Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta

Trên thị trường lúa gạo thế giới hiện nay, mặc dù nước ta xếp thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu sau Thái Lan; song trên thực tế ngoài Thái Lan ra, chúng ta còn vấp phải sự cạnh tranh từ rất nhiều nước như: Mĩ, ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia. Những nước này đã làm ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. So với Thái Lan, sản lượng gạo của ta xấp xỉ với sản lượng gạo của họ, song do dân số đông hơn nên xuất khẩu gạo của ta vẫn chưa bằng được (Thái Lan xuất khoảng 6 triệu tấn/năm) mặc dầu năng suất lúa của ta cao hơn hẳn của Thái Lan.

docx41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 1999 và năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho các nước vốn xuất khẩu gạo bị giảm sản lượng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn chế; còn các nước vốn đã nhập khẩu gạo thì lại càng phải nhập nhiều hơn. Điển hình là châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh vừa qua gặp hạn hán nặng và tình hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập thêm nhiều. Ngược lại, những nước trước đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu á là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới. Theo cơ quan hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nước này chỉ nhập khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo thay vì 3-3,5 triệu tấn như trước. Còn Philippin cũng chỉ nhập 0,5-0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7 triệu tấn(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí Cộng sản số 8(4/2000) trang 41 . Sở dĩ như vậy là vì có sự cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia với Việt Nam về chất lượng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nhìn chung, trên thị trường chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất có hạn bởi vì như trên đã nói một số nước nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định kinh tế, chính trị, do vậy nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. ở châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập khẩu có tăng, song thị trường ở đây còn nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, do vậy tỉ trọng gạo xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ trọng xuất sang một số thị trường tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trường truyền thống, tăng cường, xâm nhập và mở rộng các thị trường mới. Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nước và lãnh thổ, trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng loại cà phê xuất khẩu của chúng ta rất nghèo nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên chúng ta thường xuất sang các nước phát triển có nền công nghiệp chế biến, để họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trường cà phê là một thị trường cực kì bất ổn, luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê nhân. Có năm như niên vụ 1998-1999, giá cà phê lên rất cao khoảng 900-1200 USD/tấn; nhưng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ còn khoảng 400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nước nhập khẩu cà phê nhân nhiều, có năm họ nhập ít. Trong những năm tới, thị trường chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ, Nhật, và Singapore. Cà phê của chúng ta chất lượng tương đối tốt mà giá lại rẻ nên vẫn có sức cạnh tranh trên các thị trường này. Đối với mặt hàng cao su, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trước đây là Liên Xô, khoảng 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Song những năm gần đây, thị trường này không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp. Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lượng. Nhưng do xuất qua tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thường xuyên xảy ra; xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lượng((1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 24 (2): Thời báo kinh tế Việ Nam số 146 (6/12/2000) ; còn tiêu thụ trong nước thì thật ít ỏi chỉ khoảng 20%. Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với giá là 670 USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trước(2). Chất lượng cao su của chúng ta tốt, nhưng không phù hợp với nhu cầu của thế giới nên chỉ xuất được sang Trung Quốc là chủ yếu. Đối với mặt hàng thủy sản, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU chiếm khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thường xuyên của Việt Nam từ nhiều năm qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhưng số lượng hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính đến năm 1998, cả nước đã có 27 doanh nghiệp chế biến thủy sản được xếp vào danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu. Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao. Nhưng là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu. Nhật Bản cũng là một cường quốc về đánh bắt thủy hải sản, với các phương tiện kỹ thuật rất hiện đại nhưng giá thành lại cao hơn so với nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa dạng, phong phú. Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản chủ yếu của ta. 2-Thị trường tiềm năng: Ngoài thị trường chính ở châu á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và đang xuất sang các thị trường mới như EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là các thị trường rất khó tính nhưng có tiềm năng lớn vì những nước này có nền công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sở dĩ như vậy vì phần lớn diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào việc xây dựng các khu công nghiệp, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư. Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động nông nghiệp để tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lượng tăng thêm do áp dụng khoa học kĩ thuật không bù được sản lượng mất đi do thiếu đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp. Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn Quốc đặc biệt là Mĩ ngày càng có bước phát triển mới. Riêng với EU và Nhật, Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào các nước này sẽ giảm đi. Mặt khác, chất lượng gạo của chúng ta không ngừng được cải thiện do thành quả của việc ứng dụng khoa học vào nông nghiệp, do đó ngày càng được các khách hàng tin cậy và trụ vững được trên thị trường này. Đối với cà phê, thị trường tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Nga và Đông Âu. Những nước này hàng năm vẫn nhập cà phê của ta, song số lượng rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của ta và bạn. Do vậy, trong những năm tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này, khẳng định uy tín và chất lượng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên , chúng ta cũng cần đề phòng các biến động có thể xảy ra vì thị trường cà phê thường không ổn định. Đối với cao su, thị trường nội địa tiêu thụ 20%-30% sản lượng cao su. Tuy nhiên, thị trường này có tiềm năng lớn vì nước ta là nước đang phát triển nên có nhu cầu khối lượng cao su thiên nhiên lớn trong tương lai. Những ngành tiêu thụ cao su lớn nhất là ngành công nghiệp ô tô, xe máy và các ngành công nghiệp hỗn hợp sản xuất các đồ cao su gia dụng và các sản phẩm cao su khác như tấm trải sàn, găng tay y tế,...Sản lượng tiêu thụ nội địa dự kiến tăng khoảng 35%-40% trong những năm đầu thế kỷ 21((1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 23 (2): Kinh tế Thế Giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, trang 260. Ngoài ra, ta còn xuất khẩu cao su sang châu Âu và Mỹ, hai thị trường này chiếm khoảng 10% doanh số xuất khẩu. Trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ thu được những lợi thế lớn vì Trung Quốc là nước tiêu thụ cao su thiên nhiên lớn nhất. Mức tiêu thụ cao su của Trung Quốc tăng trên 7,5%/năm. Đối với thủy sản, thị trường tiềm năng của ta trong tương lai sẽ là Bắc Mỹ, Đông Âu và Trung Đông. Từ sau khi kí Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, trao đổi buôn bán giữa hai nước tăng mạnh. Dự báo đến năm 2005 thị trường này sẽ chiếm khoảng trên 20% sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam(2). Đối với Đông Âu thì từ năm 1990 trở về trước là bạn hàng truyền thống của Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng về kinh tế, khu vực này trở nên kiệt quệ, nhưng những năm gần đây, nền kinh tế ở khu vực này đã được khôi phục và có bước phát triển đáng kể, chất lượng cuộc sống được cải thiện, cùng với nó là nhu cầu về thủy sản cũng tăng lên. Trong tương lai đây sẽ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Đối với Trung Đông, thì đây là một khu vực giầu có trên thế giới, nhưng lại hay có những biến động về chính trị, nền kinh tế bị ảnh hưởng mà nguồn thủy hải sản lại ít ỏi nên đây sẽ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của ta trong những năm tới. II-Những thành tựu và khó khăn trong quá trình xuất khẩu: 1-Thành tựu: a-Gạo: Năm 1989, nước ta chính thức tham gia vào thị trường xuất khẩu lúa gạo thế giới với số lượng xuất khẩu là 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình quân 204 USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa nhiều, giá còn thấp, chất lượng gạo chưa phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới nhưng đối với nước ta, kết quả đó đánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá gắn liền với xuất khẩu. Từ năm 1989 đến nay, gạo nước ta luôn có mặt trên thị trường thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao (duy có năm 2000 do thị trường biến động nên xuất khẩu bị giảm). Bảng 6 - Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam Năm 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 Số lượng (triệu tấn) 1,42 1,63 1,1 2,0 1,72 2,0 2,1 3,1 3,7 3,8 4,6 3,5 Giá trị (tỷ USD) 0,29 0,31 0,24 0,42 0,37 0,43 0,53 0,87 0,9 1,1 1,03 0,7 Giá bình quân (USD) 204 188 227 215 210 214 258 285 242 269 228 200 Nguồn; Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc Tạp chí Cộng sản - số 7 (4/1999) trang 47 Qua bảng trên, ta thấy mặc dù số lượng gạo xuất khẩu một số năm có biến động song xu hướng chính vẫn là tăng lên. Trong 12 năm, nước ta đã cung cấp cho thị trường thế giới hơn 30,3 triệu tấn gạo, bình quân 2,53 triệu tấn/năm; thu về 7 tỉ 158 triệu USD, bình quân 596,5 triệu USD/năm, một con số rất đáng tự hào mà trước đổi mới chỉ là mơ ước. Xuất khẩu gạo hàng năm chiếm tỉ trọng trung bình khoảng 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, 3,3% GDP. Từ năm 1997 đến nay, Việt Nam đã vượt Mĩ để đứng thứ 2 sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Điểm nổi bật của nước ta trong xuất khẩu gạo hơn 10 năm qua là tính ổn định cao so với các đối thủ cạnh tranh. Theo đánh giá của FAO (Tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới), ở châu á ngoài Thái Lan còn có 3 nước khác có khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc. Song12 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu của 3 nước này đều không ổn định: ấn Độ có năm xuất khẩu 5 triệu tấn gạo (1995) vượt lên đứng vị trí thứ 2 sau Thái Lan, nhưng các năm khác lại rất thấp, phổ biến dưới 1 triệu tấn (1993 là 767.000 tấn,1994 là 890.000 tấn, năm 1997là dưới 2 triệu tấn). Pakistan năm cao nhất là 1,8 triệu tấn (1995), các năm khác dưới 1 triệu tấn. Trung Quốc năm cao nhất là 1,6 triệu tấn, các năm khác cũng phổ biến ở mức 1 triệu tấn(1),(2): Xuất khẩu gạo ở Việt Nam -10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 44, 46 . Bên cạnh sự tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chủng loại và chất lượng là thực tế và rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất lượng trung bình, tỉ lệ tấm cao trên 25% chiếm 80-90% nên sức cạnh tranh kém, giá cả thấp (Bảng 6). Từ năm 1995 trở lại đây, chất lượng và chủng loại được cải thiện nhiều. Gạo có chất lượng cao (hạt dài, ít bạc bụng), tỉ lệ tấm thấp (từ 5-10%) chiếm khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu và có xu hướng tăng lên; còn gạo có chất lượng trung bình (hạt tròn, bạc bụng), tỉ lệ tấm cao (trên 10%) chiếm tỉ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1995-1998) là 269USD/tấn, tăng 61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm về trước đó (1989-1994). Điều đáng chú ý là khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam và Thái Lan đã bị thu hẹp dần từ 40-55 USD/tấn những năm 1989-1994 xuống còn 20-25 USD/tấn những năm 1995-2000(2) Việc Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành một cường quốc xuất khẩu gạo có một ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Xét về giá trị ngoại tệ mạnh thu đựơc, xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô, song xét về tính chất sản phẩm thì gạo có nhiều điểm trội hơn dầu thô. Thứ nhất, gạo xuất khẩu là phần để dành ra được sau khi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và an ninh lương thực; còn dầu thô phải xuất toàn bộ. Thứ hai, gạo xuất khẩu là sản phẩm 100% Việt Nam, còn dầu thô là sản phẩm liên doanh. Thứ ba, dầu là sản phẩm khai thác từ tài nguyên thiên nhiên, càng khai thác càng cạn kiệt; trong khi gạo là sản phẩm của trồng trọt, càng xuất khẩu càng kích thích thâm canh, tăng vụ nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng. Thứ tư, hiệu quả kinh tế-xã hội-quốc phòng-an ninh và môi trường của sản xuất và xuất khẩu gạo cao hơn nhiều so với bất kì mặt hàng xuất khẩu nào của nước ta. b-Cà phê: Hiện nay, cà phê đã trở thành mặt hàng mũi nhọn trong chiến lược hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Cà phê đứng trong số mười mặt hàng (Top ten) có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (xấp xỉ 500-1000 triệu USD). Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê một số năm Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1993 1995 1997 1998 2000 Số lượng 1000 tấn 89,6 122,7 248,1 389 382 686 Giá trị Triệu USD 74 111 305 490 594 378 Giá / tấn USD 825,9 904,6 1230 1259,6 1555 550 Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam - Bộ Thương mại trang 13,14 Qua bảng trên, ta thấy số lượng cà phê xuất khẩu liên tục tăng qua các năm: năm 1998 số lượng xuất khẩu đạt 382.000 tấn nhiều hơn năm 1991 là 292,4 tấn, tỉ lệ tăng là 326,34% tức là gần gấp 3,3 lần; tương ứng với sự gia tăng số lượng là sự gia tăng về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1998, giá trị xuất khẩu đạt 594 triệu USD, tăng so với năm 1991 là 520 triệu USD, gấp hơn 8 lần. Với kết quả trên, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 trên thế giới sau Braxin và Côlômbia. Sản xuất cà phê phát triển đã tạo ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế và đời sống của đồng bào vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Nếu như trước đây khi cây cà phê chưa phát triển thì đồng bào ở đây chủ yếu độc canh cây lúa trên mảnh đất không thích hợp cho việc trồng lúa do vậy đời sống rất thiéu thốn, bấp bênh. Hiện nay, nhờ chính sách giao đất của nhà nước mà nhiều hộ đã đi vào chuyên canh cây cà phê và đạt hiệu quả kinh tế rất cao, đời sống khá giả hẳn lên. Các trang trại cà phê cũng là nơi thu hút được nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người địa phương và người ở vùng khác đến. Do kim ngạch xuất khẩu cà phê mấy năm gần đây tăng liên tục (bình quân 20%/năm), có năm đạt gần 600 triệu USD mà cà phê đã được chính phủ ta xếp vào 3 nhóm hàng mũi nhọn (cà phê, thuỷ sản, điện tử) cần được quan tâm chú ý(1): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta - Nguyễn Đình Long – Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53 1). c-Cao su: Nhờ tích cực đổi mới kỹ thuật, công nghệ chế biến, nâng cao tay nghề công nhân mà việc chuyển hướng sang sản xuất cao su định chuẩn (SVR) đã thành công. Nếu năm 1987, các công ty cao su đã sản xuất được 75,9% mủ khối cao su định chuẩn; 3,5% mủ ly tâm (mủ kem); 13,5% mủ tờ (ICR,RSS); 2,9% mủ creve và 4,4% cao su tinh sét thì đến năm 1996 cơ cấu này dã có nhiều thay đổi, tỷ lệ tương ứng là 94,4%; 3,0%; 1,4% và 0,2%; năm 1999là 94,4%; 2,4%; 0,9% và 0,5%(2). Tính chung giai đoạn 1976-1980, sản lượng cao su chế biến đạt 190.000 tấn, giai đoạn 1981-1990 đạt 488.000 tấn; giai đoạn 1990-1999 sản lượng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt 1050 ngàn tấn, như vậy là đã tăng gấp 2,3 lần so với 10 năm trước và gấp 5,5 lần so với 5 năm sau giải phóng((2),(3): Công nghiệp chế biến cao su trên đường hội nhập. Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn Hữu Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18 (9/2000) . Những năm gần đây, sản lượng cao su đã tăng đáng kể với tốc độ 6,27% mỗi năm. Chất lượng cao su của chúng ta rất tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ngành cao su đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và còn dư thừa để xuất khẩu góp phần làm tăng tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. d-Thủy sản: Thực hiện phương châm đánh bắt xa bờ, hàng ngàn tàu đánh cá thuộc đủ các thành phần kinh tế đã tấp nập ra khơi đến các ngư trường mới có nhiều tôm cá hơn. Sáu tháng đầu năm 1998, sản lượng thủy sản đạt trên 800.000 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Năm 1990, xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 1997 đạt 776 triệu USD(1): Thuỷ snả Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 47. . Năm 1998, xuất khẩu đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm 1997(2): Kinh tế Thế Giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng.Nhà xuất bản chính trị quốc gia trang 260. . Năm 2000 đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995(3): Thành tựu 15 năm phát triển kinh tế. Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí Cộng sản số 1 (1/2001) trang 13 . Hàng thủy sản của Việt Nam hiện nay đã được công nhận nằm trong danh sách nhóm I các nước xuất khẩu thủy san vào thị trường EU sau khi đã vượt qua cuộc kiểm tra chất lượng của cơ quan thực phẩm Mỹ. Sự phát triển và tăng trưởng của ngành thủy sản trong những năm đổi mới không chỉ tạo ra thế và lực mới cho ngành mà còn góp phần quan trọng trong việc phân công lại lao động xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Từ đó khẳng định vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế nước ta một cách rõ ràng hơn. 2-Khó khăn-thách thức: a-Gạo: Trên thị trường lúa gạo thế giới hiện nay, mặc dù nước ta xếp thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu sau Thái Lan; song trên thực tế ngoài Thái Lan ra, chúng ta còn vấp phải sự cạnh tranh từ rất nhiều nước như: Mĩ, ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia. Những nước này đã làm ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. So với Thái Lan, sản lượng gạo của ta xấp xỉ với sản lượng gạo của họ, song do dân số đông hơn nên xuất khẩu gạo của ta vẫn chưa bằng được (Thái Lan xuất khoảng 6 triệu tấn/năm) mặc dầu năng suất lúa của ta cao hơn hẳn của Thái Lan. Về chất lượng, nói chung chất lượng gạo của Việt Nam còn thấp thể hiện ở chỗ độ trắng không đều, tỉ lệ tấm, tỉ lệ bạc bụng còn cao; có hạt vàng, độ bóng còn kém. Ngoài ra, còn một số yếu tố thương mại khác ảnh hưởng đến chất lượng gạo xuất khẩu như mẫu mã bao bì đóng gói. Về giá, giá gạo của ta luôn thấp hơn giá gạo của Thái Lan, ấn Độ, Pakistan kể cả Trung Quốc. Bảng 8:So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan Thời gian Loại gạo Giá gạo Việt Nam USD / tấn Giá gạo Thái Lan USD/tấn 1995 100%B(=5% tấm) 15% tấm 35% tấm Giá bình quân FOB 262 352 328 306 1996 100%B(=5% tấm) 15% tấm 35% tấm Giá bình quân FOB 284 382 364 330 1997 100%B(=5% tấm) 15% tấm 35% tấm 249,5 243 222 262 240 211,7 Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 54 Mặc dù, mấy năm gần đây khoảng cách về giá đã được thu hẹp song khả năng cạnh tranh ngang ngửa với Thái Lan về giá là có thể xảy ra. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng gạo của ta. Nếu chất lượng gạo của ta cũng tương đương với gạo Thái Lan thì lúc đó giá gạo của Thái Lan phải theo giá gạo của Việt Nam bởi vì chi phí sản xuất lúa của Việt Nam rẻ hơn của Thái Lan. Ước tính chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam bình quân vào khoảng 85-97 USD/tấn còn Thái Lan là 105-125 USD/tấn. Bảng 9: So sánh một số nhiên liệu chính cho sản xuất lúa Vật tư chính Việt Nam Thái Lan Xăng (lit) 0,35 USD = 2,4 kg thóc 0,4 USD = 2,7 kg thóc Dầu DO (lit) 0,26 USD = 1,8 kg thóc 0,3 USD = 2 kg thóc Điện (1kw/h) 0,064 USD = 0,5 kg thóc 0,12 USD = 0,65 kg thóc Nguồn: Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta - Nguyễn Đình Long . Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53 Như vậy, về mặt giá cả và giá thành lúa, chúng ta có lợi thế, song từ sản xuất lúa đến gạo xuất khẩu có sức cạnh tranh mạnh vẫn còn một chặng đường không ít khó khăn. Ngoài những khó khăn trên, trong xuất khẩu gạo hiện còn có những yếu kém, khó khăn như: Thứ nhất là chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất khẩu (vùng nào, địa phương nào, bao nhiêu diện tích, cơ cấu giống lúa, đầu tư thâm canh). Một số vùng và địa phương đã hình thành quy hoạch và kế hoạch, song vẫn nặng tính tự phát cục bộ kể cả vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Thứ hai là mạng lưới thu mua, vận chuyển, chế biến lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu gạo vẫn phụ thuộc quá lớn vào tư thương chưa có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp lương thực nhà nước. Thực tế hiện nay các Tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam vẫn sử dụng tư thương để thu gom, vận chuyển và chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu. Do vậy, tình trạng ép cấp, ép giá đối với nông dân diễn ra phổ biến nhất là vào năm được mùa. Thứ ba là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản, xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng ít chủ yếu được bố trí tại các thành thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho; trong khi những vùng và địa phương sản xuất nhiều lúa hàng hoá xuất khẩu như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng lại không có các nhà máy chế biến. Đầu mối xuất khẩu gạo tập trung quá lớn vào cảng Sài Gòn, trong khi đó nguồn gạo lại ở Đồng bằng sông Cửu Long nên làm tăng chi phí vận chuyển và chi phí trung gian khác. Thứ tư là việc điều hành xuất khẩu gạo như hiện nay cũng đang bộc lộ những nhược điểm. Hạn ngạch xuất khẩu gạo giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào; do đó liên tục phải điều chỉnh kế hoạch kể cả huỷ hợp đồng đã kí với khách hàng. Điều đáng chú ý là hạn ngạch giao cho từng tỉnh cũng dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh trong việc xin quota, sau đó đi mua gạo của các tỉnh khác về để tái xuất. Một số tỉnh hoàn toàn không có lúa hàng hoá vẫn được cấp quota. Thứ năm là thiếu vốn và thủ tục thanh toán của ngân hàng còn phiền nhiễu. Để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp rất cần vốn để mua lúa tạm trữ với số lượng lớn, tập trung vào thời điểm trong vụ thu hoạch lúa. Trong khi đó, khả năng cung ứng của các ngân hàng Thương mại có hạn, chính sách hỗ trợ lãi suất đối với doanh nghiệp xuất khẩu và phương thức bảo lãnh của ngân hàng cũng có nhiều điểm chưa họp lý. Cuối năm 1999, nhiều doanh nghiệp có được nhiều hợp đồng bán gạo trả chậm với số lượng lớn và có thể gối đầu sang năm 2000, song do các ngân hàng không chịu tham gia thanh toán và thu nợ nên đã không kí kết được. Thứ sáu là gạo nhập khẩu lậu qua biên giới Tây Nam và phía Bắc còn nhiều và có xu hướng ngày càng tăng. Tình hình này kéo dài từ năm 1999 làm cho quan hệ cung cầu gạo trong nước diễn biến phức tạp và khó kiểm soát. Giá sàn mua lúa của Nhà nước rất khó thực hiện nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng đến nguồn cung của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và nhất là lợi ích của người trồng lúa hàng hoá ở Nam Bộ. Đứng trước những khó khăn trên, ngành sản xuất lúa và gao xuất khẩu rất cần có những giải pháp nhằm tháo gỡ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng gạo xuất khẩu, thúc đẩy xuất gạo một cách mạnh mẽ. b-Cà phê: Hiện nay, mặc dù nước ta là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 thế giới sau Braxin và Côlômbia, song sản lượng cà phê và số lượng xuất khẩu ra thị trường thế giới của ta thì ít hơn nhiều so với hai nước trên. Sản lượng cà phê của Braxin hiện nay đạt khoảng 2,4 triệu tấn (40 triệu bao), trong đó xuất khẩu khoảng 1,3 triệu tấn. Sản lượng cà phê của Côlômbia hiện nay đạt khoảng 1,8 triệu tấn, trong đó xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn. Sản lượng cà phê của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 722.000 tấn và xuất khẩu đạt 686.013 (1999-2000) tấn(1): Thời báo Kinh tế Việt Nam số 132 (11/2000) 1). Khả năng mở rộng diện tích canh tác để đuổi kịp sản lượng của ta là rất lớn vì trong số 2 triệu ha đất trồng cà phê, ta mới chỉ sử dụng có 330.000 ha.Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích để tăng sản lượng và đặc biệt là tăng số lượng xuất khẩu của cà phê phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên phải kể đến là giá cả: Hiện nay, cà phê là mặt hàng tự do thương mại, không hạn ngạch, không giấy phép nên giá cả xuất khẩu là giá quốc tế, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của thị trường thế giới. Do vậy mà giá cà phê lên xuống rất thất thường theo tình hình sản xuất (được mùa, mất mùa) và theo tình hình tiêu thụ. Có năm giá rất cao như niên vụ 98-99, khuyến khích được người trồng cà phê; có năm giá rất thấp như năm 2000-2001 chỉ còn 430 USD/tấn làm nản lòng người trồng cà phê. Giá cả thấp khiến cho không thể xuất khẩu được vì càng xuất càng lỗ nặng. Yếu tố thứ hai là: Hiện nay, trên thị trường cà phê, Việt Nam có rất nhiều đối thủ cạnh tranh lớn như: Braxin, Côlômbia và nhóm các nước sản xuất cà phê ở khu vực Mĩ latinh (chiếm 60% sản lượng cà phê toàn cầu), Indônexia, ấn Độ, Bờ Biển Ngà. Các nước này tuy đều là thành viên của Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC), song cạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxsuc canh tranh hang nong thuy san xuat khau.docx
Tài liệu liên quan