chứng chỉ có giá, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế. Số DNNN còn lại thuộc diện CPH hoặc các hình thức chuyển đổi sở hữu khác.Đây là định hướng lâu dài để Nhà nước cơ cấu lại DNNN. Tuy nhiên trong giai đoạn từ 1998 đến 2000, một số DN hoạt động ở các lĩnh vực quan trọng như: tạo nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo cân đối lớn cho Nhà nước và cho nền kinh tế về ngoại tệ, vật tư chiến lược hoặc là công cụ giúp cho Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thì Nhà nước vẫn tiếp tục giữ 100% vốn, chưa CPH. Đối với các DN được phép CPH mà đóng vai trò làm nòng cốt dẫn dắt nền kinh tế trong qúa trình CNH-HĐH thì Nhà nước phải giữa cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. Số DN kinh doanh ngành nghề thông thường, dân có điều kiện làm ăn kinh doanh tốt hơn Nhà nước thì sẽ được CPH, trong đó Nhà nước có thể tham gia hoặc không nhất thiết tham gia cổ phần. Về thẩm quyền quyết định CPH, Chính phủ quy định rõ: Bộ trưởng các Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, Chủ tịch HĐQT các Tổng công ty là người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm chính về lựa chọn và tổ chức triển khai CPH đối với các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý , không phải chờ sự tự nguyện của các DN cấp dưới như trước đây. Riêng việc phê duyệt đề án CPH thì DN có vốn Nhà nước từ 10 tỷ đồng trở lên thì mới phải trình Thủ tướng Chính phủ để theo dõi giám sát việc thực hiện công tác đầy phức tạp này. Khi tình hình đi dần vào nề nếp sẽ mở rộng thêm diện cấp. DN có mức vốn dưới 10 tỷ đồng thì cơ quan quyết định thành lập DNNN liên quan phê duyệt. Về đối tượng bán cổ phần: Mở rộng thêm diện bán cổ phần cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam. Mở rộng mực khống chế mua cổ phần cho những DN mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối thì cá nhân và pháp nhân được mua gấp 2 lần trước đây, còn những DN mà Nhà nước không tham gia cổ phần thì không khống chế quyền mua cổ phần. Về hình thức CPH: Ngoài 3 hình thức cũ còn mở rộng thêm 1 hình thức so với trước đây là bán toàn bộ giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển thành CTCP, trong đó Nhà nước không tham gia cổ phần. Hình thức này áp dụng cho các DN hoạt động kinh doanh các ngành nghề thông thường . Việc xác định giá trị doanh nghiệp : Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp CPH quy định tại Nghị định 44/1998/NĐ-CP và Thông tư 104/1998/TT-BTC có nhiều cải tiến hơn về quy trình cũng như về nội dung và về thẩm quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp CPH. Một số nội dung và phương pháp xác định giá trị thực tế của DN để CPH đã có nhiều đổi mới: - Đối với tài sản cố định, tài sản lưu động là hiện vật đã được kiểm kê và được xác định theo công thức sau: Giá trị thực tế tài sản = Số lượng thực tế của từng tài sản x Giá trị thường của tài sản tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp x Chất lượng còn lại của tài sản (%) - Trường hợp giá trị lợi thế (như uy tín mặt hàng, vị trí địa lý ) đã được đánh giá thì lấy số dư thực tế trên sổ kế toán để tính vào giá trị doanh nghiệp . - Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế kinh doanh thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá doanh nghiệp để tính lợi thế theo công thức: Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm của doanh nghiệp = Tổng số lợi nhuận thực hiện của 3 năm liền kề Tổng số vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch = Tỷ suất lợi nhuận bình quân 3 năm liền của doanh nghiệp - Tỷ suất lợi nhuận bình quân chung của DNNN cùng ngành trên cùng địa bàn (tỉnh, thành phố) Giá trị lợi thế tính vào giá trị doanh nghiệp = Vốn Nhà nước theo sổ kế toán bình quân của 3 năm liền kề x Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch x 30% Những ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp CPH: Mở rộng mức ưu đãi tới 20% giá trị vốn Nhà nước tại DN (trước đây Nghị định 28/CP chỉ quy định 10% ). Người lao động được mua cổ phần ưu đãi với mức giá giảm 30% so với các đối tượng khác. Cổ phần của người lao động do Nhà nước bán ưu đãi có quyền chuyển nhượng, thừa kế và các quyền khác của cổ đông. Đối với người lao động nghèo còn được Nhà nước cho trả chậm tiền mua cổ phần ưu đãi. Về quản lý và sử dụng tiền bán phần vốn Nhà nước tại các DN : Trước đây, mọi khoản tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước ở các DN CPH đều phải nộp cho Nhà nước. Song, theo cơ chế mới, các khoản thu này sẽ được tập trung về quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN ở Trung ương, địa phương và các Tổng công ty theo tinh thần quyết định 177/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quá trình thực hiện CPH. Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện một cách bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN thuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ. Nếu như trong 7 năm (1992 đến 6/1998 ) cả nước mới CPH được 30 doanh nghiệp thì riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã CPH được 90 DNNN, đưa số DNNN được CPH lên 120 doanh nghiệp . Năm 1999, CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992-1997) cộng lại. Và đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN và đến nay là 875 DN. Đây là một bước tiến dài trong quá trình CPH DNNN. 3. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện cổ phần hoá ở nước ta. 3.1. Những thuận lợi. Môi trường pháp lý đã được xác lập về cơ bản, đặt tất cả các DN hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước CPH DNNN. Nhà nước đã nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề CPH DNNN. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình CPH DNNN. Tình hình kinh tế tài chính của đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực. Giá cả hàng hoá trên thị trường đã được duy trì ở trạng thái tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế ở mức độ thích hợp, lãi suất ở mức khuyến khích đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người muốn tiến hành đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các DNNN CPH. Đặc biệt là TTCK nước ta đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 20/7/2000, tạo môi trường xúc tiến CPH DNNN. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước thời gian qua đã làm cho thu nhập của dân cư tăng lên đáng kể, số người khá giả có tiền tiết kiệm ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là một lượng cầu tiềm năng tương đối lớn có thể đáp ứng nhu cầu bán các chứng khoán phát hành tại các DNNN được CPH. Các DNNN mặc dù hoạt động trong cơ chế thị trường chưa dài nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh với quy mô lớn. Người lao động trong các doanh nghiệp đã có ý thức và thích ứng được với tác phong làm việc trong môi trường cạnh tranh. Điều này sẽ làm cho các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn đầu tư vào các DNNN được CPH. Với Luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH. Những kinh nghiệm thực tế phong phú về CPH các DNNN của các quốc gia trên thế giới sẽ trở thành những bài học bổ ích cho tổ chức thực hiện công tác CPH DNNN ở Việt Nam. 3..2. Những khó khăn. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ vô cùng khốc liệt và một thời gian dài sống trong chế độ bao cấp, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng đình trệ, tăng trưởng với tốc độ chậm chạp và hầu như không có tiến triển đáng kể. Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc, bước vào thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Ngành tài chính đóng vai trò then chốt trong huy dộng vốn cho việc thực hiện lịch sử trọng đại đó. Những năm qua, nhân dân ta đã cố gắng không ngừng để từng bước chuyển dịch nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việt Nam cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, khó khăn lớn nhất trong qúa trình CPH DNNN là khu vực kinh tế tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Nó phản ánh trình độ chậm phát triển của nền kinh tế thị trường, trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là chủ yếu, hình thái CTCP còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này làm cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới cổ phiếu đều bỡ ngỡ, lúng túng. Vì vậy, CPH DNNN ở nước ta cần phát triển hình thái CTCP cũng như việc xác lập môi trường pháp lý tương ứng. Gắn liền với khu vực kinh tế tư nhân nhỏ bé và yếu ớt là thị trường vốn kém phát triển, tình trạng thiếu vắng của TTCK với tư cách là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các CTCP trong một nền kinh tế nhất định. Nó vừa là tấm gương phản chiếu vừa là điều kiện cho các CTCP ra đời và hoạt động. Ngoài hai yếu tố trên còn phải kể đến một số yếu tố đặc thù của nước ta cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn cho việc CPH DNNN là : Chính sách kinh tế tài chính và pháp luật Nhà nước còn chưa ổn định. Nhiều chính sách kinh tế tài chính ra đời chồng chéo, mâu thuẫn nhau và thay đổi đột ngột ; lạm phát chưa được kiềm chế một cách vững chắc ; đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng diễn ra chậm so với đòi hỏi của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước. Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp kém ... do đó khó có thể CPH các doanh nghiệp này. Số DNNN có tỷ suất lợi nhuận đủ sức hấp dẫn còn quá ít và lại thường nằm trong số doanh nghiệp mà Nhà nước chưa có ý định CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các DNNN để tiến hành CPH cũng như thu hút hưởng ứng của đông đảo ngưòi có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu. Xử lý vốn của Nhà nước trong các DNNN CPH là một vấn đề phức tạp. Nhiều nước do buông lỏng quản lý , có sơ hở trong văn bản pháp quy và không lường kết được những diễn biến phức tạp trong thực tế nên tài sản Nhà nước đã bị bán rẻ. Tình trạng chia chác thông qua cổ phần do một nhóm người có chức có quyền thực hiện, làm cho phần lớn tài sản của DNNN lọt vào tay tư nhân. Điều này không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế mà còn gây hậu quả tai hại về mặt xã hội . Về mặt tư tưởng, tâm lý của đa số các thành viên trong xã hội còn chưa quen với CPH DNNN là một vấn đề mới. Thậm chí còn có những phản ứng nhất định của những người đang sống và làm việc yên ổn trong khu vực kinh tế Nhà nước. Phần lớn các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn ngần ngại, thậm chí phản đối vì phải chuyển địa vị từ “người chủ” thành “người làm thuê cao cấp” sẽ chịu sự đánh giá, kiểm soát của HĐQT và các cổ đông về trình độ, năng lực của mình, còn người lao động thì sợ mất việc làm, sợ phải ra khỏi biên chế Nhà nước. Đó là những trở ngại chủ quan của qúa trình CPH các DNNN. Nhà nước thiếu nguồn lực tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan đến chương trình CPH các DNNN như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo nghề mới, thời gian tìm việc làm và các khoản chi phí xã hội khác ... Những khoản phí tổn này thường rất lớn, ttrong đó còn chưa kể đến bán cổ phiếu với giá thấp và tín dụng ưu đãi cho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho phí tổn này tăng lên nhiều hơn. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến, thống nhất, đã gây khó khăn cho việc đánh giá giá trị của doanh nghiệp, thực trạng và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp CPH. Do vậy gây trở ngại trong việc cung cấp những thông tin trung thực và tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN được CPH. 4. Những thành công bước đầu và một số vấn đề còn tồn tại. 4.1. Đánh giá kết quả của việc cổ phần hoá các Doanh Nghiệp Nhà nước. a) Đánh giá chung. Về mục tiêu huy động vốn: Tính đến 31/12/2000, cả nước đã có 620 DN và bộ phận DNNN đã được chuyển đổi hình thực sở hữu (cả CPH và giao bán) thu hút thêm hơn 3 nghìn tỷ đồng vốn của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vào các doanh nghiệp CPH. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH khi xác định lại đều tăng lên từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Số lượng doanh nghiệp đã CPH chiếm 10% tổng số DNNN, đạt khoảng 30% kế hoạch CPH. Và cho đến nay thì số DNNN đã CPH lên tới 875 DN, trong đó chỉ riêng 3 năm 1999-2001 đã CPH được 763 DN. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp : Tất cả các chỉ tiêu kinh tế của các doanh nghiệp đã CPH đều phát triển tốt, biểu hiện: Doanh thu bình quân của các doanh nghiệp tăng 30% so với trước khi CPH ( có những doanh nghiệp doanh thu tăng 2 lần ). Lợi nhuận và nộp ngân sách bình quân đều tăng 2 lần. Vốn tăng trưởng bình quân 15% / năm. Cổ tức trên vốn đạt từ 1-2% / tháng. Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm , thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể. Tài sản của các DNNN được đánh giá lại chính xác hơn. Lâu nay, tài sản thuộc các DNNN bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp rất thấp, tổng giá trị đánh giá lại đã tăng 48,8% so với tổng trị giá hạch toán. Nhờ sự làm ăn ngày càng khấm khá nên giá cổ phiếu của nhiều CTCP đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2-3 lần. Do đó người đầu tư vào cổ phiếu không những được hưởng quyền lợi về mặt tinh thần như quyền đầu phiếu, quyền ứng cử vào các chức lãnh đạo của công ty mà còn được hưởng phần lãi cổ tức nhìn chung cao hơn lãi gửi ngân hàng và còn được hưởng lãi về giá cổ phiếu. Về tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao vai trò làm chủ của người lao động: Tất cả những DNNN CPH trong thời gian qua chưa có một DN nào phải đưa người lao động ra ngoài DN. CPH đã thay đổi phương thức quản lý. Chế độ bình, bầu , chọn giám đốc, HĐQT và các chức danh lãnh đạo của DN đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, việc trả công lao động cũng rất rõ ràng và minh bạch. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động đồng thời là cổ đông trong công ty được phát huy cao độ thể hiện ỏ tinh thần tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, lao động sáng tạo…Lao động tăng thêm bình quân 20%. Thu nhập người lao động tăng bình quân 20%. .Một không khí làm việc, sản xuất mới đã được thiết lập. Tóm lại, các DNNN sau CPH sau một thời gian hoạt động, tất cả các chỉ tiêu đều tăng lên đáng kể. Điều đó chứng tỏ, CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Chính phủ. b)Đánh giá cụ thể theo bộ, ngành, địa phương. Các bộ, ngành, địa phương, các Tổng công ty triển khai tốt là: Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, Tổng công ty Hoá chất, Tổng công ty Thép, Tổng cục Hàng hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Than và các tỉnh Nghệ An, Nam Định,Lâm Đồng, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Bình Dương. Trong năm 2000, có 5 bộ ngành, Tổng công ty và 18 tỉnh thành phố chưa hoàn thành chuyển đổi được doanh nghiệp nào. Nhiều bộ ngành, địa phương trước đây đã quan tâm đến công tác CPH, số lượng DNNN thực hiện CPH tương đối nhiều thì nay thực hiện rất chậm như: Bộ Xây dựng, Tổng cục Du lịch, Tổng công ty Cà phê; 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạt 18-39% kế hoạch trong khi trước đây năm 1999 Hà Nội đạt 100% kế hoạch và Thành phố Hồ Chí Minh đạt 80% kế hoạch. Bên cạnh việc thực hiện CPH, một số địa phương chọn hình thức chuyển đổi sở hữu bằng hình thức giao khoán và cho thuê doanh nghiệp (38 doanh nghiệp ở các địa phương ). Ngoài ra, có gần 100 doanh nghiệp đã được xác định xong giá trị, đang triển khai các bước tiếp theo để CPH. Với kết quả đạt được từ việc CPH các DNNN không phải là nhỏ, những tưởng quá trình CPH sẽ diễn ra ngày càng nhanh chóng để hoà kịp với xu huớng phát triển chung của kinh tế cổ phần trên toàn thế giới. Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Hiện nay các CTCP hoạt động trên thị trường còn rất ít và việc chuyển các DNNN thành CTCP thì lại diễn ra chậm và không đáp ứng được nhu cầu mà thị trường đòi hỏi. Vởy thì nguyên nhân vì đâu và vì lý do gì mà việc thực hiện chủ trương CPH lại bị cản trở? Đó cũng chính là những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại mà phải giải quyết được những vấn đề đó thì việc CPH mới được nhanh chóng. 4.2. Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH. a) Một số vấn đề tồn tại. Tử những đánh giá kết quả của việc CPH, chúng ta cần phải phân tích xem ảnh hưởng và tác động của của các chính sách đến quá trình thực hiện CPH để thấy được những yếu kém còn tồn tại làm chậm tiến trình CPH. Về việc lựa chọn DNNN để CPH: Đối tượng CPH được quy định rõ ràng và không còn là sự tự nguyện của các DN mà theo sự phân công của Chính phủ trên cơ sở phương án sắp xếp và chuyển đổi sở hữu DNNN của các Bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên lại thiếu các kiến thức cần thiết quy định và hướng dẫn việc lựa chọn DN để thực hiện CPH nên các Bộ , ngành, địa phương chọn DN để CPH rất khác nhau. Do đó, một trong những vấn đề còn vướng mắc đầu tiên phải kể đến là các cấp, các ngành chưa có sự chỉ đạo lựa chọn các DN cần phải CPH một cách dứt điểm. Theo yêu cầu của chỉ thị 20/1998/TTG ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty Nhà nước phải xác định 20% trong tổng số DNNN hiện có lúc đó để CPH và chuyển đổi sở hữu trong giai đoạn 1998-2000. Nhà nước cũng đã quy định danh mục các loại DNNN chưa tiến hành CPH hoặc khi CPH sẽ do Nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt. Số DN còn lại đều thuộc diện CPH. Song trên thực tế lại không diễn ra như vậy. Các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương chưa quán triệt đầy đủ, chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy được những lợi ích lâu dài từ việc thực hiện CPH. Họ lo ngại CPH sẽ làm mất chủ quyền của Nhà nước, làm mất vai trò của kinh tế quốc doanh bởi vì nếu chọn các DN đang làm ăn có lãi để CPH thì sẽ ảnh hưởng đến chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước, ngoài ra còn làm giảm sút những lợi ích trực tiếp của các ngành các cấp có liên quan. Còn nếu chọn các DN đang làm ăn thua lỗ để CPH thì chắc chắn việc thực hiện CPH sẽ khó có thể thành công được. Vì vậy mà một số lãnh đạo chính quyền cơ sở còn lúng túng trong việc xác định các DNNN cần cổ phần và còn do dự, chần chừ chưa muốn CPH (thực chất là họ lo sợ mất quyền lợi của mình). Về việc xác định giá trị DN CPH: Vấn đề xác định giá trị DN là một khâu phức tạp nhất trong toàn bộ quy trình CPH cho nên có nhiều ý kiến đã đưa ra xung quanh vấn đề này. Trên thực tế, khi xác định giá trị của cùng một DNNN, các cơ quan khác nhau nhiều khi lại cũng đưa ra những kết quả khác xa nhau. Các tài sản tại DNNN hình thành từ rất nhiều nguồn, trong đó vốn của Nhà nước và số tài sản phát sinh từ nguồn vốn đó chỉ là một phần nhất định đã làm cho việc xác định nguồn gốc và cách tính phần vốn tự có của DN cho hợp lý gặp rất nhiều khó khăn. Việc xác định lợi thế kinh doanh của DN cũng gây không ít tranh cãi. ở một số DNNN đã được CPH, sau một vài năm hoạt động, giá trị cổ phần tăng lên nhiều lần (có nơi sau 3 năm hoạt động, giá trị cổ phần tăng lên từ 10-12 lần ) cho nên liệu rằng việc xác định giá trị DN đã tính đầy đủ lợi thế kinh doanh của DN hay chưa. Điều đó thể hiện sự thiếu căn cứ khoa học trong việc tính giá trị tài sản cố định, giá trị DN bao gồm cả việc xác định giá trị lợi thế của DN. Như vậy, giá trị DN được xác định chỉ dựa vào tình hình kinh doanh trong quá khứ (3 năm cuối) và kinh doanh hiện tại là chưa đủ mà cần phải xét đến xu hướng và điều kiện phát triển của DN trong tương lai. Phương pháp xác định giá trị lợi thế hiện tại của DN chưa thuyết phục mà cần phải tính đến giá trị lợi thế trong tương lai và cả thời điểm định giá. Về ưu đãi đối với DNNN chuyển sang CTCP: Nghị định 44 quy định về ưu đãi là “ tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính , các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với DNNN ”. Nhưng Thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại quy định chỉ những DNNN nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối mới được tiếp tục vay vốn và lãi suất theo cơ chế hiện hành áp dụng đối với DNNN còn những DN khác ( Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt ) chỉ được hưởng ưu đãi này trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi DN chuyển chính thức sang hoạt động theo Luật Công ty sau đó áp dụng theo cơ chế tín dụng hiện hành áp dụng cho các DN thuộc các thành phần kinh tế khác. Ưu đãi về tỷ lệ cổ phần cho những DNNN có phần tự tích luỹ nhiều ( 40% vốn tự tích luỹ trong giá trị DN) không được thực hiện vì trên thực tế vốn tự tích luỹ ở các DNNN không tới 10% so với giá trị DN . Về ưu đãi đối với người lao động: Người lao động được mua cổ phần với giá giảm 30%, người lao động nghèo được trả chậm trong vòng 10 năm và được mua 10 cổ phần cho một năm làm việc . Tổng giá trị ưu đãi không vượt quá 20% hoặc 30% giá trị vốn Nhà nước tại DN. DN nào nhiều vốn Nhà nước tại DN thì được hưởng hết ưu đãi theo quy định, DN ít vốn Nhà nước tại DN chỉ được 2-3 cổ phần theo giá ưu đãi cho mỗi năm công tác trong DNNN. Chỉ khuyến khích được một bộ phận lao động ở những DN CPH. Trong khi người lao động làm việc cho Nhà nước trong khu vực khác hoặc cán bộ hưu trí không được hưởng ưu đãi này. Vì thế chế độ ưu đãi người lao động chưa tạo ra động lực thúc đẩy đông đảo quần chúng quan tâm và tham gia vào chương trình CPH DNNN của Chính phủ. Một khó khăn nữa còn tồn tại là việc giải quyết lợi ích cụ thể của người lao động trong các CTCP. Theo Nghị định 44/ CP, tổng giá trị ưu đãi cho người lao động lên tới 20% giá trị vốn Nhà nước tại DN. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, nếu những người lao động làm việc lâu năm tại DN chiếm số đông thì lượng cổ phiếu được ưu đãi sẽ vượt con số 20% vốn Nhà nước. Khi đó giải quyết như thế nào? Tiêu chí nào để xác định đâu là lao động nghèo được hưởng ưu đãi riêng? Những người lao động mới được tuyển dụng vào làm việc thì xử lý ra sao?. v.v.. Việc khống chế mua cổ phần của một số đối tượng: Theo quy định, việc mua cổ phần lần đầu tại các DN CPH được khống chế như sau: Loại DN mà Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mỗi pháp nhân được mua không quá 10%, mỗi cá nhân được mua không quá 5% trong số cổ phần của DN. Loại DN mà Nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mỗi pháp nhân không được mua quá 20% và mỗi cá nhân không được mua quá 10% tổng số cổ phần của DN. Loại DN mà Nhà nước không tham gia cổ phần thì không hạn chế số lượng cổ phần. Việc khống chế như trên quá chặt chẽ, cứng nhắc đã hạn chế những nhà đầu tư muốn mua số lượng cổ phần lớn để được tham gia quản lý công ty với mong muốn thay đổi phương pháp quản lý công ty dẫn đến tình trạng người được quyền mua thì không có đủ tiền, người có tiền thì lại không được mua. Việc giao cho DN tổ chức bán cổ phần là nguyên nhân dẫn đến xu hướng bán nội bộ, kéo dài thời gian phát hành cổ phiếu để điều chỉnh giá trị DN CPH và hạn chế khả năng tham gia của các nhà đầu tư chiến lược và đông đảo quần chúng trong xã hội. Về việc quản lý và sử dụng tiền bán phần vốn Nhà nước tại DN ( Quyết định 177/1999/QĐ - TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ ): Mức trợ cấp thôi việc, mất việc cho người lao động thuộc diện dôi dư trong DN CPH theo quy đình hiện hành là quá thấp, không khuyến khích được người lao động tự nguyện thôi việc và cũng không tạo được điều kiện cho người lao động bị thôi việc , mất việc tự lập nghiệp ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Các quy định về đào tạo, đào tạo lại không rõ ràng. Về bổ sung vốn cho các DNNN, cần ưu tiên củng cố và đầu tư cho các DNNN đã CPH không rõ ràng và khó thực hiện vì không quy định rõ. Về việc giải quyết các tồn tại của DNNN khi thực hiện CPH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0092.doc
Tài liệu liên quan