Đề tài Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010

Mục lục

 

Mở đầu 1

1. Lý do chọn đề tài. 1

2. Mục đích nghiên cứu. 4

3. Đối tượng nghiên cứu. 5

4. Phương pháp nghiên cứu. 5

Phần Nội DUNG 6

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của việc quản lý nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên 6

1. Cơ sở lý luận. 6

2. Cơ sở pháp lý. 7

Chương 2: thực trạng đội ngũ giáo viên của Trường THPT Phú Lộc 8

I. Đặc điểm, tình hình chung Trường THPT Phú Lộc. 8

1. Tình hình Trường THPT Phú Lộc. 8

2. Đánh giá 02 mặt chất lượng: 10

3. Nguyên nhân: 12

II. Những giải pháp thực hiện. 13

1. Giải pháp trước mắt (trong năm học 2006 - 2007): 13

2. Những giải pháp mang tính thường xuyên, lâu dài: 14

2.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ: 14

Các yêu cầu 14

2.2. Thường xuyên giáo dục đội ngũ nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của người giáo viên: 17

2.3. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán nhà trường: 17

2.4. Xây dựng mạng lưới chuyên môn đủ mạnh, đủ năng lực để giải quyết các yêu cầu đặt ra về chuyên môn cho đội ngũ: 18

2.5. Phải tích cực để xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập: 18

2.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học: 20

2.7. Cùng tiếp tục lôi cuốn các tổ chức trong, ngoài nhà trường cùng tham gia vào công tác nâng cao chất lượng đội ngũ: 21

2.8. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ thông qua việc xây dựng quy chế dân chủ của cơ quan: 24

2.9. Tăng cường sự lãnh đạo thường xuyên của Chi bộ Đảng: 24

2.10. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và tự đánh giá của đội ngũ bằng nhiều hình thức: 25

Phần kết luận 27

1. Một số kết luận. 27

2. Một số khuyến nghị. 28

Tài liệu tham khảo 29

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, toán 01. - Về cuộc sống, hoàn cảnh gia đình: Đảm bảo ổn định về vật chất tinh thần, có 01 trường hợp đặc biệt đang đề xuất Sở giáo dục và đào tạo cho thuyên chuyển. - Mức lương bình quân: 1,35 triệu đồng/người. - Các nguồn thu nhập khác: không. - Về bộ môn: Giáo viên bộ môn Số lượng Tương đối ổn định Số đảng viên Số GV còn thiếu Chất lượng 02 mặt của GV, Theo quyết định 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 X.sắc Khá TB Kém Toán 10 05 05 01 04 04 02 0 Vật lý 06 03 x 04 02 0 Hoá 04 04 02 02 02 0 Sinh 03 01 x 02 01 0 Văn 08 05 02 01 02 04 02 0 Sử 03 01 x 01 02 0 Địa 03 01 01 01 02 0 Anh văn 05 02 x 01 04 01 0 GDCD 02 01 x 02 00 0 KTNN 01 00 x 01 0 KTCN 00 00 x 01 0 Thể dục 03 01 01 01 01 01 01 0 GDQP 00 00 x 01 0 Tin học 03 02 x 03 0 Cộng 51 26 11 06 10 29 12 0 2. Đánh giá 02 mặt chất lượng: a) Về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống: Theo quyết định Bộ nội vụ số 06/2006/QĐ-BNV ngày 21/3/2006 về đánh giá xếp loại giáo viên phổ thông công lập. Loại tốt: 24; Loại khá: 25; Loại TB: 02; Loại kém: 0. b) Về chuyên môn nghiệp vụ: Theo hướng dẫn của Bộ giáo dục-đào tạo số 3040/BGD&ĐT-TCCB ngày 17/4/2006 về đánh giá xếp loại giáo viên phổ thông công lập. Loại tốt: 12; Loại khá: 35; Loại TB: 04; Loại kém: 0. c) Đánh giá những mặt mạnh về đội ngũ: - Đội ngũ giáo viên hầu hết được đào tạo có bài bản, được bổ sung hàng năm tương đối đồng bộ về cơ cấu bộ môn. Đủ điều kiện và năng lực để đảm nhận công việc, không có dôi dư, không cần phải đào tạo lại, trong đó lực lượng trẻ chiếm khá đông, hầu hết đều có ý thức chấp hành, cầu tiến và hăng hái với công việc. - Tuy ở một số bộ môn kỹ thuật công nghiệp, kỹ thuật nông nghiệp, giáo dục quốc phòng chưa được ngành đào tạo bổ sung, song giáo viên các bộ môn này đã tích cực nghiên cứu, đảm nhận giảng dạy và giảng dạy ngày càng có hiệu quả. Việc cải tiến phương pháp đã được thực hiện cố gắng, tích cực. Hàng năm mọi giáo viên đều có đăng ký giờ dạy tốt học tốt, thao giảng dự giờ để học tập kinh nghiệm, triển khai học tập nhiều chuyên đề về chuyện môn nghiệp vụ thiết thực như các chuyên đề về dạy học thực hành, về ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng các phần mềm dạy học v.v... Tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá cho học sinh và tham gia nhiều hoạt động giáo dục khác như hoạt động xã hội, cứu trợ nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, văn nghệ, thể dục thể thao, tham gia đầy đủ và đạt thành tích cao các đợt dự thi tìm hiểu, thi giáo viên dạy giỏi, thi tiếng hát hay... do ngành phát động. Các phong trào hiến máu nhân đạo, hoạ động xã hội, công tác tuyên truyền vận động giáo dục quần chúng nhân dân địa phương cũng được đội ngũ hưởng ứng nhiệt tình, đưa nhà trường vươn lên đạt thành tích cao trong các năm học gần đây. - Đã xây dựng được tinh thần đoàn kết, tương thân tương ai, chấp hành kỷ cương kỷ luật. Thực hiện khá đảm bảo mọi quy định, quy chế chuyên môn về soạn, giảng, chấm chữa đánh giá vào điểm cho học sinh kịp thời. Các tổ chuyên môn đã cố gắng thực hiện sinh hoạt đúng định kỳ 02 lần/tuần và đã giải quyết nhiều vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ. Toàn thể giáo viên của trường chưa hề có hành vi tiêu cực, vi phạm Pháp luật. Mối quan hệ thầy trò gần gũi, thân ái, đã chủ động tham gia thường xuyên các buổi học tập chính trị và chuyên môn nghiệp vụ khá tốt. Đặc biệt số giáo viên là học sinh củ của trường trở về công tác chiếm tỷ lệ khá lớn trong những năm gần đây nên đã góp phần tương đối ổn định như ở các bộ môn toán, hoá, văn, tin học và đó cũng là những bộ môn có giáo viên giảng dạy khá vững, chu đáo và có nhiều kinh nghiệm. Phần lớn giáo viên trẻ đều có nguyện vọng muốn được tạo điều kiện để nâng cao kiến thức chuyên môn. Một số giáo viên đã chủ động tự học tin học, ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả công tác. Một sự cố gắng lớn nhất đã thực hiện được trong năm học qua đã có 02 giáo viên thi đậu cao học ở bộ môn Toán và Hoá. - Nhận thức tư tưởng chính trị chưa có những biểu hiện gì sai lệch, hầu hết anh chị em giáo viên trong trường đều thể hiện rõ phẩm chất đạo đức tốt, quan tâm đến học sinh. Kịp thời tham gia phát hiện và giáo dục những học sinh sai phạm. Trong công tác chủ nhiệm đã biết chủ động phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể, chính quyền và hội cha mẹ học sinh, nhất là xây dựng môi trường học tập. - Đội ngũ đoàn kết ưu tú khá phong phú tạo được nguồn kế cận cho Đảng. d) Những tồn tại thiếu sót: - Năng lực tổ chức điều hành các hoạt động ở nhà trường chưa tốt, kể cả việc quản lý học sinh, việc quán xuyến tình hình học sinh, nhà trường, việc giáo dục học sinh ngoài trường ngoài lớp. Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở một bộ phận lớn giáo viên chưa thật hữu hiệu, biện pháp chủ yếu vẫn là hạ bậc hạnh kiểm, đuổi học nhất là những giáo viên trẻ. Tính nhạy bén năng động và khả năng thích ứng cũng đang còn hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của ngành. Chưa đảm bảo thông tin kịp thời, việc thực hiện một số yêu cầu đề ra chưa đồng bộ thống nhất như là các quy định về lề lối làm việc, về việc xây dựng nhà trường có đời sống văn hoá tốt, về việc xây dựng môi trường cảnh quan sư phạm. - ý thức tự học tự rèn chưa cao, chưa trở thành phong trào chung, ít đầu tư thời gian để nghiên cứu khoa học, chỉ một số giáo viên có thành tích mới có sáng kiến kinh nghiệm. Việc nắm bắt thông tin chậm, vốn sống thực tiễn của đội ngũ còn nghèo nên gắn việc giảng dạy kiến thức các môn học với giáo dục, thực hành chưa tốt. Việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế. ở một số bộ môn không có giáo viên địa phương, số giáo viên nơi khác đến sau khi xong tập sự, vài năm sau khi bắt đầu phát huy được thì có nguyện vọng xin chuyển đi, một số trẻ lập gia đình sinh con không đăng ký theo kế hoạch của Công đoàn. - ý thức phấn đấu vào Đảng còn chậm, một số tổ chuyên môn chưa có Đảng viên. Việc đấu tranh để giúp nhau hoàn thiện trong cuộc sống và trong công việc chưa mạnh... Vẫn có những biểu hiện cá nhân bằng mặt nhưng chưa bằng lòng khi giải quyết một số vấn đề liên quan đến quyền lợi. Chưa thật sự chăm lo bồi dưỡng nâng cao kiến thức, đặc biệt là ngoại ngữ - tin học. - Một số bộ môn chất lượng giảng dạy chưa đáp ứng với yêu cầu học sinh khá giỏi, như các môn Anh văn, Vật lý, Sử, Sinh học do đội ngũ giáo viên ở các môn đó chưa ổn định. Vẫn có hiện tượng lơ là kém hiệu quả ở giáo viên dạy một số môn không thi tốt nghiệp như thể dục, giáo dục công dân, kỹ thuật nhất là vào thời gian gần cuối năm học. Các hoạt động ngoài trời, hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề chưa đảm bảo chất lượng. 3. Nguyên nhân: - Chất lượng học tập văn hoá của học sinh còn thấp, không đồng đều, hàng năm đều tuyển hết số học sinh tốt nghiệp THCS trong địa bàn vào lớp 10. Do đó việc đổi mới phương pháp cho giảng dạy của giáo viên gặp không ít khó khăn. Trong khi lớp học quá đông, phòng học bộ môn còn chật hẹp, không tạo được thuận lợi cho đội ngũ khi lên lớp. - Đội ngũ giáo viên của trường tuổi nghề quá trẻ nên chưa có kinh nghiệm giáo dục học sinh. Còn thiếu kiên trì sử dụng các biện pháp tích cực đã đề ra trong nhiệm vụ năm học để nâng cao hiệu quả công tác. Phương pháp truyền thống đã ngự trị lâu đời trong giáo viên, nên khó lòng thay đổi trong một sớm một chiều được. Thực hiện phê và tự phê bình trong mỗi giáo viên còn yếu, còn ngại góp ý trao đổi giúp nhau tiến bộ. - Các cấp quản lý chưa có cơ chế rộng rãi cho mọi giáo viên có nguyện vọng muốn học lên cao học, chưa thật sự dành ưu tiên hơn cho những vùng xa. Nguồn thu nhập chủ yếu của giáo viên là đồng lương, địa bàn công tác lại xa thành phố nên không thể vừa dạy vừa học như giáo viên các trường bạn, trong khi nhiều năm nay trường đều thiếu giáo viên. Do đó một số giáo viên có nguyện vọng muốn nâng cao trình độ học vấn trên chuẩn không thể đáp ứng được. - ý thức khắc phục khó khăn để vươn lên tự học, tự rèn về chuyên môn nghiệp vụ trong đội ngũ chưa cao. - Đầu tư để nâng cao chất lượng ở một giờ dạy học cần nhiều thời gian và công sức, trong khi đó định biên giờ dạy không thay đổi. Nên việc đầu tư vào đổi mới phương pháp dạy học chưa thường xuyên đúng mức. Cũng do cách thi cử nên đã có hiện tượng học lệch, dạy lệch ở trường. - Ngoài việc được đào tạo chuẩn bộ môn giảng dạy, các nội dung giáo dục khác chỉ được tìm hiểu, định hướng, đội ngũ giáo viên đảm nhận lại không ổn định nên có sự chắp vá không vững chắc. - Vai trò của các tổ chức trong nhà trường vẫn chưa thật sự góp mặt trong việc giáo dục, động viên đội ngũ nâng cao ý thức tự học, tự rèn. - Trong quản lý chỉ đạo chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ, chưa đánh giá đúng đắn, đầy đủ và thường xuyên năng lực và phẩm chất của từng giáo viên. Công tác kiểm tra đánh giá chuyên môn của đội ngũ còn thiếu kịp thời. II- Những giải pháp thực hiện. 1. Giải pháp trước mắt (trong năm học 2006 - 2007): - Đảm bảo cho toàn bộ giáo viên của trường đều đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục đào tạo bằng cách: Tạo điều kiện để 04 giáo viên chưa qua nghiệp vụ sư phạm được hoàn tất chương trình này trước năm 2007; 01 giáo viên trung cấp thể dục học xong lớp hoàn chỉnh chương trình Đại học TDTT. Cử đủ số giáo viên tham gia đào tạo lớp giáo dục quốc phòng do ngành tổ chức để đưa môn này thực thụ như một môn học vào năm học này. - Tiếp tục động viên để giáo viên dạy bộ môn vật lý và bộ môn sinh học tham gia dạy kỹ thuật công nghiệp và kỹ thuật nông nghiệp khối lớp 11-12. Cử giáo viên các bộ môn này dự tập huấn thay sách bộ môn công nghệ để dạy môn công nghệ khối 10. Bố trí một số giáo viên có khả năng tham gia đào tạo, tập huấn để giảng dạy giáo dục hướng nghiệp, sinh hoạt tập thể, giáo dục quốc phòng, hoạt động ngoài giờ lên lớp theo nội dung chương trình mới áp dụng cho khối 10 từ năm học 2006-2007. - Căn cứ vào năng lực thực tế của đội ngũ bố trí hợp lý giáo viên giảng dạy các lớp phân ban ở khối 10, đặc biệt là giáo viên dạy các môn tự chọn, chuyên đề tự chọn để đảm bảo cân đối hài hoà về mặt chất lượng và đội ngũ. Tiếp tục bồi dưỡng, giúp đỡ để chuẩn bị đội ngũ cho các năm thay sách tiếp theo. Đề đạt 02 trong số giáo viên diện đào tạo nguồn để đề nghị bổ nhiệm làm quản lý trong năm học 2006 - 2007. - Làm tốt việc định hướng nghề nghiệp để vận động những học sinh giỏi lớp 12 của trường thi vào ngành sư phạm. Tham mưu, đề xuất để Sở giáo dục quan tâm hơn việc bổ nhiệm những sinh viên tốt nghiệp sư phạm các bộ môn Anh văn, Vật lý, Công nghệ, Toán là người địa phương về địa phương công tác, hoặc giải quyết việc thuyên chuyển số có nguyện vọng, đủ tiêu chuẩn để tạo sự ổn định lâu dài ở một số bộ môn. 2. Những giải pháp mang tính thường xuyên, lâu dài: 2.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ: Để đảm bảo sự ổn định vững chắc và đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường trong đổi mới giáo dục. Công tác quy hoạch, xây dựng đội ngũ cần căn cứ vào trường lớp, số lượng, chất lượng giáo viên giảng dạy các bộ môn qua từng năm. Trong đó cần chú ý hơn việc bồi dưỡng đào tạo số giáo viên trẻ, quan tâm đội ngũ nữa, có khả năng ổn định lâu dài ở địa phương, việc nâng cao trình độ lý luận chính trị, công tác phát triển Đảng, công tác đào tạo đội ngũ kế cận, khả năng thực hiện đổi mới, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Với định hướng đó, căn cứ vào thực trạng đội ngũ. Kế hoạch, quy hoạch xây dựng đội ngũ của nhà trường từ 2005 đến 2010 như sau: Các yêu cầu Hiện có 2005-2006 Năm học 2006-2007 Năm học 2007-2008 Năm học 2008-2009 Năm học 2009-2010 Ghi chú Số lớp 27 28 30 32 34 Số giáo viên cần có 57 59 61 65 69 Còn thiếu (So hiện nay) 06 08 12 16 18 Dự kiến GV chuyển đi, để xin bổ sung 03 Toán, Lý Anh 02 Toán, Anh 02 Toán, Sử 02 GDCD Anh 02 Địa Vật lý Đảng viên 11 17 23 30 35 Chiến sĩ thi đua (Tỉnh và cơ sở) 09 12 15 20 25 Lý luận chính trị trung cấp trở lên 08 01 02 03 03 Học ở trường Đảng tỉnh Sử dụng tin học cơ bản 24 (45%) 90% 100% 100% 100% Trình độ Anh 11 16 20 25 40 Đào tạo Đại học 02 Toán, Hoá 01 Văn 02 Hoá, Địa 01 Toán 02 Sinh, Sử Bồi dưỡng để đạt chuẩn 01 04 Hoàn tất Hoàn tất Hoàn tất - Về giáo viên còn thiếu: Đề nghị Sở giáo dục cho bổ sung đủ ở các bộ môn Toán, Văn, Anh văn, Vật lý, GDCD, Tin học. Chú ý có đội ngũ ổn định hơn ở bộ môn Anh văn, Vật lý để có kế hoạch xây dựng đội ngũ nòng cốt lâu dài ở các bộ môn này. - Làm đúng thủ tục để đề nghị bổ nhiệm mới 02 cán bộ quản lý (trong đó có 01 nữ). Đề cử 01 cán bộ dự học lớp trung cấp chính trị và 01 cán bộ học lớp đào tạo thạc sĩ. Có kế hoạch bố trí cho giáo viên, ưu tiên là cốt cán được đào tạo sau đại học và đội ngũ kế cận dự lớp trung cấp chính trị hàng năm. Tăng cường công tác phát triển Đảng để nhà trường có Đảng bộ trước 2010. - Về nâng chuẩn: Động viên và tạo điều kiện cho một số giáo viên dự thi và học thạc sĩ, trong đó bộ môn Toán 02, Văn 01, Sử 01, Địa 01, Anh văn 01 và Hoá 02. - Về đạo đức, phẩm chất chính trị: Kịp thời phổ biến để đội ngũ quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước thông qua nhiều hình thức như tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu năm học, giữa và cuối năm do Ban tuyên giáo Huyện uỷ về báo cáo hoặc Bí thư Chi bộ triển khai. Tổ chức sinh hoạt có chất lượng trong Chi bộ và các đoàn thể, quan tâm công tác xây dựng tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên và Công đoàn vững mạnh. Có kế hoạch để các tổ chức trong nhà trường đều có Đảng viên và mọi Đảng viên đều đạt trình độ trung cấp lý luận chính trị vào năm 2010. - Về công tác chuyên môn nghiệp vụ: Tập trung xây dựng đội ngũ nòng cốt trong các bộ môn, xây dựng đội ngũ giảng dạy khá tốt đạt 100%. Phấn đấu đến 2010 có 8 tổ chuyên môn gồm tổ Toán, Lý, Hoá Sinh, Văn, Anh văn, Sử Địa, GDCT-TD, Tin học và công nghệ. Tăng cường công tác kiểm tra bằng nhiều hình thức, thận trọng trong việc đánh giá và cụ thể hoá tiêu chí đánh giá của Bộ Nội vụ về đánh giá giáo viên cuối năm đúng phẩm chất và năng lực của họ. Lấy việc giáo dục phẩm chất đạo đức làm trọng, từ đó nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ. 2.2. Thường xuyên giáo dục đội ngũ nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của người giáo viên: Để phát huy được lương tâm nghề nghiệp của người giáo viên. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, hội thảo chủ đề về “Người thầy giáo với công cuộc đổi mới đất nước” làm cho mọi giáo viên nhận thức đúng về vị tí của mình là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chú ý đến tâm của người thầy, vì người giáo viên có tài giỏi bao nhiêu, nếu như không có một tấm lòng nhân ái, yêu thương con người thì không thể làm tròn thiên chức nhà giáo, không thể gọi là kỹ sư tâm hồn được. Vì thế tình thương yêu học sinh là một trong những yêu cầu cần thiết của người giáo viên mà nhà quản lý cần phải khơi dậy, đồng thời đó cũng là điều kiện cần để mọi thầy giáo hoàn thành sứ mệnh của mình. 2.3. Quan tâm xây dựng lực lượng cốt cán nhà trường: Lực lượng này bao gồm các đồng chí trong cấp uỷ, các uỷ viên trong Ban chấp hành công đoàn, đoàn, tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, giáo viên đảm nhận điều hành các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Đội ngũ này có một vị trí hết sức quan trọng là cầu nối giữa lãnh đạo trường với đội ngũ giáo viên, là người đầu tiên quán triệt và tổ chức thực hiện mọi chủ trương nhà trường trong phạm vi chức năng của mình, là lực lượng nòng cốt có tác dụng trực tiếp nhất về nâng cao chất lượng của giáo viên.. Vì vậy để xây dựng và phát huy hết khả năng của đội ngũ này. - Trước hết cần xem xét ý thức tinh thần trách nhiệm thông qua những biểu hiện hàng ngày trong công việc và trong cuộc sống. - Tăng cường tìm hiểu, thăm dò, kiểm tra năng lực tổ chức thực hiện công việc. - Làm tốt công tác tư tưởng trước khi bố trí, giao việc. - Bồi dưỡng, cử đi dự các lớp tập huấn đào tạo để họ biết rõ chức năng nhiệm vụ và nâng cao công tác chuyên môn của mình. - Bồi dưỡng công tác xây dựng kế hoạch và kế hoạch hoá công việc của tổ chức mình hàng tháng, hàng kì theo mục tiêu, yêu cầu của Chi bộ bà nhà trường trong từng năm học dựa trên nghị quyết của Chi bộ và kế hoạch nhà trường đã được thông qua. - Tổ chức trực báo định kỳ vào sáng thứ hai tuần đầu mỗi tháng để nghe phản ánh, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch đã qua và thống nhất triển khai công tác tháng đến trước khi triển khai rộng rãi trong hội đồng. Qua đó góp phần bồi dưỡng đội ngũ cốt cán về phong cách, phương pháp quản lý. - Thực hiện sự phối hợp, đoàn kết, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để đội ngũ này hoàn thành nhiệm vụ. 2.4. Xây dựng mạng lưới chuyên môn đủ mạnh, đủ năng lực để giải quyết các yêu cầu đặt ra về chuyên môn cho đội ngũ: Mạng lưới chuyên môn trong nhà trường bao gồm: Các tổ trưởng nhóm trưởng chuyên môn là những hạt nhân nòng cốt trong công tác chuyên môn. Vì vậy tổ trưởng, nhóm trưởng bộ môn là những giáo viên thuộc lực lượng cốt cán, có năng lực và đam mê về chuyên môn nghiệp vụ, biết tổ chức điều hành có hiệu quả công việc của tổ. Để nâng cao hiệu quả quản lý của tổ trưởng bộ môn cần: - Phổ biến và cung cấp tài liệu để tổ trưởng nắm và chỉ đạo tổ viên thực hiện đúng đắn các quy định quy chế về soạn, giảng, chấm chữa, kiểm tra, cho điểm, đánh giá học sinh, đánh giá tổ viên. - Triển khai cho tổ trưởng nắm chắc mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ năm học của ngành để cùng với lãnh đạo nhà trường xây dựng kế hoạch hàng năm của đơn vị mình khoa học, đảm bảo tính kế thừa và sự phát triển nhà trường ngày càng cao. Trên cơ sở đó để xây dựng được kế hoạch tổ bộ môn hợp lý với những biện pháp mang tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng dạy học. - Cử tổ trưởng, nhóm trưởng tham gia tập huấn các lớp bồi dưỡng đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ để tổ trưởng nắm chắc nội dung, chương trình, phương pháp soạn, giảng, cách thức sử dụng phương tiện giảng dạy bộ môn của mình và triển khai thực hiện thống nhất trong từng bộ môn. - Thống nhất lịch sinh hoạt định kỳ 2 lần/tháng vào 15 giờ chiều thứ năm ở tuần thứ 2 và tuần thứ 3 cho các tổ bộ môn, tạo cho tổ trưởng chủ động trong việc triển khai kế hoạch và giải quyết những vấn đề đặt ra để nâng cao chất lượng tổ viên về chuyên môn như thao giảng, dự giờ, góp ý giờ dạy, kiểm tra hồ sơ sổ sách, đánh giá tổ viên v.v... 2.5. Phải tích cực để xây dựng nhà trường thành một tổ chức học tập: Để thực hiện được giải pháp này: - Nhà trường không ngừng chú ý nâng cao nhận thức để mỗi giáo viên thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập. “Học thường xuyên và suốt đời”: Học ở đây không chỉ để lấy bằng cấp cao hơn mà chính là để giáo viên hiểu, biết và vận dụng, ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả dạy học, giáo dục đồng thời đáp ứng được những yêu cầu mới trong công tác đội ngũ mà toàn ngành đang đặt ra. Theo UNESCO 04 trụ cột của giáo dục trong thế kỷ XXI là học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định mình vì thế coi việc giáo dục đội ngũ vươn lên tự học tự rèn là một nhiệm vụ chính trị hết sức cấp bách của chính quyền và mọi tổ chức trong nhà trường, là một tiêu chí thi đua cơ bản để mọi giáo viên có định hướng cụ thể và một thái độ nghiêm túc, một tinh thần cầu thị. Chi bộ Đảng cũng như chi đoàn TNCS Hồ Chí Minh xem đây là một chỉ tiêu phấn đấu của mỗi đảng viên, đoàn viên. - Phải tạo được một môi trường tốt về học tập nhằm cuốn hút mọi thành viên trong nhà trường thi đua tìm tòi học tập và sáng tạo: nhà trường cần xây dựng một cung cách làm việc, học tập nghiêm túc tích cực và chu đáo. Chủ động và đổi mới công tác bồi dưỡng đội ngũ: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng mang tính khả thi, có nội dung toàn diện được tổ chức bằng nhiều hình thức và phương pháp thích hợp: Như tự nghiên cứu, tự triển khai tại chỗ: Thông qua việc tổ chức hội thảo các chủ đề về khoa học, chính trị, thời sự, chuyên môn, nghiệp vụ báo cáo những sáng kiến kinh nghiệm hay, những việc làm tốt hàng năm của giáo viên, thực hiện đầy đủ sinh hoạt chuyên môn 2 lần/tháng có chất lượng, dự học chương trình bồi dưỡng thường xuyên, tự tổ chức các lớp học vi tính, ngoại ngữ vào ban đêm. Xây dựng điểm để nhận diện, cử cán bộ giáo viên tham gia các lớp đào tạo về lí luận chính trị ở trường Chính trị của Tỉnh, đào tạo đạt chuẩn, vượt chuẩn và đào tạo chương trình quản lý giáo dục ở trường quản lý giáo dục trung ương. - Cung cấp cơ sở kiến thức ban đầu để đội ngũ được nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động. Trước khi bước vào năm học, tiếp nhận giáo viên mới, nhà trường sẽ phổ biến để giáo viên nắm chắc các quy định, quy chế chuyên môn. Tạo điều kiện để mọi giáo viên đều được tham gia học tập đầy đủ các lớp bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Có kế hoạch và thời gian cụ thể cho cán bộ giáo viên nắm bắt kịp thời những thông tin về thời sự, chính trị, các quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Chỉ đạo tổ chuyên môn triển khai thực hiện đầy đủ các chuyên đề về chuyên môn nghiệp vụ trong từng thời gian cụ thể ở từng bộ môn. Đặc biệt cũng từ năm học này cần quán triệt tốt nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, nghị quyết đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII, luật giáo dục sửa đổi, những quan điểm, yêu cầu về đổi mới giáo dục đến mỗi cán bộ giáo viên. Bồi dưỡng đề giáo viên nắm chắc những nội dung cơ bản chương trình và sách giáo khoa mới theo từng bạn học, những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ phương pháp và các hình thức dạy học theo đặc trưng bộ môn do ngành giáo dục đào tạo Tỉnh tổ chức. - Tạo điều kiện về tinh thần và vật chất để giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ trong và ngoài tỉnh: - Trước hết là thực hiện chi trả các khoản công tác phí đi lại kịp thời, đúng chế độ, có bố trí dạy thay dạy thế cho giáo viên đi học và động viên khen thưởng nếu đạt thành tích cao. Tổ chức giao lưu tham quan học tập các đơn vị tiên tiến vào cuối kỳ Y và hè hàng năm. Tăng cường phương tiện học tập chậm nhất là cuối năm học 2006-2007 để có thư viện tiên tiến với đủ số lượng sách báo tối thiểu cần thiết các loại, nhất là các tạp chí chuyên ngành để giáo viên nghiên cứu học tập, trang bị 2 phòng tin học có nối mạng, mua sắm các phương tiện dạy học hiện đại (máy chiếu qua đầu, camera, máy chiếu projecter, moniter) các thiết bị thực hành bộ môn. - Tạo điều kiện để đội ngũ được cập nhật thông tin. Những thông tin cần thiết sẽ được nhà trường trực tiếp thông qua các đợt sinh hoạt hàng tuần hoặc qua bảng thông báo, còn lại được lưu vào kẹp “Công văn cần đọc” đặt ở phòng hội đồng để giáo viên chủ động nghiên cứu, tìm hiểu. Các văn bản quan trọng như nhiệm vụ năm học, kế hoạch hàng năm, lịch công tác đều được in phát cho từng giáo viên. Các bản quy ước thi đua, các quy định về lề lối làm việc, các văn bản về chuyên môn v.v... được phát tận tay cho tổ trường và cốt cán. Để mọi giáo viên đều thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, cần tổ chức hội thảo, hội thi, giảng dạy minh hoạ theo từng loại bài đặc trưng cụ thể nhằm đúc kết kinh nghiệm, có chuyên gia bổ trợ. 2.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học: Đây là mặt còn hạn chế trong đội ngũ. Vì vậy cần tổ chức để cán bộ giáo viên tập được nghiên cứu khoa học, trước hết là tham gia, phổ biến, trao đổi những kinh nghiệm hay về công tác dạy học và giáo dục, mà mỗi cá nhân đã đúc kết được từ thực tế dạy học và giáo dục hoặc từ các tạp chí như nghiên cứu giáo dục, giáo dục thời đại, hoá học, toán học, văn học tuổi trẻ v.v... (Những tạp chí này trường đều có đặt mua và phải cố gắng tiếp nhận kịp thời, tối thiểu 01 số/loại). Động viên giáo viên mạnh dạn trình bày trao đổi những suy nghĩ của mình về các nội dung trên thông qua diễn đàn rộng rãi hơn. Phổ biến cho giáo viên cách trình bày “Sáng kiến kinh nghiệm” và quy trình mỗi khi giáo viên đăng ký thi đua đều có đăng ý tên đề tài “Sáng kiến kinh nghiệm”. Những sáng kiến này hàng năm phải được hội đồng khoa học nhà trường xét duyệt và xếp loại và là một trong những cơ sở để xét đề nghị danh hiệu thi đua cuối năm, những sáng kiến tốt được phổ biến cho đội ngũ học tập vận dụng. Trong nhiều năm qua, một số giáo viên đã trình bày được những kinh nghiệm của mình về dạy học ở một số loại bài, một số bộ môn, về tổ chức các hoạt động tập thể. Song một số mảng nội dung còn ít được đề cập như về giáo dục học sinh, về nâng cao hiệu quả dạy học thực hành thí nghiệm, dạy học ở phòng bộ môn. Vì thế nhà trường sẽ giao từng chủ đề đến từng cá nhân, các nhóm bộ môn tự nghiên cứu và tổ chức báo cáo thảo luận theo kế hoạch cụ thể của chuyên môn, tham gia tháo gỡ những vướng mặt của nhà trường hiện nay về đổi mới phương pháp (đặc biệt là với đối tượng học sinh yếu kém), về gắn giảng dạy với giáo dục, về giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức, rèn các kỹ năng cho học sinh, về công tác quản lý lớp tổ chức các hoạt động tập thể thông qua các cuộc hội thảo, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn, sinh hoạt chủ nhiệm hàng tháng, hàng tuần. Tập trung đổi mới phương pháp giảng dạy . Xem việc đổi mới phương pháp dạy học là một khâu đột phá đồng thời là bước đi quyết định trong việc nâng cao chất lượng học và là một tiêu chí để đánh giá giáo viên hàng năm. 2.7. Cùng tiếp tục lôi cuốn các tổ chức trong, ngoài nhà trường cùng tham gia vào công tác nâng cao chất lượng đội ngũ: - Với tổ chức Công đoàn: Cuộc vận động: “Dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” đã đạt được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trường THPT Phú Lộc giai đoạn 2005 - 2010.doc
Tài liệu liên quan