Đề tài Một số vấn đề về đầu tư xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XÓA

ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM. 3

I. LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN. 3

1. Đầu tư phát triển là gì? 3

2. Vai trò của đầu tư phát triển. 3

2.1 Đầu tư phát triển vừa tác động đến tổng cung vừa tác động

đến tổng cầu 3

2.2 Đầu tư phát triển cũng có tác động hai mặt tới sự ổn định

của nền kinh tế 3

2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế 4

2.4 Đầu tư với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4

2.5 Đầu tư với việc tăng cường khả năng công nghệ.

Khoa học của đất nước 5

3. Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam 5

II. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 6

1. Quan điểm của Simon Kuznets. 6

2. Quan điểm của A. Lewis. 7

3. Quan điểm của Harry Oshima. 8

4. Quan điểm của Các Mác về phân phối bất công trong xã hội

tư bản chủ nghĩa. 10

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHO XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

Ở VIỆT NAM. 11

I. THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TRONG

THỜI GIAN QUA 11

1. Tỷ lệ đói nghèo. 11

2. Mức dộ bất bình đẳng trong thu nhập 12

II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 14

1. Tổng quan về hệ thống cung cấp vốn. 14

2. Hỗ trợ vốn từ Ngân sách Nhà nước. 16

3. Hỗ trợ vốn từ các tổ chức tín dụng nông thôn. 17

3.1. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. 17

3.2. Ngân hàng phục vụ người nghèo 18

3.3. Quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phầncác 19

4. Một số hình thức khác. 20

III. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TRONG

NHỮNG NĂM QUA 21

1. Kết quả hoạt động xóa đói giảm nghèo. 21

2. Tồn tại trong công tác đầu tư xóa đói giảm nghèo. 22

CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CHO

XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 23

I. HỆ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO. 23

1. Đầu tư cho xóa đói giảm nghèo gắn liền với phát triển kinh tế

và giữ vững ổn định chính trị. 23

2. Đầu tư xóa đói giảm nghèo phải đảm bảo sự kết hợp, thống nhất

kinh tế với xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. 23

3. Xóa đói, giảm nghèo là sự quan tâm trách nhiệm của Đảng,

Nhà nước và toàn xã hội. 24

4. Đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải tạo cơ sở phát huy tính tự chủ tự vươn lên vượt qua đói nghèo, giảm nghèo của người nghèo 24

5. Đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải xuất phát từ mục tiêu phát triển

vì phát triển là chính 24

6. Mở rộng hợp tác quốc tế khai thác có hiệu quả mọi nguồn

hợp tác quốc tế 25

 

doc38 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về đầu tư xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng lên nhiều. Để đánh giá mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, Ngân hàng thế giới dựa vào tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ thu nhập thấp nhất trong tổng số thu nhập của tất cả các hộ dân cư và xác định như sau: Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 12% được coi là bất bình đẳng cao Nếu tỷ lệ này từ 12% - 17% được coi là bất bình đẳn vừa Nếu tỷ lệ này lớn hơn 17% được coi là tương đối bình đẳng ở nước ta tỷ lệ này năm 1994 là 20%, năm 1995 là 21,09%, năm 1996 là 20,97%. Như vậy phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư nước ta là tương đôi bình đẳng. kết luận này cũng tương đối phù hợp với đánh giá năm của UNDP về phát triển con người. Theo báo cáo này, thu nhập của 40% hộ nghèo nhất năm 1993 ở Việt Nam là 19,2% so với tỷ lệ này ở một số nước trong giai đoạn 1981 – 1993 là: Thái Lan: 15,5% Malaixia: 12,9% Philippin: 16,9% Indonêxia:20,8% Trung Quốc: 17,4% Singapore: 15% Phân hóa giàu nghèo ở các vùng nông thôn đang diễn ra khá phổ biến và có xu hướng ngày càng giãn cách. Theo kết quả điều tra của Bộ LĐ - TB&XH, từ năm 1989 đến nay, tốc độ tăng người giàu mỗi năm khoảng 3 – 4 %, tỷ lệ người nghèo tuyệt đối giảm 3 – 4%/năm, nhưng tỷ trọng quy mô người nghèo vẫn lớn, mức chênh lệch giàu nghèo thời kỳ 1976 – 1980 cách nhau từ 3 – 4 lần, đến 1981 – 1989 tăng lên 6 – 7 lần, thời kỳ 1990 – 1994 tăng lên 15 – 20 lần. Có những vùng có chênh lệch rất lớn như Tây Nguyên là 43 lần, Nam Bộ là 100 lần. So sánh mức độ nghèo theo vùng: Việt Nam có tỷ lệ đói nghèo khá cao nhưng tình trạng nghèo đói này không dàn trải trên phạm vi quốc gia mà tỷ lệ nghèo đói khác nhau khá nhiều tại những vùng khác nhau: Vùng Bắc Trung Bộ là vùng nghèo nhất với tỷ lệ nghèo lên tới 71% Vùng núi phía Bắc có tỷ lệ 59% người nghèo cũng cao hơn mức trung bình toàn quốc Vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là Đông Nam Bộ với 33% dân số là người nghèo Cả 4 vùng còn lại: Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, đều có tỷ lệ nghèo đói xấp xỉ với tỷ lệ nghèo bình quân cả nước, tức là vào khoảng 48- 50% So sánh nghèo khổ theo giới tính và dân tộc Theo giới tính Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Những hộ gia đình nghèo nhất là những hộ gia đình do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ đói nghèo do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới. - Theo dân tộc: ở Việt Nam nhìn trên tổng thể, dân tộc Kinh có mức độ nghèo khổ nhỏ hơn so vói mức độ nghèo khổ, bình quân toàn quốc, trong khi hầu hết các dân tộc thiểu số đều có một tỷ lệ nghèo khó rất cao so với mức bình quân này. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì các dân tộc thiểu số hầu hết đều sống tại các vùng núi cao hay nông thôn khó có điều kiện để cải thiện thu nhập Thực trạng đầu tư xóa đói giảm nghèo Tổng quan về hệ thống cung cấp vốn. Cho đến nay, hệ thống chuyển tải vốn phục vụ cho đầu tư xóa đói, giảm nghèo được thực hiện qua các bộ phận chủ yếu sau: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo: các tổ chức phi Ngân hàng trong và ngoài nước. Các tổ chức tín dụng này có quy mô và mức độ hoạt động rất khác nhau. Riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Theo quyết định 525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo với trung tâm điều hành tác nghiệp do Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đảm nhiệm. Hệ thống tín dụng cho người nghèo đã được quốc gia hóa và từ khi bước vào hoạt động, Ngân hàng đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Với mục tiêu vốn đến trực tiếp các hộ nông dân nghèo, hệ thống dẫn vốn về nông thôn theo các kênh chính sau: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông Việt Nam thoon Quỹ tín dụng nhân dân chương trình quốc gia (kho bạc Nhà nước) Các đoàn thể và các tổ chức xã hội Các ngân hàng khu vực Các quỹ khu vực Ngân hàng cổ phần nông thôn Tổ tiết kiệm và vay vốn Hộ nghèo UBND xã (ban xóa đói giảm nghèo) Hợp tác xã doanh nghiệp Cơ quan và các tổ chức cấp xã Cơ quan và các tổ chức cấp huyện Các chi nhánh Các chi nhánh huyện, liên xã Cơ quan và chức cấp tỉnh Ngân hàng phục vụ người nghèo Bộ phận dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo Bộ phận dịch vụ cho Quỹ tín dụng khu vực Hỗ trợ vốn từ Ngân sách Nhà nước. Năm 1996, Chính phủ đã phê duyệt “ Chương trình xóa đói, giảm nghèo ” đây là một chương trình chính sách dựa trên khuôn khổ chính sách chung nhằm nâng cao tác động của các chương trình định hướng xóa đói, giảm nghèo. Dự kiến tổng nguồn vốn cho các chương trình này trong năm 1996 – 2000 là 11.000 tỷ đồng, bao gồm các chương trình như: tạo việc làm, phát triển hạ tầng, hỗ trợ đầu tư đào tạo, hỗ trợ viện phí, dạy nghề và chuyển giao công nghệ và quỹ hỗ trợ khi đói, giáp hạt và thiên tai. Trong những năm vừa qua, nguồn vốn hỗ trợ được thực hiện qua các kênh chủ yếu sau: Trước hết là : “ Chương trình định canh, định cư” chương trình này đã được triển khai từ năm 1991, qua hơn 10 năm thực hiện chương trình đã đạt được kết quả đáng kể như: Bảo vệ rừng được 283.900ha, trồng rừng 28.171ha, khoanh nuôi tái sinh rừng 44.900ha, trồng 36.986ha cây công nghiệp, đặc sản, dược liệu, cây ăn quả, đầu tư chương trình phúc lợi tập trung cho các cụm dân cư, cụm xã, hình thành các trung tâm trao đổi hàng hóa, khoa học kỹ thuật, tạo điểm dân cư mới tiến bộ hơn. Mục tiêu của chương trình này trong cả giai đoạn 1991- 2000 là định canh, định cư cho 31.550 hộ dân, thực hiện 1.265 dự án với tổng vốn 1.560 tỷ đồng. Thứ hai, hỗ trợ giải quyết việc làm thực hiện thông qua Kho bạc Nhà nước. Ngày 11/04/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Nghị quyết 120/HĐBT về phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm cho các năm tới, thực chất, đây là chương trình tín dụng cho nông dân, cho các dự án hiệu quả nhằm thu hút được nhiều lao động. Thực tiễn hoạt động trong những năm qua cho thấy, tiếp cận của tín dụng tạo việc làm tuy không hoàn toàn trực tiếp đến người nghèo, song hiệu quả tổng thể của chương trình đã đóng góp vào xóa đói, giảm nghèo một cách đáng kể Thứ ba, chương trình “ Phủ xanh đất trống dồi núi trọc”, mục tiêu của chương trình là trồng rừng, phục hồi rừng, nâng độ che phủ, theo hai phương thức: cấp phát và cho vay không phải trả lãi. qua 6 năm thực hiện (1993 - 1996), chương trình đã đạt được những kết quả tốt nhất định về tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện môi trường, môi sinh. Đến cuối năm 1998, Kho bạc Nhà nước đã cấp vốn cho trên 1.300 dự án với tổng nguồn vốn cấp ra là 2.627.41 tỷ đồng, trong đó lâm sinh 1.627,41 tỷ đồng, hạ tầng 565,511 tỷ đồng và chi cho sự nghiệp 246,648 tỷ đồng. Hiện nay chương trình đã kết thúc nhưng thay thế nó là “Dự án trồng 5 triệu ha rừn” vói nhu cầu vốn đầu tư là 31.000 tỷ đồng Các khoản trên từ Ngân sách Nhà nước, tuy không phải hoàn toàn hỗ trợ trực tiếp người nghèo nhưng có tác động tích cực đến sản xuất và đời sống của bộ phận dân cư này. Hỗ trợ vốn từ các tổ chức tín dụng nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đóng vai trò chủ đạo hoạt động tín dụng phục vụ hộ sản xuất trong những năm qua là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. ngân hàng này đã xác lập thị trường kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; bảo đảm cung cấp khối lượng vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, hoạt động tín dụng đầu tư phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn có gần 2000 chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố, huyện thị xã, chi nhánh ngân hàng lưu động nông thôn. nhờ vậy, ngân hàng và phát triển nông thôn đã tiếp được gần 100% trong 12000 xã ở Việt Nam. Từ năm 1991 đến đầu năm 2005 đã có trên 55 triệu hộ sản xuất trong đó chủ yếu là hộ nông dân được vay vốn, với doanh số trên 380.000 tỷ đồng, bình quân khoảng 3,5 triệu lượt hộ sản xuất được vay vốn mõi năm; dư nợ cho vay hộ sản xuất đến 31/5/2005 ước đạt gần 100.000 tỷ đồng, số hộ hiện tại có quan hệ tín dụng với ngân hàng gần 6,2 triệu( chưa kể trên triệu hộ nông dân nghèo vay vốn ngân hàng chính sách xã hội) chiếm gần 52% số hộ nông dân của toàn quooc. Cho vay vốn tới hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có tốc độ nhanh đặc biệt từ sau Quyết định 67/1999/QĐ - TTg. Diện cho vay được mở rộng khắp các vùng kinh tế của đất nước, trỏ thành hoạt động tín dụng chủ yếu của các chi nhánh khu vực nông thôn. Ngày 28/6/1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) có Quyết định số 202/HĐBT, theo đó Ngân hàng thực hiện cho vay hộ sản xuất, kinh doanh thiếu vốn. Để tạo điều kiện cho hộ nông dân nghèo vay Ngân hàng đã áp dụng cho vay không thế chấp tài sản. trên cơ sở tính toán hiệu quả để cho vay, Ngân hàng đã vận động, hướng dẫn cho họ thành lập các tổ liên đới trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện và Ngân hàng cho vay thông qua tổ chức này. Đến ngày 31/12/1995, đã có trên 15 vạn tổ liên đới trách nhiệm được thành lập với trên 1,5 triệu thành viên và doanh số cho vay hộ nông dân nghèo đạt 13.000 tỷ đồng ngoài ra Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn còn chuyển các khoản tiền cho các tổ chức xã hội để các tổ chức này cho các hội viên vay. Sau năm hoạt động, Ngân hàng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho hộ nông dân nhằm mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Sau đây, ta có bảng diễn biến cho vay hộ sản xuất của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 1999-2004 chỉ tiêu 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng dư nợ ( tỷ đồng) 32.211 43.941 60.030 81.357 117.873 142.287 Riêng dư nợ cho vay hộ sản xuất 18.869 24.827 37.818 54.760 79.847 87.965 Tỷ trọng dư nợ cho vay hộ trongg tổng dư nợ (%) 58,58 56,50 63,0 67,31 67,74 Số hộ dư nợ ( hộ) Dư nợ BQ/1 hộ ( (triệu đồng/hộ Ngân hàng phục vụ người nghèo Ngân hàng phục vụ người nghèo là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích nhằm thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo. Hiện nay, hệ thống ngân hàng phục vụ người nghèo đã có nhiều chi nhánh cấp huyện, kết hợp với mô hình ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để hoạt động cho vay vốn đối với hộ nghèo, chủ yếu là cho vay hộ nghèo ở nông thôn. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta trong mấy năm qua, nghiên cứu kinh nghiệm về hỗ trợ vốn cho người nghèo ở một số nước có hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam; kết hợp với những đặc điểm của người nghèo ở nước ta ngày 31/8/1995 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 525/TTg về việc thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. Theo quyết định này thì Ngân hàng phục vụ người nghèo là tổ chức tín dụng của Nhà nước hoạt động vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, không vì lợi nhuận, thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ nghèo có sức lao động, nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát triển sản xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định. Ngân hàng phục vụ người nghèo đã và đang hoạt động có hiệu quả và chiếm được lòng tin của dân chúng, nhất là người nông dân ở nông thôn. tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế là tỷ lệ này còn quá thấp (chiếm 13,1% trong tổng nguồn vốn của Nhà nước ). Sở dĩ như vậy là vì huy động vốn phải được thực hiện trên cơ sở mặt bằng lãi suất huy động của các Ngân hàng thương mại trên thị trường tự do. Do tác động của cạnh tranh, các Ngân hàng thương mại đang giảm chi phí để nâng cao lãi suất, Ngân hàng phục vụ người nghèo huy đông với mức lãi suất huy động thấp hơn thì không thể huy động., các hình thức động viên đóng góp trên tinh thần tương thân tương ái vị người nghèo cũng chỉ được nguồn vốn nhỏ nên nguồn lực này còn rất hạn chế. Tính đến nay, Ngân hàng dã giúp 256000 hộ thoát khỏi nghèo đòi. Về thời hạn cho vay, Ngân hàng cho vay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại cây trồng nhưng không qua 3 năm; mức cho vay cũng tùy thuộc vào quy mô của từng dự án, từng đối tượng vay, nhưng tối đa không quá không quá 2,5 triệu/ hộ, không quy địn mức vay tối thiểu.về lãi suất từ sau 1/10/1996 tới nay là 0,5%/ tháng; đây là mức lãi suất thấp nhất trong thị trường tín dụng nông thôn. do nguồn vốn có hạn, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã ưu tiên tập trung vốn cho các vùng nghèo như : vùng miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, Vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người như: Lai Châu, Hà Giang, Kon Tum, Cao bằng… mặc dù được ưu tiên về vốn nhưng rất khó giải ngân do hộ nghèo không vay vì hầu hết đồng bào các vùng này không biết sử dụng vốn để làm gì. Điều này càng khẳng định sự đồng bộ trong công tác xóa đói, giảm nghèo là rất quan trọng. Quỹ tín dụng và ngân hàng cổ phầncác Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, mô hình Quỹ tín dụng nhân dân tính đến ngày 31/12,1998 đã xây dựng được 977 quỹ tín dụng nhân dân tại 53/61 tỉnh, thành phố trong cả nước, thu hút được 641.701 thành viên tham gia. Tổng nguồn vốn đạt được 1.189.118 triệu đồng, dư nợ là 1.613.296 triệu đồng, tạo công ăn việc làm cho gần 560.00 hộ dân để mở mang phát triển ngành nghề mới. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân 3 cấp đã ra đời và góp phần tích cực vào phát triển nền kinh tế – xã hội nông thôn. Hệ thống này huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và cho vay trực tiếp các thành viên góp phần xóa đói, giảm nghèo, hạn chế cho vay nặng lãi ỏ nông thôn. Nhiều vùng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long, trước đây chưa có Quỹ tín dụng nhân dân tình trạng cho vay nặng lãi phát triển với lãi suất 10 – 15 % đến nay đã giảm hẳn. Đây là một kết quả lớn tác động đến chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ. Hệ thống này đã khơi dậy nguồn tiềm năng ở địa phương, nhiều ngành nghề được phát triển, đặc biệt một sô nghề truyền thống được phục hồi và đã huy động được lực lượng lao động trong lúc nông nhàn và cũng chính hệ thống này đã tạo nguồn vốn đầu tư cho vay tại chỗ thúc đẩy phát triển sản xuất trên địa bàn. ỏ nhiều địa phương số hộ đói nghèo giảm đáng kể, số hộ có thu nhập cao tăng, các thành viên đã có điều kiện để tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn bộc lộ những nhược điểm như: Quỹ tín dụng nhân dân ở cơ sở thoát ly khỏi hoạt động hệ hống Ngân hàng chính thống, do vậy không thể linh hoạt xử lý các trường hợp thừ, thiếu vốn của các quỹ. Thêm vào đó, năng lực quản lý của Hội đồng quản trị các quỹ cơ sở, cán bộ làm công tác của quỹ yếu, hệ thống kiểm soát còn bất cập nên ảnh hưởng tới việc mở rộng quỹ, khối lượng vốn còn ít. Hơn nữa, nhiều người đói nghèo khó có điều kiện trở thành thành viên của Quỹ tín dụng vì mức đóng góp cổ phần, lãi suất cho vay từ quỹ cao và phải thế chấp nên hộ đói nghèo khó tiếp cận. Bên cạnh hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân là hệ thống các ngân hàng cổ phần nông thôn, đây là một tổ chức tài chính thành lập trên cơ sở góp vốn của các hộ gia đình nông dân khá giả ở nông thôn. hoạt động chủ yếu của tổ chức nay là nó không chỉ huy động vốn ở khu vực nông thôn mà còn cả từ thành thi để đầu tư phát triển nông thôn, trong khi ỏ các quốc gia phát triển thì dòng chảy vốn ngược lại. cơ chế hoạt động của loại hình nay cũng rất linh hoạt, gần với dân và thuận tiện cho việc tiếp cận của nông dân, bao gồm cả người nghèo vốn có trình độ dân trí thấp rất khó tiếp cận với các tổ chức tài chính chính thức khác của Chính phủ, mặt khác dịch vụ thuận tiên và thích hợp với nhu cầu đa dạng của hộ nông dân. tuy nhiên, mặc dù tổng nguồn vốn hoạt động là 44.204 tỷ đồng và tổng vốn cho vay là 40.417 tỷ đồng nhưng tỷ lệ người nghèo cho vay còn thấp. Nguyên nhân là do chế độ lãi suất còn rất khác nhau, không theo sự kiểm soát của Nhà nước và lãi suất cho vay lại cao hơn hệ thống Ngân hàng quốc doanh. Một số hình thức khác. Trước hết phải kể đến vai trò của Quỹ hỗ trợ nông dân của Hôi nông dân Việt Nam. Quỹ này được Nhà nước cho phép thành lập theo văn bản số 4035/KTKT ngày 25/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ và đi vào hoạt động từ đầu năm 1996. Đây là hình thức tín dụng phi Chính phủ, thực hiện hỗ trợ nông dân về vốn, chuyển giao công nghệ – thông tin, tiêu thụ sản phẩm. Nguồn vốn của quỹ bao gồm sự ủng hộ cho vay với lãi suất thấp của nhân dân và đông bào cả nước, Việt kiều và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, Quỹ cón được sự ủng hộ của Nhà nước theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. mục tiêu của Quỹ là hỗ trợ vốn cho nông dân, trước hết là nông dân nghèo.Từ khi hoạt động đến nãy, theo thống kê chưa đầy đủ thì Quỹ đã có nguồn vốn là 90 tỷ, trong đó vay vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo là 40 tỷ đồng, nguồn vốn tự huy động là 50 tỷ đồng. Nhìn chung khả năng nguồn vốn để nông dân nghèo vay là không đáng kể, năng lực quản lý nghiệp vụ cho vay, huy động còn rất hạn chế. Thứ hai, các Quỹ tương trợ của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, nguồn vốn của Quỹ là từ các dự án quốc tế, của nhóm phụ nữ tiết kiệm, vay vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, vốn vay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, vốn góp ủng hộ của hội viên cũng như vốn tài trợ trong và ngoài nước. Ngoài ra còn một bộ phận nữa trong nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo, đó là các nguồn có nguồn gốc từ nước ngoài, từ các tổ chức như: Ngân hàng á châu, Ngân hàng Thế giới, chương trình lương thực thế giói, chương trình phát triển Liên hiệp quốc, tổ chức nông lương thề giới, thông qua các dự án như: dự án 80 triệu USD cho chương trình nông nghiệp, dự án khôi phục cơ sở hạ tâng nông thôn, chương trình phục hồi nông nghiệp… và các khoản viện trợ không hoàn lại của UNDP và EU, nguồn này tuy không lớn nhưng nó cũng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nghèo ở Việt Nam. Đánh giá hoạt động xóa đói, giảm nghèo trong những năm qua Kết quả hoạt động xóa đói giảm nghèo. Thứ nhất, vấn đề nhận thức về vai trò của công tác xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển kinh tế. cùng với truyền thông tương thân tương ái, quan điểm chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta đã tác động trực tiếp tới vấn đề này của nhân dân. chính vì thế mà công tác xóa đói, giảm nghèo đã từ một phong trào ở cở sở đã được nâng lên thành một chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo Thứ hai, trên cơ sở đó, các cơ quan đoàn thể xã hội, quần chúng nhân dân đã phối hợp, hợp tác triển khai nhiều chương trình, biện pháp mạnh mẽ, chúng ta đã áp dụng hai loại giải pháp: phát triển kinh tế tạo tiền đề xóa đói, giảm nghèo và giải pháp hỗ trợ cho người nghèo. Để thực hiện chúng, chúng ta sử dụng những giải pháp cụ thể như: cho người nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi hoặc cho mượn vốn, hướng dẫn cách làm ăn, hỗ trợ khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Thứ ba, tạo nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo từ các nguồn cơ bản như ngân sách địa phương, từ cộng đồng, từ các đoàn thể, các tổ chức xã hội, từ Ngân hàng, từ các nguồn hợp tác quốc tế. Thứ tư, cùng với việc xóa đói, giảm nghèo cho người dân, chúng ta cung đã điều chỉnh lại những quy chế thực hiện quản lý các chính sách xã hội ưu đãi, ưu tiên. Ngân hàng phục vụ người nghèo ra đời và hoạt động tốt giúp cho công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao. Vì vậy trong các năm qua tỷ lệ đói nghèo đã giảm khá nhanh, trung bình giảm hơn 2% Bảng: Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam qua các năm Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tỷ lệ hộ đói nghèo (%) 28,8 26,0 23,3 20,3 19,3 18,3 17,4 15,7 Tồn tại trong công tác đầu tư xóa đói giảm nghèo. Trong những năm qua, công tác xóa đói, giảm nghèo có những tồn tại sau: Công tác xóa đói, giảm nghèo chưa được tiến hành đồng đều ở các địa phương, nhiều nơi đã làm tốt nhưng có một số nơi còn làm theo hình thức, phong trào,chưa thấy hết vai trò và khả năn tự lực của mình, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Trung ương vẫn còn tồn tại. cho đến nay vẫn còn một số tỉnh chưa xóa đói, giảm nghèo được nguồn lực cho công tác này Công tác xóa đói, giảm nghèo những năm qua chưa được ưu tiên đúng mức, chưa tạo được điều kiên cho xóa đói, giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng căn cứ cách mạng… ở những nơi này, cơ sở hạ tầng còn quá yếu, hầu như chưa có, trình độ dân trí thấp, nên chưa thể tiến hành công tác xóa đói, giảm nghèo có kết quả; ở một số nỡi đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long một bộ phận dân cư còn chưa có tư liệu sản xuất( ruộng đất) Trong chỉ đạo thực hiện, chưa tạo được mô hình, một số mô hình đã có thì tổng kết, nhân rộng còn hạn chế. Đặc biệt là các mô hinh của chính người nghèo chưa được địa phương chú ý xóa đói, giảm nghèo, rút kinh nghiệm nhằm giúp cho người nghèo có được cơ hội tốt để tham gia vào nền kinh tế đang tăng trưởng Môi trường bền vững cho xóa đói, giảm nghèo đã tạo lập được bước đầu, nhưng vẫn chưa gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói, giảm nghèo, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội và các chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan tới xóa đói, giảm nghèo như đất đai, thuế nông nghiệp, bảo hộ nông dân. Những cơ sở pháp pháp lý cho công tác xóa đói, giảm nghèo cũng chưa được thiết lập một cách đồng bộ, còn thiếu nhiều văn bản pháp quy về quản lý Nhà nước và về tổ chức thực hiện, thanh tra đối với vấn đề này. Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho xóa đói giảm nghèo Hệ quan điểm chỉ đạo. Đầu tư cho xóa đói giảm nghèo gắn liền với phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị. Đói nghèo là biểu hiện trực tiếp ở nội dung kinh tế với các dạng khác nhau: thiếu đói, đói gay gắt, đói kinh niên, nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối. nét chung của tất cả các dạng nghèo đói là tình trạng dân cư không bảo đảm những nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển. Đói nghèo là một vấn đề kinh tế – xã hội, một hiện tượng xã hội nhức nhối nó vừa cản trở, vừa thách thức phát triển. Đói nghèo dẫn tới phát sinh các tệ nạn xã hội và có tính chất lây lan. Nó làm cho xã hội mất ổn định, chính điều này ảnh hưởng xấu tới chính trị, gây tác động và hiệu quả tiêu cực. Đặc biệt là phân hóa giai cấp, xung đột xã hội, có nguy cơ làm lệch định hướng xã hội chủ nghĩa và suy giảm nền tảng xã hội, chính trị. Điểm xuất phát của đói nghèo là kinh tế, nhưng nếu không giải quyết được đói nghèo thì vấn đề kinh tế có thể gây nên các phản ứng tiêu cực về xã hội và trở thành về chính trị. Thực tiễn và kinh nghiệm cho thấy muốn giải quyết một nhiệm vụ kinh tế – xã hội nào đều phải đảm bảo một tiền đề tiên quyết là giữ cho được ổn định chính trị. Không có ổn định chính trị, xã hội sẽ bị mất ổn định, trở nên rối loạn và mọi kế hoạch, mọi nhiệm vụ đổi mới đều khó thực hiện. Vì vậy, đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải tập trung ưu tiên cho các vùng đặc biệt khó khăn, cho các đối tượng trọng điểm, nhất là các diện ưu tiên, ưu đãi có công với nước. ở nông thôn, nông dân chiếm khoảng 80% dân số cả nước và trên 70% lao động xã hội. ở thành thị kinh tế tư bản tư nhân đang gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các thành phần này đang là các thế lực kinh tế. nếu xã hội không giải quyết tốt việc xóa đói, giảm nghèo để cho một bộ phận khá lớn dân cư sống trong nghèo khổ thì họ sẽ bị chi phối bởi các thế lực kinh tế đó, như vậy nó có xu hướng trở thành thế lực chính trị. Xu hướng này cần phải được ngăn chặn không để xảy ra. Đầu tư xóa đói giảm nghèo phải đảm bảo sự kết hợp, thống nhất kinh tế với xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Đầu tư xóa đói, giảm nghèo không thể có hiệu quả nếu giải quyết bằng quan điểm kinh tế thuần túy hoặc bằng quan điểm về mặt xã hội. Muốn trợ giúp người nghèo phát triển thì không thể cứ bao cấp sẵn cho họ để họ sống mà điều quan trọng là phải giúp vốn, giúp nghề, giúp kỹ thuật, phương tiện cho họ. Phải hướng dẫn họ, tập luyện cho họ, thậm chí giúp đỡ họ biết cách làm ăn, sản xuất. Đó chính là tác động của xã hội, nâng cao văn hóa, giáo dục đi liền với tác động kinh tế đối với người nghèo, hộ nghèo. Do vậy, đầu tư xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả thì phải quan tâm đến vấn đề xã hội, đó là giáo dục, tuyên truyền, kiểm tra, quản lý, hạn chế gia tăng dân số, đẩy lùi tệ nạn xã hội. xóa đói, giảm nghèo là sự quan tâm trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Đảng và Nhà nước ta có chiến lược phát triển kinh tế đến 2020. muốn cho đường lối đó đi vào cuộc sống, Nhà nước phải thể chế hóa nó, phải có rất nhiều đạo luật, quyết sách lao động, Ngân hàng cho người nghèo, quỹ xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia đầu tư xóa đói, giảm nghèo; đào tạo nghề và việc làm,… Đây là một nỗ lực rất lớn của Nhà nước, song điều đó cuangx chưa đủ, nếu không có xã hội hoa được phong trào xóa đói, giảm nghèo trong toàn dân. Phải huy động cả cộng đồng xã hội, kể cả nhân tài, vật lực của người Việt Nam ở nước ngoài vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Chỉ như vậy đầu tư xóa đói, giảm nghèo mới được ủng hộ, phối hợp hành động của cả dân tộc và mang lại kết quả cao. đầu tư xóa đói, giảm nghèo phải tạo cơ sở phát huy tính tự chủ tự vươn lên vượt qua đói nghèo, giảm nghèo của người nghèo Hiện nay, số hộ và số người đói nghèo còn ở tỷ lệ cao, đang là điều nhức nhối lương tâm của cả xã hội. đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo còn là nghĩa vụ, đạo đức của cả đầu tư, của mỗi con người Việt Nam. Do đó, giúp đỡ người nghèo, hộ nghèo là phải làm cho họ sớm hòa nhập vào cộng đồng một cách chủ động, tích cực. Làm cho hộ nghèo, người nghèo có niềm tin vào triển vọng cuộc sống, có điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để phát triển khả năng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0062.doc
Tài liệu liên quan