Đề tài Một số giải pháp tăng cường đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I: Một số vấn đề lý luận chung 2

I- CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn - Một nội dung quan trọng của quá trình CNH, HĐH đất nước. 2

1. Một số khái niệm. 2

2. Nội dung và vai trò của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. 3

3. Tính tất yếu khách quan của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. 5

4. Một số tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 6

 

II- Đầu tư với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn 8

1. Đầu tư và mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển. 8

2. Nội dung và vai trò của đầu tư trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 11

3. Bài học kinh nghiệm của một số nước về vấn đề đầu tư phát triển CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. 17

Phần II: Thực trạng đầu tư cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong 21

giai đoạn hiện nay. 21

1. Tình hình kinh tế - xã hội, tự nhiên ảnh hưởng tới đầu tư cho CNH - HĐH nông thôn. 21

2. Những thành tựu đạt được. 25

3. Những tồn tại cần khắc phục 29

Phần III: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 32

I- Giải pháp huy động vốn 32

1. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 32

2. Giải pháp huy động vốn. 33

3. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. 37

Kết luận 40

Tài liệu tham khảo 41

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành nghề đa dạng khác, bao gồm chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng gốm, sứ, thuỷ tinh, rèn đúc, sửa chữa cơ khí, gia công may mặc... để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và tham gia xuất khẩu. - Đầu tư vào phát triển dịch vụ nông thôn. Đầu tư vào hệ thống khuyến nông, dịch vụ thuỷ nông, thú y, bảo vệ thực vật, cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm. 2.1.4. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật trong sản xuất, quản lý nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: - Đầu tư vào xây dựng và phát triển hệ thống các viện, trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, học viện để từ các nơi này sẽ là đầu mối của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. - Đầu tư cho việc chuyển giao, tiếp nhận khoa học - kỹ thuật - công nghệ nội bộ trong nước hoặc từ nước ngoài. Trong đó quan tâm nhất là đầu tư vào công nghệ sinh học. - Đầu tư cho việc đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức, tập huấn (nước ngoài) của cán bộ khoa học. 2.1.5. Đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đầu tư vào các ngành công nghiệp cơ khí (cơ khí nông nghiệp) ngành công nghiệp hoá chất (sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, chất kích thích tăng trưởng, chất bảo quản...) 2.1.6. Đầu tư gián tiếp thông qua hỗ trợ tín dụng cho nông dân với lãi suất ưu đãi, điều kiện vay tương đối dễ để họ trang bị máy móc nông nghiệp, giống cây con, phân bón nhằm sản xuất theo hướng CNH, HĐH. 2.1.7. Đầu tư quy hoạch xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh, các khu công nghiệp nông thôn, đô thị nông thôn, khai hoang và xây dựng các khu kinh tế mới. 2.2. Vai trò của đầu tư đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2.2.1. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Thông qua đầu tư mà chúng ta có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp bằng cách tập trung vào đầu tư sản xuất những cây, con theo nhu cầu thị trường cũng như theo chiến lược phát triển nông nghiệp, đầu tư chuyên canh theo vùng, lãnh thổ với những sản phẩm có lợi thế so sánh. Đối với cơ cấu kinh tế nông thôn đầu tư tạo điều kiện thay đổi cơ cấu ngành theo hướng nâng dần tỷ trọng công nghiệp dịch vụ thông qua tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật công nghiệp dịch vụ, đào tạo lực lượng lao động công nghiệp dịch vụ, tạo ra điều kiện giao lưu trao đổi giữa các vùng nhằm phát triển công nghiệp dịch vụ nông thôn. Về cơ cấu vùng đầu tư góp phần nâng cao chuyên môn hoágiữa các vùng, các địa phương, tạo ra sự liên hết gắn bó chặt chẽ. 2.2.2. Đầu tư với việc tạo ra các điều kiện tiền đề cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Thông qua đầu tư mà hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn được xây dựng, các ngành hỗ trợ cũng có điều kiện xây dựng và phát triển mạnh, hệ thống các trung tâm nghiên cứu được triển khai với nguồn cán bộ khoa học được đào tạo, có đủ năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn. 2.2.3. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Có thể nói quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn luôn gắn khoa học công nghệ với sản xuất vì nó là bản chất của quá trình này. Việc đầu tư nhằm tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ là yếu tố tất yếu khách quan và vô cùng quan trọng. Với mỗi nước việc để có công nghệ thì có hai cách là tự nghiên cứu chế tạo ra công nghệ hoặc mua công nghệ từ nước ngoài. Dù cho cách nào đi nữa thì đều phải có tiền và đều phải được đầu tư. Nếu tự nghiên cứu lấy thì phải đầu tư phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, hệ thống giáo dục đào tạo cũng như các điều kiện vật chất khác. Còn nhập công nghệ thì cũng phải đầu tư trang thiết bị để công nghệ hoạt động, đào tạo con người, tiếp nhận và làm chủ công nghệ, đầu tư cho các yếu tố đầu vào khác của công nghệ. Trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ sinh học là một yếu tố cực kỳ quan trọng, nước ta trong những năm gần đây dã quan tâm nhiều hơn cho lĩnh vực này thông qua tập trung nhiều hơn vốn đầu tư cho các trung tâm, viện nghiên cứu sinh học nông nghiệp, đầu tư đào tạo cán bộ nghiên cứu sinh viên ngành công nghệ sinh học và có những cơ chế chính sách khuyến khích để phát triển công nghệ sinh học phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ trong công nghiệp cơ khí nông nghiệp, trong sản xuất hoá chất nông nghiệp và trong các ngành kinh tế nông thôn (theo hướng kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ sản xuất truyền thống) cũng phải được đầu tư và chỉ có thông qua đầu tư mơi có thể cải thiêngân hàng được và tiến dần lên HĐH nông nghiệp nông thôn. 2.2.4. Đầu tư góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn từ đó hỗ trợ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn Đầu tư và phát triển luôn có mối liên hệ ràng buộc, trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đầu tư góp phần tăng nhanh sản lượng sản xuất, giá trị tổng sản phẩm, tăng thu nhập từ đó tăng tích luỹ trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Khi chúng ta đầu tư thì đồng nghĩa với việc chúng ta tạo "cú huých" tạo đà để khu vực nông nghiệp nông thôn đứng vững và phát triển từ đó tác động ngược trở lại thông qua tích luỹ được và tái đầu tư theo hướng CNH, HĐH tức là nguồn vốn đầu tư luôn được bổ sung do đó đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Có điều không phải bất cứ sự đầu tư nào cũng đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ đó hỗ trợ cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, ở nhiều nước chính phủ tập trung đầu tư chủ yếu thông qua hỗ trợ vốn lãi suất thấp, trợ giá nông sản, bù giá, yếu tố đầu vào nhằm tăng thu nhập cho nông dân mà quên đi đầu tư phát triển bền vững từ đó thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Như vậy chúng ta cần phải kết hợp, cân nhắc các hình thức đầu tư nhằm gián tiếp thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn như đã phân tích trên. 2.2.5. Đầu tư góp phần giải quyết các vấn đề tiêu cực mà giá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn tạo ra. Thứ nhất giải quyết việc làm đầu dư thừa do áp dụng máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế nông thôn thông qua đầu tư phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ không dùng nguyên liệu sản xuất từ khu vực nông nghiệp nông thôn nhưng thu hút nhiều lao động như may mặc, giầy dép... Thứ hao là khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Việc áp dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và trong các ngành kinh tế nông thôn sẽ gây ra những vấn đề về môi trường mà chúng ta không thể tránh khỏi, việc đẩy mạnh dùng các hoá chất, dùng máy móc, các công nghệ không quá hiện đại thì luôn là nguy cơ gây ô nhiễm. Đầu tư khắc phục là cần thiết và cần phải tính đến do đó đầu tư có vai trò quan trọng trong vấn đề này. Thứ ba là đầu tư góp phần khắc phục những vấn đề xã hội phát sinh trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Gắn với CNH, HĐH là thất nghiệp, tệ nạn xã hội, trộm cướp... đầu tư khắc phục là yêu cầu khách quan, góp phần gìn giữ nét truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của thế giới. 3. Bài học kinh nghiệm của một số nước về vấn đề đầu tư phát triển CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Gần 4 thập kỷ qua, kể từ năm 1960, thế giới đã chứng kiến sự trỗi dậy của xu hướng CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn của các nước, đặc biệt là các nước Châu á như Thái Lan, ấn Độ, Trung Quốc… Sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của xu hướng này bắt nguồn từ sự thất vọng về nền đại công nghiệp qui mô lớn, hiện đại ở thành phố trong việc tạo việc là, tăng thu nhập và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và khả năng giải phóng lao động nông nghiệp khỏi quan hệ truyến thống của nó ở các nước đang phát triển mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp truyền thống, kỹ thuật lạc hậu. Mặt khác, ở các nước đang phát triển, nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng và cihếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP. Vì vậy, vấn đề đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, tăng trưởng kinh tế ở khu vực nông thôn nói riêng được các nước hết sức quan tâm. Trong những năm vừa qua, nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực đã thu được nhiều thành tựu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn do thực hiện thành công CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nguyên nhân thành công phần lớn do có chính sách đầu tư hợp lý và hiệu quả. Có thể kể ra dưới đây một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế quá trình đầu tư phát triển CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các nước đó. - Đầu tư trực tiếp từ ngân sách Nhà nước để khuyến khích phát triển những sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với qốc gia như cây lương thực, cây xuất khẩu, cây đặc sản có giá trị cao… Vốn đầu tư được sử dụng để chuyển giao công nghệ mới, áp dụng kỹ thuật tiên tiến hoặc giống mới có năng suất và chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tăng mạnh đầu tư cho khoa học - kỹ thuật, đào tạo nâng cao năng lực cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và đưa về cơ sở để phát huy tác dụng. ở Inđônêxia, năm 1998 có 28000 cán bộ khuyến nông. Chi phí cho công tác khuyến nông chiếm 21% chi ngân sách hàng năm của Bộ Nông nghiệp. Ngày nay, khoa học - kỹ thuật đã là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp cũng phải bắt đầu từ khoa học - kỹ thuật. Đó là phương thức đầu tư sớm đem lại hiệu quả nhất. Giai đoạn 1966 - 1985, đầu tư cho khoa học - kỹ thuật nông nghiệp của Mỹ tăng 5,4 lần, từ 560 triệu USD lên 2.248 triệu USD, đó chính là điều kiện đưa năng suất lao động nông nghiệp Mỹ lên đứng hàng đầu thế giới trong nhiều năm. Một lao động nông nghiệp Mỹ sản xuất đủ lương thực, thực phẩm cho 60 người trong một năm. Coi trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện trao đổi hàng hoá, lưu thông giữa các khu vực trong nền kinh tế. Khai hoang và xây dựng các khu kinh tế mới nhằm tổ chức di dân. Cơ cấu lại sản xuất làm tăng năng lực sản xuất nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. - Thực hiện chính sách bù giá, trợ giá, giảm thuế… cho vật tư, hàng hoá phục vụ sản xuất và đầu tư của sản xuất nông nghiệp. Chính sách đó tạo điều kiện tăng thu nhập, tăng khả năng đầu tư của hộ nông dân. Nhà nước bù lỗ phần chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất từ hệ thống ngân hàng Nhà nước. Một số Nhà nước còn có biện pháp để các ngân hàng thương tín cho nông dân vay vốn với mức quy định 5% tổng số vốn huy động hàng năm (sau 1986 là 14% ở Thái Lan). Tại quốc gia này còn có chương trình đặc biệt cho vay tín dụng bằng hiện vật, đặc biệt chú trọng hõ trợ đầu tư cho hộ nông dân nghèo. - Trong đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn các nước đều chỉ ra rằng không thể phát triển nông nghiệp tách rời công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Bởi vậy, quốc gia nào cũng đầu tư mạnh cho công nghiệp chế biến nông sản, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong khu vực nông thôn, công nghiệp được kết hợp với nông nghiệp tạo nên cơ cấu hoàn chỉnh và thống nhất. Đồng thời đẩy mạnh đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản và hàng hoá sản xuất tại địa bàn nông thôn bao gồm: xây dựng hệ thống chợ nông thôn, tổ chức mạng lưới thu mua nông sản từ các hộ sản xuất, xây dựng hệ thống kho tàng bến bãi để dự trữ, bảo quản và sở chế nông sản… Nhưng kinh nghiệm trên có tính chất tham khảo cho quá trình đầu tư phát triển CNH - HĐH công nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có một hướng đi khác nhau, có những chính sách đầu tư phát triển khác nhau. Việc thực hiện những chính sách đầu tư phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, phát huy nội lực và lợi thế so sánh để đạt được hiệu quả cao nhất. Đầu tư cho nông nghiệp ở Trung Quốc giai đoạn 1998 - 1991 Năm Vốn đầu tư (NDT) Tốc độ phát triển định gốc 1999 15,84 100,0 1989 17,40 109,8 1990 19,16 126,2 1991 24,25 159,7 Nguồn: Đầu tư trong nông nghiệp - thực trạng và triển vọng, NXB Chính trị quốc gia. - Đầu tư cho công nghiệp, nhất là công nghiệp nông thôn vừa có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh nghiệm của nhiều nước đã khẳng định: trong khu vực nông thôn, công nghiệp phải cùng với công nghiệp để tạo nên cơ cấu hoàn chỉnh và thống nhất theo hướng CNH - HĐH, đồng thời là động lực sự phát triển. Đầu tư cho công nghiệp nông thôn vừa tác động tới đầu vào cho CNH - HĐH nông nghiệp thông qua cung cấp phân bón, xăng dầu, máy móc, nông cụ, điện. ở khoảng giữa, công nghiệp cung cấp máy móc và công cụ để chăm sóc, tỉa, bón phân và thu hoạch nông sản, điều tiết hoạt động của sinh quần trong hệ sinh thái. ở đầu ra, công nghiệp là thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá gồm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và hàng tiêu dùng lương thực, thực phẩm. ở hạ tầng, công nghiệp xây dựng và hoàn thiện đường xá, bến bãi, trạm trại nghiên cứu thực nghiệm, cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục, chợ búa, thông tin, liên lạc… Vì lẽ đó, nhiều nước dã và đang đầu tư cho công nghiệp thông qua công nghiệp từ đó tác động trở lại với công nghiệp để phục vụ quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. - Đầu tư để mở rộng thị trường trong và ngoài nước. ở các nước này đầu tư để mở rộng thị trường tiêu thụ các nông sản và hàng hoá sản xuất tại địa bàn nông thôn bao gồm các nội dung: xây dựng các trung tâm thương mại, chợ nông thôn tổ chức mạng lưới thu mua nông sản từ các chủ hộ sản xuất, xây dựng hệ thống kho tàng dự trữ, bảo quản nông sản, sơ chế nông sản, quảng cáo và tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. Phần II: Thực trạng đầu tư cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn hiện nay. 1. Tình hình kinh tế - xã hội, tự nhiên ảnh hưởng tới đầu tư cho CNH - HĐH nông thôn. 1.1. Đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn diễn ra trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ XXI nền kinh tế nước ta luôn có bước tăng trưởng cao, tốc độ phát triển bình quân là khoảng 7%, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ 14-15%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm gần đây là trên 30% GDP, tích luỹ trong nước dành cho đầu tư từ 25-27% GDP, thu nhập bình quân đầu người là gần 400$. Điều quan trọng nhất là kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng tương đối ổn định trong điều kiện trong và ngoài nước vô cùng khó khăn và đầy biến độ đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính Châu á. Đóng góp vào sự phát triển đó nền nông nghiệp nước ta có vai trò tương đối quan trọng trong đó vấn đề an ninh lương thực được giải quyết ổn thoả, tốc độ phát triển nông nghiệp từ 4,5-5% tuy nhiên một điều thấy rõ là để nông nghiệp nông thôn phát triển hơn nữa thì cần phải có những giải pháp đồng bộ để có được sự phát triển bền vững, hiện nay chúng ta đang làm có vẻ chưa mang tính hệ thống cho lắm, sự phát triển phần nhiều dựa vào thiên nhiên và người dân là chính một phần là do nguồn lực hạn chế và chưa thu hút khuyến khích được các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng. 1.2. Đầu tư cho CNH - HĐH công nghiệp nông thôn trong điều kiện nguồn đầu tư còn hạn chế. Với yêu cầu và mục tiêu đạt được tốc độ phát triển từ 7% trở lên chúng ta đang phải huy động mọi nguồn vốn đầu tư để đảm bảo tổng vốn đầu tư hàng năm phải trên 30% GDP. Điều này là hết sức khó khăn nhưng chúng ta phải vượt qua, tỷ lệ tích luỹ trong nước trong nước chỉ ở mức từ 22-27% (qua các năm) do vậy chúng ta buộc phải huy động vốn đầu tư từ bên ngoài. Có điều với nguồn vốn hạn hẹp như vậy nhưng chúng ta chưa thể phân bổ theo ý muốn để đầu tư mạnh cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, hiện nay nguồn ngân sách đóng vai trò quan trọng nhưng còn phải chịu sự chi phối từ nhiều hướng và quy mô còn chưa tương xứng với yêu cầu. Với các nguồn khác thì phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sự chênh lệch tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành và các chính sách khuyến khích đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Do đó đây có thể là vấn đề bức xúc hiện nay. 1.3. Đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong điều kiện và trình độ quản lý, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, chất lượng lao động còn thấp kém. Cơ sở hạn tầng lạc hậu. Đây là các yếu tố ảnh hưởng to lớn tới tính hiệu quả, quy mô đầu tư. Vấn đề quản lý là một vấn đề lớn ở nông nghiệp nông thôn hiện nay. Có thể nói chúng ta đầu tư hiện nay không thể phó mặc cho địa phương nếu chưa nâng cao chất lượng cán bộ cả về kiến thức lẫn đạo đức, hiện trạng trong những năm gần đây cho thấy vốn đầu tư bị thất thoát lớn, đầu tư sai mục đích, chất lượng đầu tư thấp làm khó khăn cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Về yếu tố khoa học - kỹ thuật - công nghệ: Nông nghiệp, nông thôn hiện nay trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ còn thấp do đó đầu tư sao cho hợp lý với trình độ đó và từng bước nâng cao dần khả năng khoa học - kỹ thuật - công nghệ để từ đó nâng lên đầu tư công nghệ - kỹ thuật theo hướng hiện đại. Nếu đầu tư không hợp lý thì sẽ rất lãng phí khi chất lượng lao động còn thấp, trình độ khoa học - công nghệ chưa đủ điều kiện tiếp cận và vận hành. Nâng cao chất lượng lao động là yếu tố phải được tính đến khi đầu tư vào CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Cơ sở hạ tầng là điều kiện cơ bản nhất, để làm "nền tảng" cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng là yêu cầu trước tiên của CNH - HĐH tuy nhiên ở nước ta việc này vô cùng to lớn vừa do điều kiện tự nhiên vừa do điều kiện kinh tế xã hội trước đây và hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề. Đó là một mâu thuẫn khi chúng ta đẩy nhanh CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong khi nguồn lực hạn chế và phải giải quyết nhiều vấn đề lớn trong đó có việc phải quan tâm đầy đủ cho cơ sở hạ tầng. 1.4 Đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn khi các ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp nông thôn đang ở trong tình trạng thấp kém. Các ngành công nghiệp hỗ trợ gồm công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp; công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu ở nông thôn hiện đang ở trong tình trạng đầu tư dàn trải, công nghệ thấp kém đang gặp phải khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, đầu tư không theo quy hoạch, chạy theo "mốt". Các ngành này vừa là các yếu tố "đầu vào" vừa là các yếu tố "đầu ra" và "trung gian" và có tác động to lớn đối với hiệu quả, quy mô đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp nông thôn hiện nay cần phải được đầu tư mạnh, đồng bộ từ con người, công nghệ - kỹ thuật, thiết bị, đầu tư cho đẩy mạnh đầu ra (thị trường, hệ thống phân phối… nếu không thì khó có thể phát triển theo hướng CNH - HĐH. 1.5. Đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện thu nhập và đời sống của đại bộ phận lớn nhân dân đã được cải thiện, nhưng nhìn chung còn bấp bênh, tình trạng thiếu việc làm, nghèo đói, du canh du cư, di dân tự do đang đặt ra gay gắt cần có giải pháp khắc phục. Đây có thể nói là thực trạng đang tồn tại gây cản trở cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn bởi vì có giải quyết được các vấn đề này chúng ta mới có điều kiện thực hiện và ca chính sách hoạt động tiếp theo của quá trình này. Nông dân có thu nhập thấp thì tích luỹ sẽ thấp -> đầu tư cho sản xuất thấp -> năng suất thấp -> sản lương thấp -> tích luỹ thấp, đây là cái vòng "luẩn quẩn", ta phải làm gì đây? phải hỗ trợ vốn, các yếu tố sản xuất khoa học kỹ thuật tức là chúng ta phải đầu tư trực tiếp coh các hộ nông dân theo hướng hỗ trọ do vậy nguồn vốn chủ yếu là phải từ ngân sách, đó là một khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Giải quyết việc làm, du canh du cư, di dân cũng đòi hỏi sự đầu tư lớn đồng bộ tuy không trực tiếp cho CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng phải giải quyết tốt để đẩy nhanh thực hiện theo đúng mục tiêu của CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 1.6. Đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn chịu sự chi phối của các điều kiện tự nhiên. Nền nông nghiệp chúng ta hiện nay phụ thuộc nhiều vào các yếu tố thời tiết, địa hình như lũ lụt, hạn hán, độ dốc, sông ngòi, đất đai,.. nhiệt độ,… bởi chúng ta chưa có điều kiện chế ngự, thích nghi. Điều quan trọng là phải có các biện pháp thâm canh, chuyên canh phù hợp, các phương pháp xây dựng hệ thống hạ tầng tiên tiến, cải tiến chế tạo máy móc thiết bị phù hợp, công nghệ sinh học với việc tạo ra các loại cây con, thích nghi với các điều kiện thời tiết trong từng vùng. Các tác động chủ yếu là vào hệ thống hạ tầng, như điện, đường, hệ thống thuỷ lợi. Các hệ thống này trong dễ bị hư hỏng nếu chất lượng không tốt nhưng với việc vốn đầu tư hạn chế thì điều này là khó tránh khỏi. Yếu tố rủi ro trong đầu tư cũng đi kèm với điều kiện phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên. Yếu tố địa hình cũng gây khó khăn cho việc đầu tư quy mô lớn hàng loạt như vùng trung du miền núi. 1.7. Đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong điều kiện sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn chưa phát triển, sản xuất hộ gia đình quy mô nhỏ khó áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất quy mô lớn. Trong những năm qua với việc thay đổi quan hệ sản xuất trong nông nghiệp nông thôn chuyển từ sản xuất tập thể sang sản xuất hộ gia ddình theo hình thức khoán đã làm thay đổi bộ mặt của nông nghiệp nông thôn. Từ thiếu ăn liên miên nay đa số các hộ đã đủ ăn và đã có nông sản bán trên thị trường. Tuy nhiên, có thể nói là rất nhỏ và bấp bênh, năm được mùa thì lại thiếu đó là điều thực tế đang xảy ra. Mặt khác, với 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, gần 29 triệu lao động, bình quân 0,27 ha/1 lao động và có tới hàng triệu thửa đất nhỏ và manh mún, quả thật chỉ phù hợp với sản xuất bằng lao động thủ công do đó khó kho đầu tư để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nếu không xử lý các vấn đề này. 1.8. Đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng rộng rãi. Hội nhập quốc tế là xu thế của thời đại, nó tạo điều kiện thuận lợi: Thứ nhất là điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, là điều kiện tiếp thu trình độ khoa học - kỹ thuật cho nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Thứ ba, tạo ra thị trường cho nông sản, sản phẩm - kết quả của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Thực tế những năm vừa qua chúng ta đã tham gia hội nhập thu hút được từ 2- 2,5 tỷ đô la FDI, 1,5 - 1,7 tỷ ODA tuy nhiên dành cho nông nghiệp đang còn ở mức khiêm tốn. Về khoa học - kỹ thuật, chúng ta đã cho nhập nhiều quỹ cây, con từ các nước Nhật, Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ... đặc biệt là các giống lúa Hàn Quốc, cây ăn quả Thái Lan. 2. Những thành tựu đạt được. Trong những năm qua đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự chú ý ngày càng cao của Nhà nước. Nếu năm 1996 đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn chiếm 10% tổng đầu tư từ ngân sách, thì năm 1997 là 11,3% và năm 1998 là 15,3%. Ngoài ra, Nhà nước còn đầu tư qua hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng người nghèo và các chính sách hỗ trợ tài chính khác. Năm 1998, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nông dân vay khoảng 22.000 tỷ đồng để phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thuỷ lợi là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư nhiều nhất. Năm 1009, đầu tư cho thuỷ lợi hơn 1.900 tỷ đồng, chiếm hơn 60% ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn... Vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số (tỷ VND) 68.047 79.367 96.870 97.336 103.771 Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (tỷ VND) 5.209 5.723 7.084 7.629 7.773 So với tổng số(%) 7,7 7,2 7,3 7,8 7,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê (không kể đầu tư cho thuỷ lợi) Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết để CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn: xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ như đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức và tay nghề cho lực lượng lao động...Vì vậy trong công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn chúng ta cần phát huy triệt để mọi nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài, phát huy nội lực là chính đồng thời tận dụng có hiệu quả sự trợ giúp từ bên ngoài. Trong việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng chú ý sau: Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước trong nông-lâm-ngư nghiệp Đơn vị: Tỷ đồng 1990 1995 1996 1999 Tổng số 409,2 2758,2 3044,0 4661,8 1. Nông nghiệp 409,2 2216,6 2384,4 4090,9 Trồng trọt 92,2 228,5 429,3 1399,4 Khai hoang xây dựng kinh tế mới 29,5 82,7 80,7 83,5 Nông trường quốc doanh 55,6 131,0 205,1 1069,1 Cao su 20,8 7,9 11,8 47,2 Chè 0,9 4,1 3,5 19,5 Cà phê 2,6 14,3 17,9 45,5 Trạm, trại phục vụ trồng trọt 7,3 14,8 143,6 246,8 Chăn nuôi 16,9 50,5 213,4 42,4 Trạm, đội máy kéo _ _ 3,9 _ Thuỷ lợi 299,8 1937,5 1737,7 2649,1 Trong đó: Thuỷ nông 244,4 _ _ _ 2. Lâm nghiệp _ 433,7 498,0 370,9 3. Thuỷ sản _ 107,9 161,6 200,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong điều kiện nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn hạn chế, phải tập trung cho các công trình trọng điểm nhưng Nhà nước vẫn tăng cường đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35348.doc
Tài liệu liên quan