Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội

Ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng đường trục chính trong khu - cụm công nghiệp; ngành điện đầu tư bán điện đến từng doanh nghiệp.

 Ngành nước cấp nước đến khu- cụm công nghiệp theo hợp đồng kinh doanh, kêu gọi các doanh nghiệp thực hiện dự án theo hình thức BOT đối với lĩnh vực cấp thoát nước, xử lý, thu gom rác thải công nghiệp.

 Khuyến khích các nhà đầu tư vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ tại các huyện xa nội đô như tại huyện Đông Anh, doanh nghiệp được miễn tiền thuê đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo, miễn tiền thuê đất 10 năm nếu đầu tư vào huyện Sóc Sơn.

 Doanh nghiệp được hỗ trợ 50%kinh phí đào tạo theo dự án được duyệt.

 Công ty xây dựng đầu tư hạ tầng trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ được miễn tiền thuê đất trong suốt quá trình thực hiện dự án, được vay vốn tín dụng ưu đãi.

 Đối với các doanh nghiệp di dời ra khỏi nội đô được hỗ trợ 100% tiền san lấp và GPMB, đường vào nhà máy.

 

doc84 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1160 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu hẹp, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nhiều doanh nghiệp chưa chủ động cho hội nhập kinh tế quốc tế. Chi phí trung gian ở các ngành còn cao nhất là sản xuất công nghiệp nên giá trị sản xuất tăng cao nhưng GDP không tăng tương ứng làm hạn chế hiệu quả sản xuất. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao còn chậm, chưa có biện pháp đồng bộ kiểm soát sản xuất và tiêu thụ an toàn. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tuy được cải thiện song còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, ùn tắc và tai nạn giao thông không giảm. ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật của một số cán bộ, nhân dân chưa tốt. Thất thu ngân sách còn nhiều, tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước chậm, kinh tế hợp tác còn khó khăn. Bộ máy hành chính các cấp còn cồng kềnh, kém hiệu quả, giấy tờ hội họp còn nhiều. Quản lý di dân tự phát còn khó khăn. Một số vấn đề xã hội búc xúc như mại dâm, ma tuý, văn hoá độc hại vẫn diễn biến phức tạp. II. Hiện trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn Hà nội. 1. Những thành tựu đạt được. Trong những năm qua, công nghiệp thủ đô đã có mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khá cao. Giai đoạn 1996-2000 tăng trưởng bình quân đạt 15.36%/ năm so với 13.9%/năm của cả nước. Bình quân 2 năm 2001-2002, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18.85%/năm, nếu tính riêng năm2002 so với năm 2001 thì tăng 24.3%. Vị thế của công nghiệp Hà nội so với cả nước ngày càng tăng. Nếu như năm 1995 công nghiệp Hà nội chiếm 8.19% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước thì năm 2000 chiếm 8.72%, năm2002 chiếm 9.39%. Tăng trưởng công nghiệp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà nội. Nếu như năm 1995 GDP công nghiệp chiếm 24.06% tổng GDP của thành phố thì 2000 tăng lên đến 27.19% và 2001 là 27.25%. Ngành công nghiệp đã góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của thành phố giai đoạn 1996-2000 là 30.35%/năm. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến của thành phố tăng từ 47.36% tổng kim ngạch xuất khẩu năm1995 lên 70.67% năm 2000 và 68.97% năm 2001. Ngành công nghiệp đã sản xuất được một số loại sản phẩm góp phần trang bị lại cho nền kinh tế cả nước và đáp ứng phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Trong điều kiện KTTTm, một số doanh nghiệp công nghiệp của Hà nội đã mạnh dạn đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, vì vậy nhiều sản phẩm làm ra đạt chất lượng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Cơ cấu công nghiệp đã có những chuyển biến đúng hướng gắn với thị trường: Phát triển tương đối đa dạng, mặt khác đã bước đầu tập trung hình thành một số nhóm ngành và sản phẩm mũi nhọn: Cơ kim khí, may, da, giày, chế biến lương thực, thực phẩm và công nghiệp điện tử. Nhóm ngành công nghiệp hoá chất đang và sẽ có chiều hướng giảm( trừ hoá dược) vì không phù hợp với tính chất công nghiệp của thủ đô. Cơ cấu các thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng củng cố và phát triển tương đối đồng đều ở các thành phần kinh tế . Công nghiệp thủ đô đã đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp so với tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế đã tăng lên. Tổ chức sản xuất, quản lý đã bước đầu đổi mới phù hợp hơn với nền sản xuất, hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp thủ đô đã đi đúng hướng, khai thác các thế mạnh của Hà nội là kỹ thuật điện, điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp may, da, giày. Từ 1996 đến nay, thành phố đã tập trung chỉ đạo, quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Đến nay, ngoài 9 khu công nghiệp tập trung đã có từ trước, đã quy hoạch và xây dựng được 5 khu công nghiệp tập trung mới có hạ tầng đồng bộ, hiện đại và 13 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ, bước đầu đáp ứng được nhu cầu mặt bằng cho phát triển công nghiệp trên địa bàn thủ đô. 2. Những khó khăn, hạn chế. Vị trí và vai trò của ngành công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực của Hà nội. Tỷ trọng GDP công nghiệp của Hà nội so với GDP công nghiệp của cả nước mới đạt 6.8% ( năm2000) trong khi đó tỷ trọng này của thành phố HCM là 35.8%. Nhịp độ tăng trưởng GDP công nghiệp của Hà nội còn thấp so với mức tăng trung bình của các trung tâm công nghiệp lớn khác. Một số sản phẩm công nghiệp của Hà nội đã bị mất dần vị trí đối với cả nước như: Động cơ điezen, quần áo dệt kim, thuốc lá điếu... sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp nhìn chung còn yếu. Trên địa bàn thủ đô, nhiều mặt hàng từ thành phố HCM, Trung Quốc ...đang lấn át hàng công nghiệp của thủ đô. Phần lớn các sản phẩm hàng hoá công nghiệp của Hà nội không vươn ra khỏi các tỉnh Bắc Bộ. Việc di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra ngoại thành còn chậm. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tập trung còn thấp, công tác xúc tiến đầu tư công nghiệp trên địa bàn còn yếu nên số lượng các dự án đầu tư vào Hà nội trong thời gian qua còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố. III. Thực trạng thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. 1. Thực trạng thu hút đầu tư. 1.1. Đối với các khu công nghiệp cũ. Việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp cũ ở Hà nội những năm 60,70 có thể nói là sự ra đời tự nhiên của tổ hợp một số nhà máy, xí nghiệp, là sự đòi hỏi cần thiết trong phát triển kinh tế công nghiệp của thành phố. Trong 9 khu công nghiệp cũ của Hà nội, tổng cộng có 155 doanh nghiệp đang hoạt động, số doanh nghiệp của từng khu được thể hiện chi tiết ở bảng sau: Biểu 3: Thực trạng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp cũ. STT Tên khu công nghiệp Số doanh nghiệp 1 Minh Khai-Vĩnh Tuy- Mai Động 38 2 Giáp Bát- Trương Định 13 3 Văn Điển -Pháp Vân 14 4 Thượng Đình 29 5 Cầu Diễn- Mai Dịch 8 6 Gia Lâm- Yên Viên- Đức Giang 21 7 Đông Anh 22 8 Chèm 5 9 Cầu Bươu 5 10 Tổng cộng 155 Nguồn: Ban quản lý KCN,KCX Hà nội. 1.2. Đối với các khu công nghiệp tập trung mới. 1.2.1. Tình hình thu hút số vốn và số dự án. Cho đến cuối năm 2002 đã có 4 trên 5 khu công nghiệp tập trung tiếp nhận các dự án đầu tư vào sản xuất công nghiệp, đó là khu công nghiệp Sài Đồng B, Nội Bài, Thăng Long, Hà nội - Đài Tư. Tính đến 10/2002 đã có 56 dự án được cấp giấy phép đầu tư vào trong khu công nghiệp với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 587,5 triệu USD, trong đó Sài Đồng B có 23 dự án với tổng số vốn đăng ký là 330.008.000 USD, và 105.937 tỷ VNĐ, Nội Bài có 8 dự án với tổng số vốn đăng ký là 52.454.000 USD, Hà nội - Đài Tư có 4 dự án với tổng số vốn đăng ký là 6.210.000 USD, Thăng Long có 21 dự án với tổng số vốn đăng ký là 198.812.667 USD. Ta có bảng cụ thể sau: Biểu 4: Bảng thu hút đầu tư của các khu công nghiệp (tính đến cuối tháng 10/2002) STT Tên khu công nghiệp Số DA Vốn đăng ký(USD) Diện tích thuê đất (m2) 1 Sài Đồng B 23 330.008.000 390.206 2 Nội Bài 8 52.454.000 110.183 3 Thăng Long 21 198.812.667 527.333 4 Hà nội - Đài Tư 4 6.210.000 50.584 Tổng cộng 56 587.484.667 1.078.306 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà nội. Qua các số liệu trên ta thấy số lượng các dự án phân bố không đồng đều giữa các khu công nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu công nghiệp Sài Đồng B và Thăng Long . Nguyên nhân chính là do thời gian cấp giấy phép và triển khai của các khu công nghiệp là khác nhau. Trong 4 khu công nghiệp thì khu công nghiệp Sài Đồng B được coi là thành công nhất với 23 dự án( chiếm 41,07% tổng số dự án và 56,17% tổng số vốn đăng ký). 1.2.2. Tình hình thu hút đầu tư của từng khu công nghiệp qua các năm. Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình thu hút vốn đầu tư của các khu công nghiệp qua các năm là khác nhau, sự khởi đầu rực rỡ của khu công nghiệp Sài Đồng B bị chững lại cho đến năm 1999 mới thu hút được thêm vốn và dự án và tiếp tục thu hút được vốn trong những năm tiếp theo. Khu công nghiệp Thăng Long thu hút dự án bắt đầu từ năm 1999 nhưng càng về sau thu hút được càng nhiều dự án, đặc biệt năm 2002 thu hút được những 13 dự án. Khu công nghiệp Thăng Long được đánh giá là có tốc độ thu hút đầu tư nhanh nhất. Sở dĩ như vậy là vì môi trường đầu tư ở Thăng Long được đánh giá là rất thuận lợi. Cụ thể: Giá đất ở khu công nghiệp Thăng Long được coi là rẻ nhất Hà nội và các tỉnh phía Bắc. Thanh toán đơn giản, linh động. Thủ tục một cửa nhanh chóng. Hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, tiện nghi không thua kém khu công nghiệp nước ngoài. Là khu công nghiệp đầu tiên của Hà nội và cả nước được nhận chứng chỉ ISO 14001 về quản lý môi trường tốt. Đối tác Sumotomo rất có kinh nghiệm trong quản lý và xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp. Đối với khu công nghiệp Sài Đồng B, tính đến thời điểm năm 1996 số dự án thu hút được là 8 dự án, trong khi đó 3 khu công nghiệp còn lại không có dự án nào. Điều này có thể lý giải là do khu công nghiệp Sài Đồng B được xây dựng sớm nhất tại Hà nội, chủ trương của Sài Đồng B là thực hiện giải phóng mặt bằng và xây dựng theo cách cuốn chiếu tức là hoàn thiện cơ sở hạ tầng đến đâu là cho các nhà đầu tư thuê đến đó. Tuy nhiên năm 1997, 1998 không có thêm dự án nào vào Sài Đồng B, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực không chỉ tác động đến luồng FDI vào Việt Nam nói chung mà dòng chảy của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp cũng giảm trông thấy. Từ năm 1999-2002 đầu tư vào khu công nghiệp Sài Đồng B có dấu hiệu phục hồi trở lại với 2 dự án năm 1999, 7 dự án năm 2000, 3 dự án năm 2001 và 3 dự án năm 2002. Khu công nghiệp Nội Bài sau 3 dự án thu hút được trong năm 1997 cũng không thu hút được dự án nào trong 3 năm tiếp theo, Nội Bài cũng thể nằm ngoài ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực và ngoài ra khu công nghiệp Nội Bài được xây dựng ở địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Sau 3 năm vắng lặng, đến năm 2001 khu công nghiệp này đã có những dấu hiệu phục hồi đáng khích lệ với việc thu hút thêm 2 dự án mới. Qua bảng ta có thể thấy được việc thu hút đầu tư của khu công nghiệp đầu tư của Hà nội - Đài Tư là chậm nhất, chỉ với 4 dự án trong năm 2000 và 2 năm tiếp theo không có thêm dự án nào. 1.2.3. Tình hình thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp. Biểu 6: Phân loại các dự án trong các khu công nghiệp Hà nội. Loại hình DN Sài Đồng B Thăng Long Nội Bài Hà nội - Đài Tư Số DN Tỷ lệ (%) Số DN Tỷ lệ (%) Số DN Tỷ lệ (%) Số DN Tỷ lệ (%) DN100% vốn NN 10 43.48 20 95.24 8 100 4 100 DN liên doanh 8 34.78 1 4.76 DN trong nước 5 21.74 0 0 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà nội. Từ những con số thống kê trên chúng ta có thể thấy trong các dự án đầu tư vào khu công nghiệp Hà nội, số dự án 100% vốn trong nước vẫn còn quá khiêm tốn, chỉ có 5 dự án. Hầu hết các dự án được cấp giấy phép đều là các dự án 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. Dường như tiến hành sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp đối với các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn là một điều rất xa vời. 1.2.4. Tình hình thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp phân theo đối tác. Biểu 7: Tình hình thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp theo đối tác ( Không kể các dự án liên doanh). Nước Số dự án Vốn đăng ký(triệu USD) 1. Nhật 22 219,977 2. Mỹ 2 31,980 3. arapxeut 1 20,000 4. Trung Quốc 2 13,290 5. Singapo 3 11,508 6. Hàn Quốc 3 7,4 7. Đài Loan 4 6,21 8. Thái Lan 1 5,000 9. Malaixia 1 1,300 10. Bỉ 1 0,660 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà nội. Như vậy chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng các nhà đầu tư vào khu công nghiệp Hà nội chủ yếu là đến từ Châu á. Trong khi đó các nhà đầu tư ở các nước phát triển và có nền công nghiệp hiện đại hầu như vẫn chưa có mặt tại các khu công nghiệp Hà nội. Duy chỉ có 2 dự án của Mỹ vào khu công nghiệp Nội Bài với vốn đăng ký đầu tư là 31,980 triệu USD, 1 dự án liên doanh Việt Pháp vào Sài Đồng B với vốn đầu tư là 2,5 triệu USD. 1.2.5. Tình hình triển khai các dự án tại các khu công nghiệp Hà nội. Biểu 8: Tình hình triển khai các dự án tại các khu công nghiệp Hà nội. Đơn vị(dự án) Nội dung Sài Đồng B Thăng Long Nội Bài Hà nội - ĐàiTư Tổng Đã triển khai 12 6 4 0 22 Đang triển khai 4 10 1 0 15 Chưa triển khai 2 5 2 4 13 Không có khả năng triển khai 5 0 1 0 6 Cộng 23 21 8 4 56 Nguồn: Ban quản lý KCN, KCX Hà nội. Những số liệu của bảng chỉ ra mặc dù khu công nghiệp Sài Đồng B thu hút được nhiều dự án nhất nhưng số dự án không có khả năng triển khai cũng lớn nhất(5 dự án). Về số dự án chưa triển khai, phải kể đến khu công nghiệp Hà nội - Đài Tư, có những 4 dự án. Lúc đầu, có 17 doanh nghiệp xin đầu tư vào Hà nội - Đài Tư nhưng chủ đầu tư khu công nghiệp chỉ lựa chọn có 4 doanh nghiệp, nhưng trong 4 nhà đầu tư đã được cấp phép đó không có nhà đầu tư nào xây dựng nhà xưởng. Vì thế mà các dự án không thể triển khai được. Bản thân chủ đầu tư khu công nghiệp cũng không dám khẳng định đến bao giờ các doanh nghiệp mới chính thức triển khai dự án. Như vậy, việc các doanh nghiệp đầu tư vào Hà nội - Đài Tư mới chỉ là danh nghĩa, các dự án chưa được thực hiện nghĩa là chúng chưa có tác dụng gì đối với phát triển kinh tế. 1.3. Đối với các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Tính hết năm 2002 mới chỉ có 2 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ là Vĩnh Tuy- Thanh Trì, Phú Thị- Gia Lâm được xây dựng xong. Hiện có 3 khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đều được lấp đầy khi công bố dự án. Số liệu cụ thể được thể hiện qua bảng sau: Biểu 9: Thu hút đầu tư vào các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Tên khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ Số doanh nghiệp Vĩnh Tuy- Thanh Trì 18 Phú Thị- Gia Lâm 19 Cụm CN Từ Liêm 32 Nguồn: Ban quản lý KCN,KCX Hà nội. Hầu hết các doanh nghiệp trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ đều là các công ty trách nhiệm hữu hạn vốn trong nước( trung bình khoảng từ 7-10 tỷ đồng). 2. Những kết quả đạt được trong quá trình thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Hà nội. 2.1. Giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất, thu hút thêm được nhiều dự án và vốn đầu tư để phát triển sản xuất công nghiệp. Như đã nêu ở trên, nhờ có sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung và các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ, tính đến cuối năm 2002, các khu công nghiệp thủ đô đã thu hút được 61 doanh nghiệp đăng ký đầu tư ( kể cả các dự án đầu tư và kinh doanh cơ sở hạ tầng) vào các khu công nghiệp tập trung. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung năm 2002 đã đạt 263 triệu USD, nộp ngân sách đạt 13 triệu USD, xuất khẩu đạt 154 triệu USD. Các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tập trung đã thu hút 7862 lao động, trong đó có 7650 lao động Việt Nam và 203 lao động nước ngoài. Các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ tuy mới phát triển nhưng có 2 khu đã thu hút được 37 doanh nghiệp, trong đó khu công nghiệp Vĩnh Tuy - Thanh Trì với diện tích 12 ha đã thu hút được 18 doanh nghiệp và khu công nghiệp Từ Liêm với diện tích 21 ha đã thu hút được 32 doanh nghiệp trong đó 29 doanh nghiệp đã và đang hoạt động. 2.2. Các khu công nghiệp tập trung đã tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Hà nội. Trong tổng số 61 dự án đăng ký thuê đất trong các khu công nghiệp thì chỉ có 6 dự án 100% vốn đầu tư trong nước( chiếm 9,84%), còn lại là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. 2.3. Tạo điều kiện cho việc chuyển dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm ra ngoại thành. Cùng với sự phát triển các khu công nghiệp tập trung và việc mở thêm các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây, với sự hỗ trợ rất tích cực từ phía thành phố nên một số doanh nghiệp trong nội đô tìm kiếm được mặt bằng sản xuất, có điều kiện mở rộng sản xuất, thực hiện một bước quá trình di chuyển ra ngoại thành, vào các khu công nghiệp theo chủ trương của UBND Thành phố. 2.4. Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp không chỉ giải quyết được nhu cầu rất bức bách về mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực sự yên tâm đầu tư phát triển sản xuất bởi chỗ thời gian cho thuê đất trong các khu công nghiệp khá dài hạn ( tới 50 năm), các khu công nghiệp đều được xem xét về mặt quy hoạch nên không còn phấp phỏng lo âu bị nhà nước thu hồi đất, GPMB như trước đây. 2.5. Phát huy được nội lực, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển. Sự phát triển các khu- cụm công nghiệp tập trung đã tạo điều kiện cho một loạt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động. Trước đây, trong khi chưa mở ra các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ với sự trợ giúp của thành phố, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ do khó khăn về năng lực tài chính nên không thể thuê đất trong các khu công nghiệp tập trung. Gần đây, khi các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ ra đời đã thu hút, tạo điều kiện cho một bộ phận khá lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần quan trọng vào sự phát triển công nghiệp của thành phố. 2.6. Sự phát triển các khu công nghiệp còn góp phần tích cực và việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của thành phố và từng quận, huyện, thúc đẩy quá trình chuyển giao nâng cao và đổi mới công nghệ. Qua việc cấp giấy phép đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung và xét cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê đất trong các khu- cụm công nghiệp vừa và nhỏ thành phố đã điều tiết được một phần sự phát triển của các ngành công nghiệp theo định hướng phát triển các ngành nghề ưu tiên. Nhiều doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao đã được thu hút vào các khu công nghiệp tập trung. 3. Những mặt tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. 3.1. Những mặt tồn tại, hạn chế. 3.1.2. Tỷ lệ diện tích đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp và tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tập trung của Hà nội đều khá thấp. Bảng so sánh tỷ lệ diện tích đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tập trung của Hà nội với một số tỉnh, thành phố. Biểu 10: Tỷ lệ diện tích đã xây dựng CSHT và tỷ lệ lấp đầy. TT Tỉnh, thành phố DT theo QH(ha) Đã XD Đã thuê Đã XD % của TS Đã thuê % của TS 1 Hà nội 850 260 30,5 108 12,7 2 TP Hồ Chí Minh 2525 1590 62,9 720 28,5 3 Bình Dương 1667 1167 70,0 539,9 32,0 4 Đồng Nai 2953 2168,7 73,4 1142,6 38,7 5 Bà Rịa- Vũng Tàu 2600 1731 66,5 543 20,8 Nguồn: Văn phòng HĐNH & UBND thành phố Qua biểu trên cho thấy hầu hết các chỉ tiêu về tỷ lệ diện tích khu công nghiệp đã hoàn tất cơ sở hạ tầng và tỷ lệ lấp đầy so với tổng diện tích đất thuê đều thấp hơn tất cả các tỉnh, thành phố được đem so sánh. 3.1.2. Quy mô vốn đầu tư và số lao động đã thu hút vào các khu công nghiệp tập trung của Hà nội còn thấp. Biểu 11: So sánh quy mô vốn đầu tư và số lao động giữa một số KCN. TT Tỉnh, thành phố Vốn ĐTNN Vốn ĐTTN Số LĐ Số DA Vốn (triệu USD) Số DA Vốn (tỷ đ) Người 1 Hà nội 55 602,7 6 117,6 7862 So với Hà nội(lần) 1 1 1 1 1 2 TP Hồ Chí Minh 346 1036,7 358 7905 111092 So với Hà nội(lần) 6,3 2,16 59,66 67,2 14,1 3 Bình Dương 298 1221 87 1915 34538 So với Hànội (lần) 5,4 2,02 14,5 16,3 4,4 4 Đồng Nai 291 4168 99 2076 104212 So với Hà nội(lần) 5,3 6,9 16,5 17,65 13,25 5 Bà Rịa- Vũng Tàu 21 1178 26 21030 630 So với Hà nội(lần) 0,38 1,95 4,33 178,8 0,08 Nguồn: Văn phòng HĐNH & UBND thành phố Như vậy tất cả các chỉ tiêu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước cũng như số lao động vào các khu công nghiệp tập trung của Hà nội đều thấp với các tỉnh đêm ra so sánh( trừ chỉ tiêu số lao động ở các khu công nghiệp Hà nội cao hơn Bà Rịa- Vũng Tàu. 3.1.3. Việc thu hút các doanh nghiệp vào các khu công nghiệp tập trung ở Hà nội không cao. Biểu 12: So sánh số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp giữa một số KCN. Đơn vị ( triệu USD) TT Tỉnh, thành phố Số dự án Số vốn đầu tư TS DA Số DA trong khu công nghiệp TS vốn Số vốn trong kcn TS % TS % 1 Hà nội 261 41 15,7 721 236 32,7 2 TP Hồ Chí Minh 864 315 36,4 2237 1201 53,7 3 Hải Phòng 56 15 26,8 136 61 44,8 4 Đà Nẵng 34 12 35,3 109 75 68,8 5 Bình Dương 444 236 53,1 1286 900 70,0 6 Bà Rịa- Vũng Tàu 34 8 23,5 110 60 54,5 Nguồn: Văn phòng HĐNH & UBND thành phố Qua tính toán, số doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của thành phố HCM gấp 3,3 lần về số dự án và 3,1 lần về tổng số vốn đầu tư so với ở Hà nội nhưng nếu tính riêng số dự án đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp thì ở thành phố HCM gấp 7,7 lần Hà nội về dự án và 5,1 lần về số vốn đầu tư. Tương tự như vậy, ở Bình Dương tổng số doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp 1,7 lần ở Hà nội và tổng số vốn đầu tư nước ngoài gấp 1,78 lần Hà nội nhưng riêng các dự án đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp Bình Dương thì gấp 5,76 lần so với Hà nội và số vốn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp Bình Dương gấp 3,8 lần so với Hà nội. 3.1.4. Số lượng các doanh nghiệp trong nước còn ít. Số lượng các doanh nghiệp trong nước thuê đất trong các khu công nghiệp tập trung ít đã làm cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động tương đối tách rời, việc phối hợp, hiệp tác, trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý và trình độ khoa học công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài do đó bị hạn chế nhất định. 3.1.5. ô nhiễm môi trường và quá tải hệ thống cơ sở hạ tầng. Việc hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ trong một số quận nội thành như Cầu Giấy, Hai Bà Trưng, các khu vực ven đô như khu công nghiệp Vĩnh Tuyi - Thanh Trì, Minh Khai, Từ Liêm.. cùng với việc thu hút các công nghiệp vừa và nhỏ có trình độ kỹ thuật và công nghệ thấp, thậm chí cả các doanh nghiệp kinh doanh các ngành sử dụng nhiều lao động thủ công, dễ gây ô nhiễm môi trường đang có nguy cơ hút mạnh lao động ngoại tỉnh, gây ô nhiễm môi trường, làm quá tải hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội vốn đã quá tải ở nội thành. 3.2. Nguyên nhân. 3.2.1. Những điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư vào cac khu công nghiệp Hà nội. Hà nội là một trong những trung tâm công nghiệp, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật lớn nhất nhất cả nước và là thị trường lớn thứ 2 trong cả nước. Với hệ thống hạ tầng tương đối hiện đại và thuận lợi, đội ngũ lao động có tay nghề, chuyên môn vào bậc nhất cả nước, Hà nội hoàn toàn có ưu thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Vị thế và tiềm năng sẵn có của Hà nội như hiện nay các khu công nghiệp Hà nội cũng có những mặt mạnh so với các địa phương khác trong cả nước trong việc thu hút đầu tư. Các khu công nghiệp Hà nội hầu hết đều có cơ sở hạ tầng đầy đủ và thuận tiện và hình thức quản lý chặt chẽ. Khu công nghiệp Thăng Long được đánh giá khu công nghiệp có hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhất không thua kém gì các khu công nghiệp nước ngoài bao gồm: Hệ thống cấp điện: Mạng lưới cung cấp điện 22 KV được đặt ngầm dưới lòng đất. Hệ thống cấp nước: Sau khi được xử lý tại nhà máy lọc nước, nước tiêu dùng công nghiệp được cung cấp bởi hệ thống ống nước bằng sắt mềm đặt ngầm dưới lòng đất. Hệ thống thông tin liên lạc: Cũng được đặt ngầm dưới lòng đất. Hệ thống xử lý nước thải: Nước thải của các đơn vị thuê đất sẽ được thu hồi bằng hệ thống ống ngầm và được xử lý trước khi cho chảy vào kênh chạy qua khu công nghiệp. Khu công nghiệp Sài Đồng B cũng được đánh giá là cơ sở hạ tầng đầy đủ với: Hệ thống cấp điện: 22KV, công suất 50 MVA. Hệ thống cấp nước: Hệ thống cấp nước của Hanel có thể cung cấp 10.000m3 nước. Hệ thống thông tin liên lạc: Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam sẽ quản lý và điều hành các dịch vụ thông tin liên lạc ở khu công nghiệp. Các chủ thuê đất sẽ ký hợp đồng với Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Hệ thống xử lý nước thải: Mỗi hãng thuê đất sẽ phải xin phép Bộ Khoa học - Công nghệ- Môi trường phê duyệt hệ thống xử lý chất thải. Khu công nghiệp Nội Bài Hệ thống cấp điện: Trạm biến thế 110KV/220KVm, công suất 40MVA Hệ thống cấp nước: 7500m3/ngày- đêm, Hệ thống thông tin liên lạc: 2000 đường dây và đường điện thoại cáp quang. Hệ thống xử lý nước thải: Hệ thống xử lý chất thải hiện đại sử dụng phương pháp sử lý sinh học. Thành phố cũng áp dụng các chính sách ưu đãi về tài chính và thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp tập trung, kể cả doanh nghiệp đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng, cụ thể như sau: Tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư kinh doanh trong khu công nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi về thuế theo quy định hiện hành đối với từng sắc thuế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh trong khu công nghiệp, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp là doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thực hiện nộp thuế như sau: Đối với doanh nghiệp chế xuất: 10% lợi nhuận thu được và được miễn thuế lợi tức 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lợi nhuận đối với doanh nghiệp sản xuất; 15% lợi nhuận thu được và được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi kinh doanh bắt đầu có lợi nhuận đối với doanh nghiệp dịch vụ. Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp. 15% lợi nhuận thu được đối với doanh nghiệp có hoạt động xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0018.doc
Tài liệu liên quan