Đề tài Một số ý kiến đóng góp cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM . 1

1.1. Lịch sử hình thành ngành ngân hàng Việt Nam . . 1

1.2. Nhiệm vụ, chức năng của ngân hàng trong quá trình phát triển đất nước . 5

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN VN . . 5

1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTM VN . . 5

1.3 . Khái quát tình hình hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam năm qua . 6

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM

TRONG NHỮNG NĂM QUA . 11

2.1. Những thành tựu và tồn tại của ngành ngân hàng Việt Nam trước thời kỳ hội nhập

. . . . . 12

2.1.1. Những thành tựu đạt được . . . 12

2.1.2. Những tồn tại cần khắc phục . . . 13

2.2. Những cơ hội và thách thức trong thời gian tới . . 14

2.2.1. Những cơ hội . . . 14

2.2.2.Một số thách thức . . . 17

2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai . . 19

2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới . 19

2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước

ngoài . . . . 21

2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới . 22

2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân

hàng . . . . 23

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng . . 23

2.4.1. Nền kinh tế . . . . 23

2.4.2. Lãi suất . . . . 24

2

2.4.3. Thị trường chứng khoán . . . 25

2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng . . 27

2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? . . 28

2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng . 29

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA

NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM . . . 33

3.1. Lộ trình hội nhập của ngành ngân hàng Việt Nam . . 33

3.2. Xây dựng một hệ thống pháp luật cho sự phát triển ngành ngân hàng . 35

3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngành nhân hàng và chuẩn bị nhân lực cho

tương lai. . . . 38

3.4. Nâng cao vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ

. . . . . 39

3.5. Phân định một cách rõ ràng quyền lực của Ngân hàng nhà nước với Bộ tài chính

. . . . . 42

3.6. Phát triển thị trường liên ngân hàng Việt Nam. . 43

3.7. Xây dựng các công cụ phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng . . 46

3.8. Thiết lập các công cụ phòng ngừa rủi ro cho khách hàng . . 47

3.9. Những việc cần làm trong thời gian tới của ngành ngân hàng Việt Nam:. 47

KẾT LUẬN

pdf53 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1990 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến đóng góp cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt là trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, các hình thức tổ chức tín dụng khác cũng ngày càng đa dạng, như: các công ty tài chính, quỹ đầu tư, bảo hiểm và thị trường chứng khoán…Điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng phải cạnh tranh quyết liệt với các TCTD về thị phần huy động vốn lẫn cho vay. 2.3. Triển vọng phát triển của ngành trong tương lai: 2.3.1. Định hướng phát triển các ngân hàng trong thời gian tới - Các NHTMNN và các NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong hệ thống ngân hàng về quy mô hoạt động, năng lực tài chính, công nghệ, quản lý và hiệu quả kinh doanh. Các NHTMNN cùng với NHTMCP trong nước đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các TCTD nước ngoài và các TCTD phi ngân hàng khác góp phần bảo đảm sự phát triển hoàn chỉnh, an toàn và hiệu quả của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các NHTM Việt Nam với chất lượng dịch vụ cao và thương hiệu mạnh. - Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện các NHTM theo Đề án cơ cấu lại các NHTMNN và Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP, cụ thể: - Tăng cường năng lực thể chế (cơ cấu lại tổ chức và hoạt động): Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ trung ương đến chi nhánh. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị và ban điều hành. Bộ phận giúp việc Hội đồng quản trị ít nhất gồm có Ban Kiểm soát/Kiểm toán, Hội đồng/Ủy ban quản lý rủi ro. 23 Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài. Xúc tiến hiện diện thương mại của các NHTM VN tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm để cơ quan kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động độc lập và chuyên nghiệp. Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập, tập trung toàn hệ thống. Phát triển các hệ thống quản lý của NHTM phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và thực tiễn của các NHTM Việt Nam. - Tăng cường năng lực tài chính (Cơ cấu lại tài chính): Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính của các NHTM để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính (về quy mô và chất lượng). Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTMNN. Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các NHTM mua, bán, hợp nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn. - Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam. Về lâu dài, nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại một số ít NHTMNN được cổ phần hoá tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và yêu cầu quản lý, bảo đảm an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao nguyên tắc thương mại, kỷ luật thị trường trong hoạt động của các NHTM. - Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTMNN và các TCTD khác. Theo đó, các TCTD được thực sự tự chủ (về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ chức bộ máy, nhân sự), hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được hoạt động trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng. Quan hệ giữa NHNN với các TCTD không chỉ là quan hệ quản lý nhà nước mà còn là quan hệ kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường, minh bạch, xoá bỏ 24 bao cấp, đặc quyền, thiên vị và độc quyền kinh doanh. Xoá bỏ cơ chế đại diện chủ sở hữu của NHNN đối với các NHTMNN. NHNN đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động tiền tệ, ngân hàng thông qua việc ban hành các quy định, chính sách, điều tiết thị trường tiền tệ và tổ chức thực hiện giám sát an toàn cũng như việc chấp hành các quy định pháp luật trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng. 2.3.2. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài: Hội nhập là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có thời gian cần thiết cho sự chuyển đổi đồng thời phải thực hiện một cách đồng bộ việc cải cách cả tổ chức và hoạt động quản lý, cả tổ chức và hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng để có thể phát huy tối đa cơ hội và giảm thiểu những bất lợi trong tiến trình hội nhập. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và gia tăng các áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa do nới lỏng các hạn chế cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu, chất lượng tài sản có thấp. Nợ xấu của các ngân hàng còn lớn, trình độ quản lý ngân hàng còn yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn thấp. Hầu hết các ngân hàng còn thiếu chiến lược kinh doanh bền vững, chủ yếu tăng theo chiều rộng bằng tăng tài sản có, mở rộng tín dụng, không chú trọng nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời. Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng còn lạc hậu; các ngân hàng cũng chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu; kiểm tra, kiểm toán chưa hiệu quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng tuy khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Không chỉ hạn chế về dịch vụ, nhân lực, tài chính, các ngân hàng Việt Nam còn phải đối mặt với hàng loạt các thách thức khác như những rủi ro ngoại sinh từ thị trường tài chính khu vực và quốc tế; mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối... Từ thực tế trên có thể nói sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài là rất yếu. hiện tại thì cuộc cạnh tranh chỉ mới bắt đầu nhưng nếu các ngân hàng không đổi mới không chú trọng đầu tư vào công nghệ cũng như phát triển các dịch vụ ngân hàng thì thị 25 phần của các ngân hàng trong nước sẽ mất đi đáng kể theo các chuyên gia nước ngoài dự đoán thì hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) sẽ là một lĩnh vực phát triển với tốc độ nhanh trong bối cảnh tự do hóa hoạt động ngân hàng theo các cam kết với WTO và dự đoán trong vòng từ năm đến bảy năm nữa, ở Việt Nam sẽ chỉ còn một nửa số ngân hàng so với hiện nay. 2.3.3. Khả năng phát triển thị phần của ngành ngân hàng trong thời gian tới: Trong thời gian đến khối NH thương mại cổ phần sẽ bức phá và sẽ chiếm dần thị phần của khối quốc doanh. Hiện tại, thị phần ngân hàng đang tạm chia từ 56,9% của khối quốc doanh, 3,3% của ngân hàng phát triển và ngân hàng chính sách, 26,5% của khối thương mại cổ phần, 9,4% của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh, 3,9% thuộc về công ty tài chính, cho thuê tài chính và quỹ tín dụng nhân dân Đồ thị 2.2: Thị phần ngành ngân hàng. Nguồn: Tổng hợp các báo và tạp chí. Như vậy, khối NHTM nhà nước vẫn chiếm thị phần lớn trên thị trường huy động và cho vay vốn, cho dù tỷ trọng của khối này đã giảm xuống đáng kể (66,1% năm 2006 xuống 61,6% 6 tháng năm 2007) nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng lên ( 6 tháng đầu năm đạt 94.472 tỷ đồng). Trong khi đó, thị phần của khối NHTM cổ phần đã dần tăng lên từ 21,3% vào cuối năm 2006 lên 24,2% vào giữa năm 2007. Đây có thể coi là một thành công rất đáng ghi nhận của khối NHTM cổ phần vào thời điểm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng nói chung và khối NHTM cổ phần nói riêng. Chịu tác động chung của thị trường vốn là khối các tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng, vốn huy động và 26 đi vay của khối có sự sụt giảm về thị phần của toàn hệ thống các TCTD mặc dù về số tuyệt đối các tổ chức này vẫn tăng lên 14.130 tỷ đồng so với cuối năm 2006. 2.3.4. Khả năng tăng trưởng doanh thu và cắt giảm chi phí trong hoạt động của ngân hàng: Vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống NH thời kỳ này sẽ tạo ra tăng trưởng ở thời kỳ sau, ít nhất là 6 tháng. Như vậy trong các tháng cuối năm cũng như năm 2008 và các năm tới có thể khẳng định nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có tốc độ phát triển cao không chỉ dư vốn cho vay của hệ thống NH mà còn do tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán, khả năng huy động vốn để đáp ứng cho các kênh đầu tư khác: đầu tư trên TTCK, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập quỹ đầu tư và doanh nghiệp. 2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng: 2.4.1. Nền kinh tế: - Năm 2007, Việt Nam được đánh giá là con rồng kinh tế mới với bước tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua (8,5%), trở thành một trong những nền kinh tế năng động và hứa hẹn nhất châu Á. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như cơn sốt giá dầu, thiên tai, dịch bệnh nhưng thị trường tài chính Việt Nam tiếp tục có bước phát triển mạnh với tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu đạt xấp xỉ 40% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt 17% GDP. Bảng 2.3: GDP qua các thời kì: - Các NHTM mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức và giải pháp khác nhau như: mở rộng mang lưới các chi nhánh, phòng giao dịch trên phạm vi toàn quốc nhằm đảm bảo cho việc huy động vốn được thuận tiện hơn, dễ dàng hơn. Hiện đại hóa công nghệ gắn liền với tác phong giao dịch của nhân viên giao dịch thể hiện sự tôn trọng của ngân hàng với khách hàng cũng là một cách để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho các NHTM. Thêm vào đó việc các NHTM tạo cho khách hàng một sự lựa chọn linh hoạt trong việc gởi tiền đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng rất cần thiết và tạo cho khách hàng một sự thỏa mãng, anh toàn. Nếu các NHTM nâng cao năng lực của mình hơn nữa trong việc huy động tiền gởi thì khả năng thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn vì dù sao đi nữa ngân hàng vẫn là một kênh huy động tiền gởi tiết kiện truyền thồng và hầu như là an toàn tuyệt đối trong thị trường. 27 - Theo thống kê của một số tổ chức thì nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong 5 năm qua đạt tốc độ tăng khoảng 20-25%, gấp hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Cụ thể là trong năm 2000 vồn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm trước, năm 2001 tăng 25,5%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm 2004 tăng khoảng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. - Nguồn vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng trong năm qua vẫn tăng một phần do thu nhập của người dân nhìn chung tăng. Trong khi chứng khoán chỉ sôi động ở những thành phố lớn (chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) thì hệ thống mạng lưới các NHTM ngày càng được mở rộng. Ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng đã trở nên quen thuộc với mọi tầng lớp dân cư, từ thành thị đến nông thôn, miền núi… Mặt khác gửi tiền vào ngân hàng vẫn có sự đảm bảo chắc chắn hơn về độ an toàn vốn và cũng có mức sinh lời nhất định mà không phải mạo hiểm như đầu tư mua chứng khoán. - Nền kinh tế phát triển hoạt động đầu tư,sản xuất, thương mại xuất nhập khẩu,… phát triển mạnh sẽ có nhiều hoạt động giao dịch thanh toán tại ngân hàng. - Kinh tế phát triển thu nhập của người dân cao ổn định và nhu cầu tiêu dùng từ đó cũng được nâng cao dẫn đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới. 2.4.2. Lãi suất: - Lãi suất là một yếu tố chủ đạo ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Việc điều chỉnh lãi suất phù hợp để huy động vốn tốt nhất là một vấn đề nghệ thuật. hiện các ngân hàng đang chạy đua về lãi suất để thu hút khách hàng. Tuy có sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước nhưng các ngân hàng cạnh tranh nhau mạnh mẽ thông qua các hình thức khác như thương vàng, ô tô… - Tuy nhiên lãi suất cũng là một con dao hai lưỡi cho cá ngân hàng. Nếu chính sách về lãi suất mà ngân hàng đưa ra không phù hợp thì chính lãi suất sẽ làm cho ngân hàng lâm vào tình huống khó khăn. Khi một ngân hàng tăng lãi suất thì xét trong ngắn hạn có thể thu hút được lượng tiền gởi nhiều hơn. Nhưng cần phải xét lại nguyên nhân tăng lãi suất đó liệu có phải là do ngân hàng hoạt động thật sự hiệu quả đang có nhu cầu đầu tư vào một dự án lớn mà với mức lãi suất hiện thời không đảm bảo huy động đủ vốn hay do ngân hàng đang trong tình trạng bị thiếu hụt vốn đầu vào, mức độ tin cậy của ngân hàng không cao nên phải dùng công cụ giá để cạnh tranh với các ngân hàng khác. 28 - Cuộc chạy đua lãi suất trong thơi gian qua đã làm tăng lãi suất cho vay vốn thị trường, tức là làm tăng chi phí vốn vay của doanh nghiệp và người kinh doanh, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội… đẩy lạm phát tăng cao. - Lãi suất đầu vào của NHTM, tức lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu NHNN, nhưng lãi suất cho vay tăng chậm, khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Cả hai nhân tố đó làm cho lợi nhuận của NHTM ngày càng thấp, làm ảnh hưởng đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, uy tín của NHTM. - Việc NHNN yêu cầu các NHTM tăng dự trữ bắt buộc và mua 24.000 tỷ đồng trong những tháng đầu năm 2008 đã đưa các ngân hàng vào cuộc chạy đua lãi suất. Trong những ngày cuối tháng 2/2008 lãi suất huy động tiền gởi của các NHTM đã thay đổi liên tục và chỉ trong thời gian hết sức ngắn ngủi mức tăng lãi suất đã đạt được mức kỷ lục hơn 12%/ năm ở hầu hết các kỳ hạn tiền huy động. Việc các NHTM ồ ạt tăng lãi suất như vay đã làm cho luồn tiền di chuyển một cách nhanh chóng từ ngân hàng có lãi suất thấp sang ngân hàng có lãi suất cao. Do đó nguồn huy động của các ngân hàng không được ổn định trong khi các ngân hàng vẫn tiến hành cho vay bình thường. Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT. Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này. 2.4.3. Thị trường chứng khoán: - Hiện nay, hoạt động huy động vốn và cho vay đang chiếm khoảng 60%, cá biệt lên tới 90%, tỷ trọng lợi nhuận của các NHTM. Con số này đang đứng trước sự chia sẻ lớn từ sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán. 29 - Khi TTCK phát triển một cách mạnh mẽ và trở nên đại chúng những năm vừa qua, việc đầu tư và kinh doanh chứng khoán không cón bó hẹp ở những đối tượng có thu nhập cao nữa mà nó đã lan rộng ra khắp các tầng lớp dân cư từ những người nội trợ đến những người buôn bán nhỏ lẻ với một số vốn góp tích lũy cũng có thể tham gia. - Với đặc điểm là những khoản lợi nhuận thu về từ kinh doanh chứng khoán nhanh hơn và có thể nhiều hơn so với tiền gởi tiết kiệm ngân hàng thì việc các ngân hàng phải chia sẻ thị phần cho TTCK là điều tất nhiên. - Việc dòng vốn nhàn rỗi trong dân đang ngày càng đổ dồn vào thị trường chứng khoán, thay thế thói quen gửi tiết kiệm tại ngân hàng, đặt ngành này trước sức ép cạnh tranh mới. - Các doanh nghiệp lâu nay chỉ quen đến ngân hàng vay vốn, nay có thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn khá hữu hiệu là phát hành cổ phiếu qua thị trường chứng khoán”. Vì vậy, “sức hút của thị trường chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân đang gây một ảnh hưởng không nhỏ đối với thị trường nguồn ngắn hạn và cả trung-dài hạn tại các ngân hàng. T R Trong năm qua hầu hết các nhà lãnh đạo của các ngân hàng đều thừa nhận rằng tính đại chúng và sự hấp dẫn của TTCK đã làm cho việc huy động vốn của các ngânhàng đang bị chậm lại. Nhưng TTCK cũng đem lại lợi ích cho NH chính các công ty chứng khoán, nơi mà khách hàng mở tài khoản cũng là khách hàng của các ngân hàng. Do đó mặc dù một phần phải chia sẻ thị phần cho TTCK, một mặt các ngân hàng thu hút vốn trong dân cư lại thông qua các công ty chứng khoán. 30 - Nhiều khách hàng kê khai vay vốn ngân hàng để kinh doanh nhưng thực tế là để đổ vào chứng khoán. Điều này gây khó khăn cho việc đánh giá những tác nhân vĩ mô tới hoạt động tài chính ngân hàng và đặt hệ thống này trước những tác động bất lợi khi thị trường chứng khoán gặp rủi ro. 2.5. Đánh giá về cổ phiếu ngành ngân hàng. Cổ phiếu ngân hàng - được mệnh danh là “cổ phiếu vua" đang thoái vị, mặc dù ngành ngân hàng trong năm 2007 rất sôi động và đạt được những thành tựu lớn nhưng hiện tại cổ phiếu ngân hàng vân kém hấp dẫn với các nhà đầu tư song song với việc giảm giá, việc phát hành thêm cổ phiếu thưởng cho cổ đông để tăng vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần nhưng tính thanh khoản đang suy yếu từng ngày. Giá cổ phiếu nhiều ngân hàng đang mất dần tính thanh khoản những ngày gần đây, cho dù có nhiều thông tin tích cực hỗ trợ. Hiện các nhà đầu tư chưa thể phân tích một cách đầy đủ những lợi hại đối với từng NH, nhưng tâm lý chung là e ngại lợi nhuận trong năm nay sẽ giảm. Giá cổ phiếu DongA Bank còn 42.000-43.000 đồng/CP, giảm hơn 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Thê thảm hơn, cổ phiếu của một số ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như: ABBANK, VietA Bank, Southern Bank, OCB… tính thanh khoản luôn trong trạng thái suy yếu dần. Bảng 2.4: Giá cổ phiếu của một số ngân hàng. Có thể nói, giá cổ phiếu ngân hàng đang có nhiều thông tin tốt hỗ trợ, nhưng vẫn khó hút được sự quan tâm của nhà đầu tư. Năm 2008 được xem là năm thực sự khó khăn của ngành ngân hàng. Thực tế là nhiều ngân hàng bắt đầu điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận so với dự kiến đưa ra đầu năm (Cụ thể, Sacombank đưa ra mục tiêu đạt 2.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế năm 2008, thay vì 2.500 tỷ đồng như dự kiến ban đầu. Eximbank cũng cho hay, nếu tình hình khó khăn trên thị trường 31 tiền tệ kéo dài thì mục tiêu đạt 1.500 tỷ đồng lợi nhuận năm nay (tăng gấp đôi 2007) cũng rất cam go. ABBank đã tính đến việc điều chỉnh lợi nhuận năm 2008 từ 555 tỷ đồng xuống còn khoảng 500 tỷ đồng…). 2.5.1. Vì sao cổ phiếu ngân hàng kém hấp dẫn nhà đầu tư? Vì sao nhà đầu tư quay lưng với cổ phiếu ngân hàng? Phải chăng cổ phiếu ngân hàng đã tăng quá cao so với giá trị thực và bây giờ buộc phải điều chỉnh để giá và giá trị thực cân bằng? Hay sau các đợt tăng vốn rầm rộ, cổ phiếu ngân hàng đã bị pha loãng hết mức? Liệu có một sự vô lý nào không khi các ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, vẫn trả cổ tức trên 20%/năm, có ngân hàng tới 30- 40%/năm mà giá cổ phiếu lại không bằng những công ty “thường thường bậc trung” trên sàn niêm yết?. Sự thiếu vắng yếu tố nước ngoài trong giao dịch cổ phiếu ngân hàng. Cả hai ngân hàng đã lên sàn là ACB và Sacombank đều đã đầy “room” 30%. Vì thế cho dù cổ phiếu ngân hàng hấp dẫn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể len chân. Với những ngân hàng chưa niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài cá nhân cũng không thể mua như nhà đầu tư trong nước. Sở hữu một cổ phiếu ngân hàng, họ cũng phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Các tổ chức nước ngoài chỉ còn cách đàm phán, mua 10-15% cổ phần của mỗi ngân hàng. Mà đã thương lượng, là mất thời gian, công sức, phải hỗ trợ kỹ thuật, chưa kể các đối tác phải hợp “gu” nhau. Hàng loạt các cuộc đàm phán mua bán cổ phần ngân hàng không thành công mới đây là thí dụ. Sức ép của “cơn bão” thắt chặt tiền tệ. “Cho dù có nỗ lực đến đâu thì trước mắt, hoạt động của ngành NH năm 2008 sẽ không thuận lợi như năm 2007. Lợi nhuận sẽ bị “teo” đi. chính sách của Nhà nước đã làm cho các NH bất ngờ, nó đã làm ảnh hưởng không chỉ cho thị trường chứng khoán mà cho cả ngành NH. Chỉ số lạm phát tăng cao, đồng tiền VND tăng giá cũng làm giảm độ hứng khởi của nhà đầu tư với cổ phiếu ngân hàng. Một điều quan trọng nữa là tâm lý của nhà đầu tư bây giờ đã thay đổi. Chơi chứng khoán không còn thắng lớn như trước nữa mà thua nhiều hơn khi thị trường chứng khoán liên tục giảm mạnh. Chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng nhà nước khi rút bớt tiền khỏi lưu thông chống lạm phát đã hé mở được những yếu kém của một số ngân hàng. Vì vậy, nhiều nhà đầu tư đã giảm niềm tin đối với nhóm cổ phiếu này. Ngân hàng thường xuyên phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ theo lộ trình. Mỗi khi phát hành thêm cổ phiếu ngân hàng lại sẽ thường xuyên bị pha loãng làm cho giá cổ phiếu giảm. 32 Đồng thời, cổ phiếu ngân hàng hiện đang có độ trơ rất lớn đối với thông tin bán cổ phần cho nước ngoài. Trước đây chỉ cần có tin Ngân hàng A sắp bán cổ phiếu cho nước ngoài là giá tăng chóng mặt, còn bây giờ ngược lại. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng, đặc biệt là các NHTMCP trong thời gian qua. mạng lưới hoạt động cũng đã làm chóng mặt khách hàng, hàng loạt các chi nhánh, phòng giao dịch trên khắp tỉnh thành cả nước nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu giao dịch của tất cả đối tượng khách hàng. Các ngân hàng luôn phải chịu sự kiểm tra giám sát rất khắt khe của NHNN nên không thể vượt rào trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Ngân hàng càng tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, lại càng bất ổn định. Vì chính họ cũng không thể tìm được cho mình nguồn khách đầu tư an toàn dẫn đến tình trạng cổ phiếu được thổi phồng lên như bong bóng rồi lại xẹp xuống tức thì. Thị trường đã nhận ra một số NH không có khả năng sử dụng vốn một cách hiệu quả. Các chỉ số tài chính như P/E, PEG, ROE... đều không hấp dẫn. Các NH này không hề có khả năng gầy dựng nghiệp vụ NH chính thống, lượng vốn huy động được từ cổ đông, NH lại đem dùng vào việc...gửi tiết kiệm ở các NH khác hoặc cho các cổ đông “đại gia” của mình vay. 2.5.2. Một số lưu ý khi đầu tư vào cổ phiếu ngành ngân hàng:: Vốn tự có lớn (Strong capital base). Vốn tự có lớn là một con số cần được đưa ra xem xét trước khi đầu tư vào môt ngân hàng. Các nhà đầu tư có thể quan sát một vài thước đo. Đầu tiên, đơn giản nhất là tỉ số vốn cổ phần trên tài sản (equity-to- assets ratio), tỉ số này càng cao thì ngân hàng đó càng tốt. Thật khó khăn để có một quy tắc vận dụng chung bởi vì mức vốn biến đổi theo mỗi trường hợp tuỳ thuộc vào một số yếu tố chẳng hạn như rủi ro của khoản vay đó, nhưng hầu hết các ngân hàng lớn mà chúng tôi phân tích đều có các tỉ số về vốn trong khung từ 8% đến 9%. (định mức do Morningstar cung cấp). Tất cả các thước đo này được tìm thấy trong báo cáo tài chính của các ngân hàng, và nhà đầu tư nên so sánh chúng với trung bình của ngành, cũng như với các ngân hàng khác để tìm ra đâu là ngân hàng thành công. ROE (return on Equity) và ROA (return on assets). Các thước đo này là các tiêu chuẩn phổ biến nhưng không chính thức (de facto standard) . Nói chung các nhà đầu tư nên quan sát những ngân hàng mà tạo ra ROE từ trung bình cho đến cao. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cũng nên quan tâm đến các ngân hàng kiếm được một mức ROE không 33 chỉ là quá thấp so với mức chuẩn của ngành này, mà còn quá cao so với ngành. Tỉ số ROE trong khoảng từ 15%-20% là cao, từ 30% trở lên là rất cao. Một điều mà nhà đầu tư cần phải hiểu được rằng, nhiều ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và có ROE vào khoảng 30% hoặc thậm chí là cao hơn chỉ bởi vì dự phòng quá ít cho sự thua lỗ các khoản vay. Hay một n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Tài liệu liên quan