Đề tài Một số giải pháp về huy động vốn đầu tư ở Công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ Ở CÔNG TY ĐẦU TƯ & XUẤT NHẬP KHẨU ĐOÀN MINH GIANG 4

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU ĐOÀN MINH GIANG 4

1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 4

2. Cơ cấu tổ chức của công ty 5

2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty 1

2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trong công ty 7

2.21.Hội đồng quản trị 7

2.2.3. Phòng hành chính tổng hợp 8

2.24. Phòng kinh doanh 9

2.25. Phòng kế toán 10

2.2.6 Ban dự án 11

3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh 12

3.1: Hình thức kinh doanh 12

3.2 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 13

N

II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY 19

1.Tình hình huy đông vốn của công ty từ năm 2002-2006 19

2. Các phương thức huy động vốn tại công ty 22

3. Đánh giá về tình hình huy động vốn ở công ty 26

4. Các nhân tố làm ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của công ty 27

4.1. Các nhân tố chủ quan: 27

4.11.Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 27

 

4.12: Uy tín và quan hệ giữa công ty với các tổ chức tài chính 29

4.22: Các chính sách của Nhà Nước 31

CHƯONG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HUY ĐỘNG VỐN ĐÁP ỨNG NHU CẦU ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY ĐẦU TƯ & XNK ĐOÀN MINH GIANG 33

I.NHU CẦU VỐN CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ KHÓ KHĂN, THUẬN LỢI TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY: 33

doc61 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp về huy động vốn đầu tư ở Công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai hình thức: vay ngắn hạn và vay dài hạn. Trong đó vay ngắn hạn là hình thức đi vay trong thời hạn một năm, vay dài hạn là hình thức đi vay trong thời hạn lớn hơn một năm. Cả hai hình thức này đều phù hợp với tình hình hoạt động của công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang. + Vay ngắn hạn: là phương thức quan trọng trong huy động vốn của mỗi doanh nghiệp. Sử dụng hình thức này công ty có thể huy dộng vốn tức thời chỉ trong một thời gian ngắn từ vài ngày cho đến cả năm tuỳ theo yêu cầu hoạt động của công ty. Vốn vay ngắn hạn được huy động theo các hinh thức: Thứ nhất: vay theo hạn mức tín dụng Theo phương thức này các ngân hàng và công ty sẽ thoả thuận theo một hạn mức tín dụng nhất định mà công ty không phải thế chấp. Hạn mức tín dụng được các ngân hàng tạo sẵn cho công ty, công ty có thể vay ngân hàng bất cứ lúc nào mà không phải them định. Điều này tạo nhiều điều kiện trong việc huy động vốn của công ty, mặc dù vậy khi ngân hàng gặp trục trặc thi công ty sẽ không được vay và phải hoàn tra số vốn đã vay điều này tuỳ thuộc vào cam kết giữa ngân hàng và công ty. Thứ hai: vay theo hợp đồng Theo phương thức này khi công ty có các hợp đồng kinh tế có thể trình lên các ngân hàng xem xét để vay vốn căn cứ vào hợp đồng đã ký trước đó. Thứ ba: Vay có đảm bảo Công ty có thể huy đông vốn bằng cách thế chấp các tài sản cố định, các hàng hoá để vay của các ngân hàng. Vay có đảm bảo bao gồm các hình thức: . Huy động vốn bằng cách bán nợ: Công ty có thể huy động vốn bằng cách bán các khoản nợ của mình. Các tổ chức mua nợ thường là các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính. Sau khi việc mua bán được hoàn tất, bên mua nợ căn cứ vào các hoá đơn chứng từ để thu hồi nợ, quan hệ kinh tế lúc này là của người nợ và chủ nợ mới là bên mua nợ. . Huy động vốn bằng cách thế chấp các khoản phải thu: các công ty trong quá trình hoạt động có thể đem các hoá đơn thu tiền làm vật đảm bảo cho khoản vay. Số tiền mà các ngân hàng cho vay tuy thuộc vào mức độ rủi ro của các hoá đơn thu tiền nhưng thông thường tỉ lệ giá trị cho vay chiếm khoảng 30% - 90% giá trị thực của các hoá đơn thu tiền. . Huy động vốn vay bằng cách thế chấp hàng hoá: Hàng hoá cũng thường được sử dụng để thế chấp vay các nguồn vốn ngắn hạn, giá trị của khoản vay tuỳ thuộc vào giá trị của hàng hoá. Trong trường hợp chấp nhận cho vay, ngân hàng phải tính đến tính chất chuyển đổi của các tài sản thành tiền và tính ổn định về giá cả của các hàng hoá đó. + Vay dài hạn: là hình thức huy động vốn mà công ty sẽ đi vay các tổ chức tài chính dưới dạng hợp đồng tín dụng và công ty sẽ phải trả lãi suất theo dịnh kì với các khoản tiền bằng nhau.Loại hình này rất phù hợp vì công ty có thể đưa ra các biện pháp trả nợ tuy thuộc vào thu nhập của mình. Lãi suất của nguồn vay dài hạn được áp dụng theo hai cách: Lãi suất cố định: là lãi suât không biến đổi theo biến động của thị trường. Được áp dụng khi doanh nghiệp muốn có hợp đồng cố định và không lo lắng trước bíên động của thị truờng. Lãi suất thả nổi: là loại lãi suất thay đổi theo sự biến động của thị trường, theo hình thức này doanh nghiệp sẽ phải trả lãi tuy theo sự biến động của thị trường. Nguồn vốn liên doanh, liên kết: theo đo các đối tác liên doanh, liên kết với công ty sẽ rót vốn tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên. Nguồn vốn do các cổ đông đóng góp: Quyền lợi của các cổ đông trong công ty bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm tuy theo phần trăm ma các cổ đông đóng góp nhân với lợi nhuận thu được của công ty sau khi đã trừ thuế. Vì vậy lợi ích của công ty cũng chính là lợi ích của mỗi cổ đông do đó huy động nguồn vốn theo loại hình này sẽ giúp cho các cổ đông gắn bó với công ty nhiều hơn. Các nguồn vốn huy động ở công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 9: Các nguồn huy động vốn đầu tư đv: triệu đồng Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Vốn tự có 256.2 98.1 - 113.7 44.7 Vốn vay 177.1 65.4 - 189.65 119.2 Vốn liên doanh, liên kết trong nước 0 0 - 75.8 44.7 Vốn liên doanh, liên kết với nước ngoài 0 0 - 0 89.4 Nguồn: báo cáo tài chính các năm Dựa vào các số liệu ta thấy để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh công ty đã chủ động huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy vậy vốn đi vay vẫn chiếm một tỷ trọng lơn trong tổng vốn đầu tư, kể từ sau khi hoạt động trơ lại năm 2005 tỷ trọng vốn vay chiếm: 50% vào năm 2005 và 40% năm 2006. Nhu cầu về vốn của công ty trong năm 2002-2006 được phản ánh qua: Bảng 10: Nhu cầu sử dụng vốn của công ty 2002-2006 đơn vị: triệu đồng Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 250 390 - 420 450 Nguồn: báo cáo tài chính các năm Tuy nhu cầu huy động vốn của công ty ngày càng tăng nhưng chủ yếu là đi vay tín dụng do đó trong thời gian tới công ty cần có các biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác nhằm tránh tình trạng quá lệ thuộc vào các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo cho việc huy động vốn không bị ảnh hưởng. Vời tình hình huy động vốn ở trên công ty đã phần nào đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh trong thời gian qua. Đánh giá về tình hình huy động vốn ở công ty Trong các năm 2002 - 2006 công ty đầu tư & xuất nhập khẩu Đoàn Minh Giang đang đi trên con đường phát triển, công ty đã đạt được những thành công nhất định. Không những công ty hướng tới thị trường trong nước mà còn đang có kế hoạch vưon ra hợp tác với các đối tác nước ngoài, năng động trong việc tìm kiếm cơ hội mang lại lợi nhuận cho công ty.Để có được những thành công đó một trong các lý do đó là công ty đã đạt được những thành tựu trong công tác tạo nguồn và huy động vốn của mình. Những kết quả đó được ghi nhận như sau: Cơ cấu vốn ổn định với chi phí thấp: công ty đã tạo cho mình một cơ cấu vốn ổn định, nguồn vốn vay dài hạn đã tạo được sự ổn định do công ty có uy tín và có quan hệ với nhiều tổ chức ngân hàng, tín dụng trong nước và quốc tế. Vì vậy công ty đầu tư & xuất nhập khẩu Đoàn Minh Giang có thể vay một nguồn vốn lớn mà chỉ phải chịu một mức lãi rất nhỏ. Với những lợi thế do cơ chế doanh nghiệp tư nhân mang lại công ty đã biết tận dụng lợi thế của mình để huy động một số vốn lớn nhằm đáp ứng yêu cầu sản xúât kinh doanh của công ty tư đó lấy lợi nhuận hàng năm thu được bổ sung vào nguồn vốn của công ty. Về nguồn vốn ngắn hạn: công ty cũng đã duy trì và hướng tới một xu hướng huy động các nguồn vốn ổn định. Công ty đã sử dụng thế mạnh và mối quan hệ rộng rãi của mình để áp dụng các hình thức huy động vốn với chi phí thấp. Công ty đã đánh giá cao vai trò của nợ ngắn hạn trong tổng nguồn vốn của mình, sử dụng nợ ngắn hạn công ty có thể tài trợ cho các tài sản đáp ứng nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh và phải trả chi phí huy động rất thấp. Trong mối quan hệ mua bán rộng rãi với nhiều nhà cung cấp, công ty có khả năng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác thông qua hình thức tín dụng thương mại, người mua trả trước.. . công ty cũng tận dụng những nguồn vốn thực tế công ty không phải trả chi phí như: phải trả phải nộp khác, phải trả các đơn vị nội bộ. Với những nguồn này công ty đã sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn tức thời phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Công ty cũng đã phát huy được ưu thế trong mối quan hệ với các đơn vị nội bộ dù sự tận dụng đó còn tương đối nhỏ. Các nhân tố làm ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của công ty Các nhân tố chủ quan: 4.11.Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh cũng là một yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng huy động của công ty. Để đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh, có các chỉ tiêu kinh tế sau : Bảng 11: Kết quả sản xuất kinh doanh Đv:vnĐ TT Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Tổng doanh thu 254.721.186 - 343.451.923 525.201.550 2 Các khoản giảm trừ 2.458.631 - 4.386.620 9.949.232 Chiết khấu - Giảm giá 2.245.451 - 3.596.620 9.949.232 Giá trị hàng bán bị trả lại 213.180 - 790.000 3 Doanh thu thuần 254.751.186 - 339.065.303 515.252.318 4 Giá vốn hàng bán 215.226.255 235.848.679 409.896.771 5 Lợi tức gộp 78.952.493 - 113.216.624 205.355.547 6 Chi phí bán hàng 14.456.258 - 13.147.627 28.747.311 7 Chi phí QLDN 31.452.268 - 46.186.049 51.289.519 8 Lợi tức thuần tử HĐKT 45.265.758 - 53.882.948 65.318.717 Thu nhập HĐTC 12.451.145 - 15.941.781 33.646.220 Chi phí HĐTC 32.814.613 - 37.941.167 31.672.497 9 Lợi tức HĐTC -16.234.593 - - 14.315.523 - 27.047.010 Các khoản TN bất thường 7.456.712 - 10.599.696 12.057.760 Chi phí bất thường 4.331.268 - 6.448.238 7.384.750 10 Lợi tức bất thường 9.587.456 - 161.151.458 8.223.010 11 Tổng lợi tức trước thuế 256.783.325 - 340.718.883 1.276.494.717 12 Thuế lợi tức phải nộp - 13 Lợi tức sau thuế 256.783.325 - 340.718.883 1.216.444.747 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm * Chỉ số vốn danh lợi = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ = 0,1095 Đây là chỉ số mà doanh nghiệp quan tâm nhất bởi vì nó là mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi. Chỉ số này phải đạt mức sao cho doanh lợi trên vốn chủ đạt cao hơn tỷ lệ lạm phát và giá vốn. Tại công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang chỉ số này năm 2006 là 0,1095 điều này có nghĩa là sau khi công ty bỏ ra 1 đồng vốn vào sản xuât kinh doanh sẽ thu đựoc 0.1095 đồng lợi nhuận. Hiệu quả SXKD có ảnh hưởng tới việc huy động vốn của công ty. Nếu kết quả SXKD mà thấp thì khó lòng thuyết phục được các nhà đầu tư hoặc các tổ chức tài chính cho vay vốn hay đầu tư vào công ty. 4.12: Uy tín và quan hệ giữa công ty với các tổ chức tài chính Mặc dù đã tạo được uy tín trên thị trường, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng, nhưng công ty vẫn chưa phát huy hết thế mạnh của các tổ chức tài chính trung gian nhằm khơi thông các nguồn vốn và huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để phục vụ nhu cầu phát triển... Các nhân tố khách quan: 4.21: Sự phát triển của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính + Sự phát triển chậm của thị trường tài chính. Nói chung, ở Việt Nam, sự ra đời của TTCK còn là rất mới mẻ và xa lạ với hầu hết các doanh nghiệp. Hiện nay, sau vài năm đi vào hoạt động nhưng thị trường chứng khoán không đạt hiệu quả cao. Số lượng công ty đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch là rất ít. Sự phát triển chậm của thị trường tài chính, của các tổ chức trung gian tài chính, làm hạn chế bớt cơ hội huy động vốn của công ty. Nếu như thị trường tài chính mà phát triển mạnh, tất yếu công ty sẽ dễ dàng tham gia phát hành trái phiếu hoặc thực hiện tín dụng thuê mua. + Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với công ty. Hiện nay việc huy động vốn từ nguồn này đang gặp phải những trở lực sau. Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền, người được bảo lãnh phải thế chấp tài sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều công ty khó có thể vay được vốn từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía các DN mà cả của một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản để thế chấp. Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng Nhà nước qui định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân phối hạn mức tín dụng cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây dựng cho met thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù công ty có đủ các điều kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay được vốn tín dụng ngân hàng. Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh tế chưa thực sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay đổi còn chậm so với biến động của giá cả. Hiện nay lãi suất ngắn hạn là 1%/ tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,25%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của công ty cũng như nhiều DN, với mức lãi suất đó không mấy DN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của ngân hàng cao nên hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của công ty, trong khi đó công ty luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Met nghịch lý khác là hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ các khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài hạn. Rút cuộc ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp vay mà không có. Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn của một số cán bộ tín dụng trong các NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế nhất là các NHTM ở quận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườm rà đối với khách hàng và thường chậm chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh. 4.22: Các chính sách của Nhà Nước Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DN đã được đổi mới rất nhiều nhưng vẫn còn một số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của công ty. Cụ thể là: - Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản, quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở DN còn phức tạp rườm rà không tạo ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động vốn đặc biệt là sử dụng tài sản để thế chấp. Việc Nhà nước qui định DN chỉ được huy động vốn với tổng mức dư nợ không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này chưa phù hợp vì hiện nay việc huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu của DN là rất khó khăn do ngân sách eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng mà hiện nay nợ của DN đã vượt xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá vốn điều lệ thì rất ít có khả năng huy động được vốn. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DN bị thiếu vốn trầm trọng, ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng. Đó là những nguyên nhân của tính bất cập trong công tác huy động vốn ở công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang. Chưong II: Một số giải pháp nhằm huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư của công ty đầu tư & xnk đoàn minh giang I.Nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới và khó khăn, thuận lợi trong việc huy động vốn của công ty: Nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới:2007-20011 Bước sang năm 2007 – năm đầu tiên Việt Nam ra nhập WTO thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tự do thương mại làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng đồng thời nó tác động sâu sắc tới sự phát triển về mọi mặt của nền kinh tế Việt Nam nói chung và Công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang nói riêng. Trước tình hình đó, để tiếp tục phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đáp ứng yêu cầu của thị trường công ty xây dựng Sông Đà 8 đã đặt ra cho mình mục tiêu, định hướng phát triển trong giai đoạn mới 2007 – 2011: - Xây dựng mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh hoàn chỉnh để có thể nhận thầu chính, tổng thầu đối với công trình có qui mô lớn, có kết cấu phức tạp với chất lượng cao. Tập trung đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, nâng cao năng lực của công ty trong lĩnh vực đầu tư tài chính tư vấn dự án…. Các mục tiêu này được cụ thể hoá qua các số liệu sau : Bảng 12: Một số chỉ tiêu năm năm: 2007 - 2011 Đơn vị tính: triệu đồng TT Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 1 Tăng trưởng (%) 100 116 119 120 120 2 Tổng giá trị SXKD 2.000 2.500 3.400 3.900 4.100 3 Doanh thu 2.619 2.830 4.843 5.071 6.238 4 Vốn kinh doanh 1.866 3.247 3.865 4.153 4.434 5 Vòng quay VLĐ bq/năm 4,1 5 5 5 5,17 6 Nhu cầu VLĐ 3.766 4.815 5.915 6.613 7.022 7 Tổng giá trị đầu tư 2.300 2.800 3.150 3.579 4.260 7 Nộp ngân sách 138 184 250 300 345 8 Lợi nhuận 460 520 650 740 860 9 Lao động 70 100 130 160 200 10 Thu nhập bình quân(1000đ/người/tháng) 1.500 1.750 1.900 2.100 2.500 Nguồn: Biên bản cuộc họp hội đồng quản trị cuối năm 2006 Công tác lập kế hoạch nhu cầu VLĐ định mức: Như chúng ta đã biết, VLĐ định mức tối thiểu có thể dự tính trước được, tuỳ theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành, tính chất sản xuất của từng doanh nghiệp mà cách thức xác định VLĐ định mức kế hoach là khác nhau. Đối với công tyđầu tư & XNK Đoàn Minh Giang, gắn liền với đặc điểm sản xuất kinh doanh là: đầu tư tài chính, xây dựng các công trình thuỷ điện, xây dựng cầu đường...nên vốn lưu động định mức được xác định dựa trên doanh thu kế hoạch và số vòng quay VLĐ kế hoạch. Doanh thu kế hoạch được xác định căn cứ vào doanh thu thực hiện năm trước, khả năng ký kết các hợp đồng trong năm trên cơ sở cân đối với khả năng sản xuất và doanh thu. Từ doanh thu kế hoạch, công ty xác định tổng mức luân chuyển kế hoạch (doanh thu - thuế - chi phí khấu hao). Trên cơ sở vốn lưu động định mức đã xác định được, công ty tiến hành xây dựng kế hoạch huy động vốn lưu động. Qua bảng ở trên cho thấy, nhu cầu vốn của công ty trong thời gian tới là rất lớn Cụ thể năm 2007 cần một lượng vốn kinh doanh là 1.866 triệu đồng, trong khi đó đến cuối năm 2008 là 3.247 triệu đồng. Như vậy số vốn cần huy động thêm cho năm 2008 là (3.247- 1.866 = 1.381triệu đồng). Như vậy số vốn công ty cần huy động để đáp ứng nhu cầu của năm 2008 là lớn, do đó công ty phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp để huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Khó khăn, thuận lợi trong việc huy động vốn của công ty 2.1. Những khó khăn Qua sự phân tích về sự phát triển của Công ty đầu tư và XNK Đoàn Minh Giang không thể khẳng định công ty hoàn toàn không gặp khó khăn nào. Chỉ riêng về phía nguồn vốn, câu hỏi đặt ra là: Trong một thị trường đầu tư tài chinh,xây dựng cạnh tranh gay gắt và sự vươn lên của tất cả các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này, việc duy trì một nguồn vốn như vậy có đảm bảo cho công ty có đủ điều kiện để tiếp tục phát triển như hiện tại hay không? Sau đây là những phân tích chỉ rõ những khó khăn mà công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang đang gặp phải trong việc thiết lập nguồn vốn và công tác huy động vốn. Vì mới thành lập nên vốn cho sản xuất kinh doanh rất ít ỏi và hạn hẹp, nhất là vốn cố định, nhiều khi rất căng thẳng ảnh hưởng tới tiến độ và hiệu quả các công trình đầu tư. Mặt khác, địa bàn hoạt động của công ty phân tán, những công trình công ty đảm nhận hầu hết ở trên địa bàn xa xôi, hẻo lánh như : công trình thuỷ điện ở Lào,nhà máyYên Bái... do đó chi phí vận chuyển NVL đến tận nơi công trình lớn. Điều hành sản xuất cũng như sinh hoạt của CBCNV gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy công ty khó có thể giám sát quản lý vốn một cach chặt chẽ. Về quy mô, vốn của công ty thấp, khó có khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh trong cơchế mới, không đủ để đổi mới TSCĐ, cũng như đầu tư máy móc thiết bị.... 2.11.Nguồn vốn còn đơn điệu và chứa nhiều rủi ro lớn. Công ty đầu tư & XNK có một cơ cấu vốn rất đơn điệu, xét trên cả tổng nguồn thì bao gồm cả nợ và vốn chủ sở hữu như bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhưng xét về nguồn dài hạn thì hầu như chỉ có vốn chủ sở hữu, nợ vay chiếm rất ít và đặc biệt đến năm 2007 mới xuất hiện nợ vay. Một danh nghiệp sử dụng nguồn vốn dài hạn là phần lớn vốn chủ sở hữu là quá rủi ro, khi khó khăn xảy ra thì người gánh chịu hoàn toàn thuộc về người chủ sở hữu. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh việc hướng tới một cơ cấu vốn có chi phí thấp là mục tiêu của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nhưng nếu nhằm vào mục tiêu đó thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển và lợi nhuận vì nếu chỉ cần huy động những nguồn vốn có chi phí thấp thì cơ hội mở rộng phát triển có thể bị bỏ qua, những lợi ích lâu dài không được tính đến. Tính đơn điệu được thể hiện như sau: Trong nguồn nợ phải trả, nợ ngắn hạn, công ty mới chỉ dành sự quan tâm đặc biệt của mình tới nguồn vốn được huy động dưới hình thức tín dụng thương mại. Cho dù nguồn tín dụng thương mại là phương thức tài trợ ngắn hạn phổ biến với doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp như công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang, nhưng chỉ chú trọng đến nguồn này là chưa thoả đáng vì không phải nhà cung cấp nào cũng đồng ý bán chịu cho công ty. Như chúng ta đã biết, nguồn vốn vay ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường, ngân hàng được coi là bà đỡ của các doanh nghiệp.Trong những năm trước công ty đã không tận dụng nguồn vốn này một cách triệt để, thể hiện trong tổng nguồn là vốn vay ngân hàng rất thấp và chỉ có vay ngắn hạn. Trong quá trình huy động nợ vay chính công ty đã chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ, giảm rủi ro cho các chủ sở hữu doanh nghiệp. Việc không áp dụng được hình thức huy động vốn vay dài hạn là công ty chưa san sẻđược rủi ro của mình. Cho đến thời điểm này, công ty đã bắt đầu tận dụng những cơ hội đầu tư vào các dự án dài hạn thu được lợi nhuận cao hơn trong tương lai bằng nguồn vốn ổn định và có tính chủ động cao. Dù đây là nguồn vốn có chi phí vốn cao, nhưng trong tài chính doanh nghiệp đã kết luận rằng: “ việc sử dụng nợ ở một mức độ cao sẽ có tác động khuếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu”. Như vậy công ty có nên sử dụng nợ hay không? Việc công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang tăng cường sử dụng nguồn vốn chiếm dụng là phù hợp với điều kiện là một công ty làm việc lĩnh vực đầu tư tài chính, xây dựng…. Những nguồn vốn chiếm dụng: phải trả người bán, người mua trả trước, phải trả phải nộp khác... có đặc điểm là luân chuyển rất nhanh, huy động các nguồn này công ty phải tính đến khả năng sẵn sàng thanh toán khi đến hạn. Theo nhận định mang tính chất kinh tế thì giữ tiền để đáp ứng khả năng thanh toán là đúng nhưng khi giữ quá nhiều tiền thì gây ra sự lãng phí vì tiền không bỏ vào kinh doanh thu lãi thì là vốn chết. Rõ ràng cân nhắc giữa việc giữ nhiều tiền mặt và cơ hội đạtđược khi huy động vốn từ nguồn chiếm dụng thì chưa hẳn nguồn vốn chiếm dụng đã hoàn toàn là nguồn vốn tốt, nhưng đó lại là nguồn vốn có thể huy động nhằm đáp ứng nhanh chóng cho nhu cầu SXKD. Trong nguồn vốn chủ sở hữu công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn kinh doanh cũng như toàn bộ vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận sau thuế. Với số vốn ban đầu còn nhỏ so với nhu cầu vốn của một công ty hoạt động trong lĩnh vực đầu tư tài chính, công ty đầu tư & XNk Đoàn Minh Giang đã phải tăng cường bổ sung vốn kinh doanh để có thể mở rộng hoạt động của mình. Trên thực tế công ty thực hiện nhiệm vụ của một nhà thầu bộ phận, công ty chưa có đủ điều kiện để bao thầu toàn bộ việc đầu tư các công trình lớn tự tìm kiếm, mà việc bao thầu đó vẫn dưới danh nghĩa một công ty khác. Thêm vào đó, công ty chịu rủi ro lớn vì trong cơ cấu vốn chỉ có vốn chủ sở hữu, vốn vay ngắn hạn, đến năm 2007 mới có vốn vay dài hạn. Nếu tiếp tục tăng cường huy động vốn chủ sở hữu trong khi không huy động nợ dài hạn là lựa chọn rất mạo hiểm. Nhà nước có thể mất toàn bộ nếu công ty phá sản hay làm ăn không có lãi. Như vậy việc chủ động tăng cường huy động vốn chủ sở hữu chưa phải là phương thức huy động an toàn. 2.12. Tỷ lệ vốn bị chiếm dụng cao Công ty đầu tư & XNK Đoàn Minh Giang chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khácvà đồng thời cũng bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn, số vốn bị chiếm dụng mỗi năm chiếm khoảng 1/3 tổng nguồn vốn của công ty. Chấp nhận bị chiếm dụng vốn công ty sẽ bán được nhiều sản phẩm hơn và có khả năng tăng doanh thu của mình, nhưng bị chiếm dụng vốn quá lớn đôi khi là sự không hiệu quả. Vốn lưu động sinh lời trong quá trình luân chuyển, để vốn bị chiếm dụng quá lâu là công ty làm chậm sự luân chuyển của đồng vốn và làm giảm khả năng sinh lời của đồng vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do chủ đầu tư (Bên A) chậm thanh toán các công trình. 2.13 Khả năng thu hút vốn đầu tư của công ty so với nhu cầu còn thấp Ngoài các hình thức huy động truyền thống như vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng...thì vốn huy động bằng cách phát hành chứng khoán chưa được thực hiện. Nguồn vốn huy động bằng hình thức thuê, mua tài chính chưa phát huy triệt để, vốn tích luỹ và vốn ngân sách Nhà Nước chiếm tỷ trọng nhỏ, trong khi đó để đảm bảo sự phát triển bề vững thì công ty phải kết hợp nhiều hình thức huy động vốn khác nhau. Việc thực hiện tiến trình cổ phần hoá chậm đã làm giảm khả năng huy động vốn cho công ty và còn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế chung trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2.14. Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính của doanh nghiệp còn rất yếu về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy động vốn mới như là tín dụng thuê mua, phát hành trái phiếu... Những thuận lợi Về thị trường tài hiện nay cũng đã có những bước phát triển chúng ta đã có một số công ty cho thuê tài chính ra đời như: Công ty thuê mua và đầu tư của VietCombank, công ty tín dụng thuê mua của Vietindobank, công ty thuê mua và tư vấn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty thuê tài chính Kexin, công ty liên doanh và thuê tài chính Việt Nam (Vinalease). Điều đó tạo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36769.doc
Tài liệu liên quan