Đề tài Một số giải pháp và điều kiện chủ yếu nhằm lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ ở nước ta

 

 

 Phần mở đầu 1

I. Phần thứ nhất: tiêu chuẩn lựa chọn công nghệ phù hợp 2

1. Khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ 2

2. Sự cần thiết khách quan của việc lựa chọn công nghệ trong chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 3

3. Các tiêu thức lựa chọn công nghệ thích hợp 4

II. Phần thứ hai: Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 5

1. Thực trạng công nghệ nước ta 5

2. Thực trạng về chuyển giao công nghệ ở nước ta 9

3. Những tồn tại và mâu thuẫn chủ yếu trong chuyển giao công nghệ ở nước ta trong thời gian qua 13

4. Định hướng tính phù hợp của công nghệ được lựa chọn 17

III> Phần thứ ba: Giải pháp lựa chọn công nghệ phù hợp 19

1. Phương pháp lựa chọn công nghệ có hiệu quả 19

2. Những quan điểm chỉ đạo lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ 19

3. Một số giải pháp và điều kiện chủ yếu nhằm lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ ở nước ta. 23

 PHẦN KẾT LUẬN 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp và điều kiện chủ yếu nhằm lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản phẩm chưa hoặc ít có sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO 9000. Chưa có khả năng cạnh tranh quốc tế. * Các doanh nghiệp công nghiệp ô tô: Đầu tư cơ bản nhỏ so với mức cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Công nghệ hầu như là lắp ráp (100% ô tô được lắp ráp dưới dạng CKD). Chi phí lắp ráp cao (gấp 5 lần so với chính quốc). Tỷ lệ khai thác năng lực máy móc thiết bị thấp. * Các doanh nghiệp cơ khí: Máy móc cũ kỹ và hỗn tạp, hệ thống sản xuất lỗi thời. Trình độ công nghệ ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất cơ khí không phù hợp để sản xuất các sản pamr có chất lượng và hiệu quả cao... Từ những số liệu trên cho ta thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do: - Công nghệ không đồng bộ, mất cân đối làm cho nhiều loại máy móc thiết bị ít hoặc không được sử dụng. - Máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, hay hư hỏng, thời gian ngừng việc để sửa chữa lớn. - Sức ép của đối thủ cạnh tranh nước ngoài, làm doanh nghiệp phải giảm hoặc ngừng sản xuất dẫn đến tình trạng không dùng hết công suất của máy móc thiết bị. Đánh giá một cách khách quan tình hình lạc hậu, yếu kém của công nghệ và thiết bị, sự cạnh tranh gay gắt đã tạo ra sức ép. 2. Thực trạng về chuyển giao công nghệ ở nước ta: a. Công nghệ được chuyển giao chưa phải thuộc loại tiên tiến, hiện đại như đã nên ở trên theo đánh giá chung, số máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp Nhà nước đạt trình độ hiện đại trung bình của TG nhìn chung còn ít. Số công nghệ nhập đạt trình độ hiện đại, tiến tiến lại càng hiếm. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, cos trừ giá chuyển giao, cả từ giá nhận chuyển giao công nghệ. - Về giá chuyển giao công nghệ, các đối tác nước ngoài vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao và nhanh nên ít chịu đầu tư chuyển giao loại công nghệ hiện đại tiên tiến thường là đắt tiền, thời gian hoàn vốn dài hơn,. Thậm chí có nhiều trường hợp lợi dụng sự kém hiểu biết của bên nhận chuyển giao để trục lợi. Theo ý kiến đánh giá của chuyên gia, có tới 25% trong số hàng vạn thiết bị đã nhập về là đã qua sử dụng, được tân trang lại và nâng cấp bằng các cơ cấu điều khiển bán tự động hoặc tự động và trong số các dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động vẫn còn khá nhiều dây chuyền sản xuất sử dụng nhiều lao động thủ công hoặc có trình độ cơ khí hoá thấp. - Về phía nhận chuyển giao công nghệ thường là các doanh nghiệp nhà nước, cũng có 2 loại nguyên nhân: chủ quan và khách quan. * Những nguyên nhân chủ quan là: + Tâm lý ỷ lạim, trông chờ nhiều vào nhà nước. + Trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn hẹp. + Động cơ trục lợi cá nhân. + Thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn. + Thụ động trong công việc tìm kiếm công nghệ và trong đàm phán, ký kết. + Thiếu định hướng chiến lược lâu dài về sản xuất kinh doanh. * Những nguyên nhân khách quan đối với doanh nghiệp là: + Môi trường kinh tế xã hội (luật, chính sách tài chính, tiền tệ, lao động, đất đai, sở hữu công nghiệp...) còn chưa thật phù hợp và hấp dẫn. + Bộ máy quản lý nhà nước hoạt động còn nhiều yếu kém, bất cập đối với hoạt động chuyển giao công nghệ. + Thiếu hệ thống mạng lưới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cần thiết và hữu hiệu khác cho hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng. + Năng lực nghiên cứu và triển khai về khoa học công nghệ của đất nước còn nhiều yếu kém và bất cập, chưa đủ “nội lực” cần thiết để làm cơ sở cho việc tiếp thụ và phát triển các công nghệ nhập trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. * Theo thống kê những vấn đề chủ yếu đang cản trở hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp không phải nhà nước là: - Thiếu nguồn lực cần thiết (vốn, nhân lực...) - Thiếu thông tin về công nghệ - Nhiều vướng mắc và cản trở trong môi trường sản xuất, kinh doanh còn chưa được tháo gỡ. - Thiếu các dịch vụ hỗ trợ cần thiết (tài chính, tín dụng, ngân hàng, thị trường...) - Thiếu phối hợp giữa các nguồn lực cũng như các tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh. b. Chưa có thiết kế tổng thể về vấn đề lựa chọn công nghệ. + Sự thiếu hụt này bao gồm từ định hướng chiến lược với những ưu tiên công nghệ cho tới việc xây dựng khung chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. + Về phía nhà nước, còn thiếu một chiến lược phát triển khoa học công nghệ dài hạn ở tầm quốc gia những quan điểm, định hướng, phối hợp hành động ở cấp bộ, ngành và các doanh nghiệp. Do vậy mà sự trùng lắp, thừa thiếu đồng bộ, sự thiệt hại lớn về kinh tế trong các hợp đồng mua bán công nghệ, là hệ quả tất yếu của sự thiếu hụt này. + Chưa có sự hỗ trợ cần thiết về chính sách, cơ chế cũng như các hỗ trợ khác (những ưu đãi hoặc bảo hộ, hệ thống thông tin về công nghệ) sự lúng túng trong quản lý công nghệ ở các bộ, ngành có nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ thiếu hụt này. + Tình trạng thiếu đồng bộ, chắp vá, chồng chéo thậm chí còn mâu thuẫn nhau là những biểu hiện của thiếu hụt này. - Còn chưa xây dựng được một năng lực nội sinh của quốc gia về khoa học công nghệ, trước hết là về nghiên cứu, triển khai, đủ sức hỗ trợ cho việc tiếp thu công nghệ trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng. - Về phía các doanh nghiệp nhà nước: + Còn thiếu một chiến lược sản phẩm làm cơ sở định hướng. Nhìn chung, những khó khăn chung, hiện tại vẫn làm cho các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu loay hoay và xoay sở để tồn tại chứ chưa phải là để phát triển. + Còn thiếu đội ngũ cán bộ KHCN và công nhân kỹ thuật lành nghề đủ sức và đủ trình độ nắm bắt, lựa chọn, tiếp thụ và vận hành công nghệ mới, tiên tiến. c. Những công nghệ được chuyển giao đổi mới trong thời gian qua chưa tạo được lực đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công nghệ thể hiện như sau: - Những chuyển giao về công nghệ cho đến nay được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến (sản xuất hàng tiêu dùng). Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến máy, đặc biệt là máy công cụ, việc chuyển giao công nghệ được thực hiện chưa được bao nhiêu. Nhà máy công cụ số 1 - một doanh nghiệp nhà nước đứng hàng đầu của cả nước với 527 thiết bị gia công cơ khí chủ yếu nhưng lại không có thiết bị nào mới được chế tạo cách đây 10 năm. - Những chuyển giao công nghệ trong thời gian qua còn dừng lại ở khâu tiếp nhận, vận hành, chứ chưa tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu, và triển khai công nghệ để nghiên cứu thích nghi, cải tiến công nghệ. - Những công nghệ được chuyển giao cho đến nay phần lớn do phía nước ngoài giới thiệu. Nhiều hợp đồng về chuyển giao công nghệ được ký kết với sự soạn thảo sẵn của bên nước ngoài, kèm theo những điều khoản có lợi cho bên chuyển giao công nghệ. Có thể nói rằng ở lĩnh vực này, doanh nghiệp nhà nước đa phần bị động và thụ động. d. Năng lực nội sinh của các doanh nghiệp nhà nước còn yếu, chưa đủ khả năng tự ra quyết định trong vấn đề công nghệ được thể hiện: - Năng lực nắm bắt và cập nhật cũng như xử lý thông tin có liên quan đến công nghệ còn rất hạn hẹp, do đó sự thiếu hụt này có ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài không chỉ tới hướng phát triển của doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp còn cả tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Năng lực lựa chọn và quyết định về công nghệ còn rất hạn chế. Sự thiếu hụt này một phần bắt nguồn từ những thiếu hụt về thông tin, về đội ngũ cán bộ... một phần khác cũng rất quan trọng, đó là ý thức, phẩm chất những cán bộ có trách nhiệm và liên quan tới việc lựa chọn và quyết định công nghệ. - Năng lực đàm phán trong hoạt động công nghệ còn yếu, điều này thể hiện ở sự bị động, thụ động trong đàm phán ký kết các hợp đồng về chuyển giao công nghệ. Một báo cáo gần đân của Bộ khoa học công nghệ và môi trường cho thấy: Trong số hơn 2000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới chỉ có 94 hợp đồng chuyển giao công nghệ (chiếm 0,047%) được trình lên Bộ khoa học công nghệ và môi trường. e. Sự thiếu đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kinh tế cho hoạt động chuyển giao công nghệ thể hiện: - Hệ thống giao thông vận tải yếu kém không chỉ làm nản lòng các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ mà làm cho hoạt động đổi mới công nghệ bị hạn chế phát huy tác dụng vừa được phân bổ không đều giưã các vùng, khu vực và lãnh thổ của đất nước,. - Hệ thống dịch vụ hỗ trợ (tài chính ngân hàng, xúc tiến đầu tư) còn yếu kém. 3. Những tồn tại và mâu thuẫn chủ yếu trong chuyển giao công nghệ ở nước ta trong thời gian qua. a. Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ tẻ. Thiếu quy hoạch và chiến lược, thiếu sự gắn bó giữa phương hướng đổi mới, chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như chiến lược kinh doanh. Điều này thể hiện qua các mặt sau: - Các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ do sức ép của thị trường chứ không phải do chủ động theo kế hoạch. - Các công nghệ được chuyển giao phần lớn do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải tự các doanh nghiệp tìm kiếm hoặc tự nghiên cứu thiết kế. - Công nghệ được chuyển giao trong lúc còn nhiều điều kiện, tiền đề cần thiết (về cơ sở hạ tầng, thị trường, lao động, tièn vốn...) - Tình trạng nhập máy móc, thiết bị lẻ nhiều và phổ biến hơn là các dây chuyền đồng bộ và khép kín. - Các phương hướng, chủ trương và chiến lược của các cơ quan quản lý ngành chưa gắn bó với phương hướng, dự án đổi mới công nghệ và kỹ thuật của các doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp đang gặp nhiều lúng túng trong việc xác định hướng doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thực hiện chọn công nghệ mới cũng chính làthực hiện sự chuyển hướng kinh doanh. ịTình trạng này không chỉ hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà còn hạn chế trình độ kỹ thuật của sản xuất (trong mỗi dây chuyền luôn có những thiết bị lạc hậu so với những loại khác) và làm giảm tính đồng bộ cần thiết của công nghệ. b. Trình độ công nghệ và trình độ thiết bị, máy móc sau khi chuyển giao vẫn thấp; chưa phải là hiện đại. Một cuộc khảo sát với hơn 700 thiết bị, 3 dây chuyền tại 42 nhà máy cho thấy kết quả sau: - 76% số máy mới nhập thuộc thế hệ máy 1950 - 1960. - Hơn 50% máy móc thiết bị là đồ cũ tân trang lại. Kết quả điều tra, đánh giá trình độ công nghệ trong ngành công nghiệp nhẹ cũng cho thấy: - 46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình khá. - 40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình cần được cải tiến. - 14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp cần được đổi mới. Kết quả này phản ánh trình độ công nghệ của các doanh nghiệp đã có sự đầu tư, đổi mới công nghệ (cũng bằng con đường chuyển giao là chính) ở các doanh nghiệp khác, trình độ công nghệ còn thấp hơn, nghĩa là mục tiêu đổi mới công nghệ nâng cao trình độ kỹ thuật về cơ bản là chưa đạt hoặc đạt mức thấp, ngay sau khi chuyển giao công nghệ đã nảy sinh nhu cầu đổi mới hoặc tìm kiếm công nghệ khác để thay thế. Thực tế này không những gây lãng phí mà còn làm tăng thêm sự lạc hậu về công nghệ của nền kinh tế. ở đây có hai nguyên nhân chủ yếu là phía Việt Nam thiếu thông tin về các loại công nghệ cần thiết có thể chuyển giao và những tiêu cực nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hành chuyển giao công nghệ. c. Những nhân tố tạo ra sức cản nhất định đối với chuyển giao công nghệ. Những nhân tố chủ yếu, quan trọng nhất là: - Cơ sở vật chất phục vụ việc sử dụng công nghệ chưa được nâng câp tới mức độ cần thiết. Khâu yếu nhất cần cải tiến là hệ thống giao thông vận tải phục vụ việc cung ứng NVL và tiêu thụ sản phẩm. Bản thân từng doanh nghiệp không thể tự mình giải quyết vấn đề này, vì đây không phải là một vài km đường nội bộ hoặc đường nhánh nối với các quốc lộ, mà là toàn bộ hệ thống đường xá, bến bãi, cầu phà... của toàn vùng của cả nước. - Các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo bồi dưỡng lao động (cả lao động kỹ thuật lẫn lao động quản lý), dịch vụ đời sống xã hội cho lực lượng lao động và dân cư có liên quan tới việc sử dụng công nghệ mới được chuyển giao (kể cả văn hoá, y tế, giáo dục...) cũng chưa được tăng cường. Vấn đề cần lưu ý là khi tiến hành chuyển giao công nghệ, dù muốn hay không cũng sẽ dẫn tới sự hình thành các cụm công nghiệp, các trung tâm công nghiệp và gắn với chúng là các khu dân cư có quan hệ chặt chẽ với bộ phận công nghiệp này. - Sức ép về giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Vì việc chuyển giao công nghệ không chỉ là vấn đề kỹ thuật đơn thuần, mà có liên quan tới công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của công nhân viên nên thông thường các doanh nghiệp ít dám đổi mới triệt để mà lựa chọn những công nghệ và thiết bị tiên tiến nhất. - Sự hạn chế về vốn (kể cả vốn tự có và vốn vay) cũng làm chậm tốc độ, giảm quy mô và hiệu quả của chuyển giao công nghệ. Thông thường sức ép và nhu cầu đổi mới công nghệ lớn nhất là ở các doanh nghiệp có khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nhưng ở đó, một là các khoản nợ chưa trả cho ngân hàng lớn, hai là tài sản thế chấp để vay vốn mới hạn chế, ba là phương án kinh doanh dùng để vay vốn thường có độ rủi ro cao nên khó vay vốn của ngân hàng hoặc thu hút vốn liên doanh với nước ngoài và vay vốn của chính đối tác liên doanh nhằm chuyển giao công nghệ. Trong trường hợp này, Việt Nam thường chấp nhận những công nghệ có trình độ kỹ thuật không cao do chính đối tác chuyển giao giới thiệu. Hơn thế nữa, giá chuyển giao thường bị tính cao hơn thực tế 15 - 20% chưa kể các tỷ lệ hoa hồng kèm theo (thường khoảng 5%). Chỉ tính riêng trong khoảng 300 dự án đầu tư mà phía nước ngoài góp vốn bằng thiết bị, các bên Việt Nam đã thua thiệt 50 triệu USD. - Quy mô và sự báo động của thời gian cũng có những ảnh hưởng tới chuyển giao công nghệ. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam thường liên doanh với nước ngoài để nhập công nghệ - ngoài chuyện huy động vốn - là các doanh nghiệp nước ta không thâm nhập vào thị trường thế quốc tế. Thị trường trong nước có sức mua thấp, chưa phát triển làm cho định hướng các doanh nghiệp có xu hướng muốn vươn ra thị trường nước ngoài (đặc biệt là ngành may, giầy). Trong khi đó thị trường trong nước lại chưa được nghiên cứu chu đáo để có những sản phẩm phù hợp, trên cơ sở đó lựa chọn công nghệ thích hợp. Thực tiễn chuyển giao, đổi mới công nghệ định hướng vào thị trường trong nước của các ngành chế biến lương thực thực phẩm,tình hình thị trường nội địa của ngành dệt, may, sành sứ và các mặt hàng tiêu dùng cũng như một số tư liệu sản xuất khác cho thấy rằng,d tuy thị trường nội địa còn kém phát triển nhưng cũng có tiềm năng nhất định mà nền kinh tế có thể và cần phải khai thác. Một mặt các doanh nghiệp cần chủ động, nhưng mặt khác các cơ quan quản lý và tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cần nghiên cứu, thiết kế, tìm kiếm và chuyển giao, triển khai những công nghệ phù hợp với thị trường này. d. Kết quả của chuyển giao công nghệ chưa phát huy được tác dụng tích cực của nó đối với việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ, tiếp tục đổi mới và tự đổi mới công nghệ trong nước. Biểu hiện của mâu thuẫn này là: - Sự chuyển giao công nghệ được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, thí dụ dệt, may, giày dép, chế biến lương thực - thực phẩm... Ngành công nghiệp chế tạo máy, đặc biệt là máy công cụ thực hiện đổi mới và chuyển giao công nghệ mới chưa đáng kể, trong khi đó trình độ kỹ thuật và công nghệ của ngành thấp (tuổi trung bình của thiết bị cao, hao phí năng lượng cao hơn mức bình quân thế giới khoảng 1,5 lần, khả năng chịu nhiệt, chịu va đập, và các điều kiện khắc nghiệt của môi trường... rất hạn chế). - Lực lượng thực hiện đổi mới thường xuyên đối với công nghệ và thiết bị ở các doanh nghiệp giảm sút. Hiện có không ít doanh nghiệp thuê ngoài 100% trong các dịch vụ sửa chữa thiết bị từ mức trung tu trở lên. Gắn với hiện tượng này là sự giảm sút số lượng sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong các doanh nghiệp. - Các công nghệ và thiết bị chuyên dùng, có thiết kế cứng chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối trong các dự án chuyển giao công nghệ. Do đó, khi có những biến động hoặc khi doanh nghiệp muốn tổ chức lại sản xuất, đổi mới sản phẩm hoặc chuyển hướng kinh doanh thì thường khó tận dụng công nghệ, thiết bị chuyên dùng đó. Thêm vào đó, sau quá trình chuyển giao công nghệ sản xuất ở các doanh nghiệp có xu hướng khép kín khá rõ rệt. Sự hiệp tác, liên kết trong sản xuất bị thu hẹp thì tác động dây chuyền của việc đổi mới công nghệ khó xảy ra. - Sau khi chuyển giao công nghệ, chưa tạo ra được những mối quan hệ mới chặt chẽ hơn nữa giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tiến bộ kỹ thuật và công nghệ. Thậm chí có những Viện nghiên cứu không nắm được hết các loại công nghệ được sử dụng trong ngành mình. Tình trạng không nắm được những thông tin mới về công nghệ quốc tế, không đủ năng lực tư vấn và tham gia giám định công nghệ trong ngành hẹp của mình là phổ biến. 4. Định hướng lựa chọn công nghệ phù hợp. Đã có sự thống nhất trong các nước đang phát triển về sự thích hợp của công nghệ: các công nghệ thích ứng với tiềm lực và mục tiêu phát triển quốc gia. * Định hướng lựa chọn công nghệ: Có một loại công nghệ sẵn có để thoả mãn một nhu cầu nhất định. Các công nghệ này sắp xếp theo trình tự thô sơ thủ công đến tinh vi hiện đại. Vấn đề là lựa chọn cho đúng. Có một khái niệm về “Công nghệ trung gian”: đó là các công nghệ nằm giữa hai thái cực trên, được coi là thích hợp với các nước đang phát triển: các công nghệ có khả năng với sự tinh vi nhất định, đòi hỏi các đầu vào và các phương pháp tiến bộ hơn các hình thức truyền thống nhưng kém hơn các phương pháp hiện đại. Vẫn còn khuynh hướng thiên về các công nghệ Tây Âu mới nhất và tập trung vốn lớn ở các nước đang phát triển. Còn cò nhiều lặp luận tranh cãi về sự lựa chọn này. * Định hướng theo nhóm mục tiêu: Cơ sở để định hướng khác là các nhu cầu cơ bản của các nhóm mục tiêu nhất định. ở các nước đang phát triển, đại đa số dân nghèo là mục tiêu chính, theo định hướng đó các ngành công nghiệp quy mô nhỏ là thích hợp. * Định hướng theo sự hạn chế về tài nguyên. Cơ sở thứ ba của công nghệ thích hợp là xem xét nó thích ứng với taìa nguyên vốn có, phù hợp với điều kiện chung của các nước đang phát triển (vốn nhấn mạnh tài nguyên là một cơ sở phát triển quốc gia). Một số trong số các điều kiện về tài nguyên là đội ngũ lao động, vốn đầu tư nội địa, năng lượng, trong đó hai yếu tố chủ chốt cần quan tâm, mà chúng mâu thuẫn nhau khi tiếp cận một công nghệm, đó là vốn và lao động. Theo dõi lịch sử phát triển công nghệ, người ta thấy có sự chuyển dịch các yếu tố lựa chọn công nghệ theo sự tăng trưởng kinh tế. * Định hướng theo sự thay đổi không gây đột biến: Cơ sở thứ 4 của công nghệ thích hợp đó là mong muốn có được tiến bộ công nghệ thông qua “phát triển” chứ không phải “cách mạng”. Nó đòi hỏi: sự bền vững với văn hoá bản địa, bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp với quá trình ra quyết định ở địa phương. III. Phần thứ ba Giải pháp lựa chọn công nghệ phù hợp. 1. Phương hướng lựa chọn công nghệ phù hợp Như ta đã biết việc lựa chọn công nghệ có hiệu quả là vấn đề phức tạp nhưng rất quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Có 4 phương pháp được xem xét, đó là: - Phương pháp căn cứ vào giá trị hiện tại ròng của phương án công nghệ. Theo phương pháp này, nếu phương án có giá trị hiện tại ròng không âm thì có thể chấp nhận được. - Phương pháp căn cứ vào tỷ số giữa giá trị lợi ích hiện tại của phương án và giá trị chi phí hiện tại của nó. Nếu tỷ số đó không bé hơn một bước thì phương án có thể chấp nhận được. - Phương pháp căn cứ vào tỷ lệ tức nội bộ: Theo tiêu chuẩn này nếu số k tìm được lớn thì phương án có thể chấp nhận được. - Phương pháp thu hồi vốn nhanh: Theo phương pháp này thì một phương án được lựa chọn là phương án có khả năng thu hồi vốn nhanh nhất. Trong các phương án trên thì phương pháp đầu tiên là cơ sở chủ yếu để lựa chọn công nghệ có hiệu quả còn các phương pháp khác chỉ là hỗ trợ trong tổng hợp phương pháp 1 không xác định được phương án công nghệ nào là tốt hơn. 2. Những quan điểm chỉ đạo lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ. a. Chuyển giao công nghệ phải bảo đảm nâng cao hiệu quả kinh tế nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của đất nước, rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và thế giới. Bất kỳ một công nghệ nào được chuyển giao đều phải bảo đảm những yêu cầu về mặt kinh tế (thu hồi vốn, tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm...) đồng thời phải đảm bảo cả hiệu quả xã hội (thu nhập cho xã hội), khai thác và tận dụng tài nguyên đất nước, bảo vệ môi trường. Nhưng mặt khác, chúng không những phải tiên tiến hiện đại hơn những công nghệ, thiết bị đã có trong nước, mà phải tiên tiến hiện đại đủ để đưa trình độ công nghệ, trình độ kỹ thuật của ta lên mức bình quân của thế giới, chuẩn bị cho những bước phát triển cao hơn. Quan điểm này cần được quán triệt ngay từ đầu để nước ta không bị biến thành bãi thải công nghệ của thế giới. Lý do đơn giản là trình độ của ta quá lạc hậu, ngay cả những công nghệ và thiết bị của nhiều nước phát triển đã bị coi là lỗi thời thì khi chuyển giao vào nước ta vẫn có hiệu quả, trình độ kỹ thuật cao đủ để có thể chấp nhận được. b. Quá trình chuyển giao công nghệ đồng thời cũng là quá trình gắn khoa học - kỹ thuật với sản xuất kinh doanh. Mục đích chủ yếu của việc này là phát huy tác dụng tích cực của chuyển giao công nghệ đối với việc nâng cao năng lực công nghệ và kỹ thuật của đất nước. Như vậy, việc chuyển giao công nghệ không chỉ thực hiện với các doanh nghiệp mà cả với các cơ sở nghiên cứu. Mặt khác, cần huy động các cơ sở nghiên cứu vào việc giám định, đánh giá, cải tiến công nghệ. Đồng thời, việc tự nghiên cứu, tự thích ứng và cải tiến, hoàn thiện công nghệ ở các doanh nghiệp cũng cần được đẩy mạnh. Trên cơ sở này, một mặt chuẩn bị để có nguồn chuyển giao công nghệ từ trong nước, mặt khác đẩy mạnh công tác đăng ký, quản lý và kinh doanh các phát minh sáng chế. Trong thời gian trước mắt, các hoạt động này cần hướng mạnh hơn vào việc làm các công nghệ đã được chuyển giao thích ứng hơn với điều kiện Việt Nam, từ đó nhân rộng ra phạm vi cả nước (chuyển giao lại công nghệ đã được chuyển giao). c. Thực hiện chuyển giao công nghệ đối với mọi thành phần kinh tế: Cho đến nay, chuyển giao công nghệ chủ yếu được thực hiện với các doanh nghiệp Nhà nước dưới dạng nhập thiết bị và công nghệ hoặc liên doanh với nước ngoài . Các loại công nghệ, thiết bị cũ từ các doanh nghiệp Nhà nước lại được chuyển giao lại cho các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ cá thể hoặc hộ gia đình. Các doanh nghiệp tư nhân vừa qua còn ít tập trung vào sản xuất do vậy việc chuyển giao công nghệ hiện đại và tiên tiến có quy mô tương đối lớn hầu như chưa được đặt ra. Đến nay, nhiều doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ đã đến mức độ cần thiết và có thể trang bị công nghệ tiên tiến, hoặc có điều kiện chuyển từ kinh doanh thương mại là chính sang sản xuất công nghiệp, có nhu cầu trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Mặt khác, sau nhiều năm khó khăn nhiều nghề thủ công truyền thống đã có sự phục hồi nhất định, đòi hỏi phải cải tiến, hiện đại hoá cả sản phẩm lẫn công nghệ truyền thống cho phù hợp với yêu cầu mới của thị trường. Về nguyên tắc, Nhà nước chủ trương duy trì nền kinh tế nhiều thành phần nên việc chuyển giao công nghệ cho mọi thành phần kinh tế là vấn đề không cần bàn cãi. Tuy vậy, trong việc thực hành chuyển giao vẫn còn những vấn đề vướng mắc cần tháo gỡ. d. Việc chuyển giao công nghệ cần được thực hiện một cách linh hoạt, song phải theo một chiều hướng và phương hướng được cân nhắc, lựa chọn trên cơ sở những căn cứ khoa học. Cần đảm bảo tính linh hoạt về mặt hình thức chuyển giao (mua công nghệ, nhận công nghệ cùng nguyên liệu gia công sản phẩm cho nước ngoài, liên doanh để chuyển giao...), thời điểm, đối tượng quy mô, đối tác ... để các doanh nghiệp có thể được thuận tiện, dễ dàng trong việc thực hành chuyển giao công nghệ. Tuy vậy, vẫn cần phải có những chiến lược, phương hướng về đổi mới công nghệ để một mặt có căn cứ lựa chọn tránh sự tuỳ tiện và tiêu cực trong chuyển giao. Mặt khác để đảm bảo những yêu cầu và mục tiêu vĩ mô. Tất nhiên, những phương hướng chiến lược này không nhất thiết chỉ là của các cơ quan quản lý Nhà nước, do các cơ quan quản lý lập hoặc ban hành, phê duyệt, mà có thể là của bản thân các doanh nghiệp, do họ lập ra và tự thực hiện, kể cả điều chỉnh, nếu cần thiết. e.Tăng cường vai trò của Nhà nước đối với việc chuyển giao công nghệ. Trong lĩnh vực này , vai trò của Nhà nước cần thể hiện rõ trên các mặt sau: -Xác định những tiêu chuẩn, những giới hạn nhất định đối với các mối quan hệ được chuyển giao. Lâu nay thường tồn tại các ý kiến về việc Nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn, giới hạn về bảo vệ môi trường. Song như vậy chưa đủ, Nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn , giới hạn về trình độ kỹ thuật, mức độ tiên tiến của các công nghệ được chuyển giao. - Thực hành sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ được chuyển giao. Điều này đòi hỏi một mặt có những cơ chế kiểm soát nhất định, đồng thời cũng phải có một hệ thống tổ chức và lực lượng cán bộ chuyên môn thích hợp. Gắn vói chúng là chế độ xử lý nghiêm khắc những vi phạm dù vô tình hay c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0081.doc
Tài liệu liên quan