Đề tài Một số ý kiến hoàn thiện công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm

 Bất cứ một doanh nghiệp nào khi bước vào thương trường đều phải cố gắng mọi cách để đạt được mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận . Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải giám sát chặt chẽ qua trình chi tiêu vật tư , tài sản , tiền vốn một cách có hiệu quả trên cơ sở tổ chức ngày càng hợp lý hơn qúa trình tổ chức hạch toán chi phí sản xuất phát sinh. Từ đó cung cấp đầy đủ các thông tin cho nhà quản ký , kịp thời đề ra các quyết định quản lý tối ưu nhất . Vấn đề hoàn thiện tổ chức sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp nói chung và công ty cầu 7 nói riêng đều tập chung giải quyết các nội dung cơ bản sau :

- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất , lựa chọn phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ chi phí sản xuất một cách thích hợp với đặc điểm của từng doanh nghiệp và tổ chức thực hiện tốt tập hợp chi phí sản xuất .

- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp .Tổ chức thực hiện tốt việc tính giá thành sản phẩm .

- Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp . Quy trình , trình tự công việc , phân bổ chi phí cho từng đối tượng , từng sản phẩm .

 

doc94 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến hoàn thiện công tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều quan trọng khi tiêu thụ sản phẩm. Trong xây lắp giá cả dùng để thanh toán giữa nhà thầu và chủ đầu tư là giá dự toán của công trình hoặc giá thoả thuận trong hợp đồng giao nhận thầu được ký giữa hai bên. 6.2.Đặc điểm của sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp : Đặc điểm sản xuất của một ngành luôn luôn bị phụ thuộc rất lớn vào loại sản phẩm mà nó tạo ra và loại công nghệ được dùng để sản xuất. Chính vì vậy mà người ta có thể nhận biết được đặc điểm của sản phẩm xây lắp xây dựng từ những đặc điểm của sản phẩm xây lắp. 6.2.1. Tính ổn định trong sản xuất là một đặc điểm đầu tiên trong ngành xây lắp Điều kiện sản xuất của một doanh nghiệp xây lắp luôn luôn thay đổi theo từng công trình và giai đoạn thi công. Cùng một thời gian trong một doanh nghiệp phải thích ứng với nhiều điều kiện sản xuất khác nhau tương ứng với các công trình thi công. Do tính cố định của sản phẩm xây lắp về mặt không gian cho nên khi tiến hành sản xuất thì các yếu tố con người, công cụ lao động và đối tượng lao động phải được tập kết đến tận chân công trình. Bên cạnh đó các phương án sản xuất và tổ chức sản xuất cũng luôn phải thay đổi theo từng công trình sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa chất, thuỷ văn, kinh tế – xã hội nơi mà công trình được thi công. Chính vì đặc điểm này mà công tác lập kế hoạch sản xuất trong xây dựng cơ bản là rất phức tạp, gây khó khăn cho việc cải tiến điều kiện lao động, làm phát sinh nhiều chi phí cho việc di chuyển và tập kết lực lượng sản xuất cho công trường. Xuất phát từ đặc điểm này mà công tác lập kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp xây lắp cần linh hoạt, gọn nhẹ, dễ di chuyển, giảm tối thiểu chi phí vận chuyển và tận dụng tối đa các nguồn lực có thể sử dụng tại địa phương nơi thi công công trình. Do đó trong xây dựng người ta có thể kết hợp sản xuất với tận dụng thời gian dỗi của máy móc để cho thuê, tránh lãng phí, nâng cao hiệu quả, . . . 6.2. 2. Hoạt động xây lắp có thời gian kéo dài lâu cho vòng quay của vốn đầu tư cũng dài theo do đó vốn ứ đọng là điều nan giải hiện nay trong ngành xây dựng thường là bị chủ đầu tư chiếm dụng. Yếu tố khí hậu, thời tiết rất thất thường ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ thi công công trình và uy tín của nhà thầu xây lắp. Đó là các rủi ro bất khả kháng mà người làm kế hoạch thi công cần phải hướng trước được. Để đối phó với những tác động của yếu tố môi trường thì việc lựa chọn biện pháp thi công thích hợp là vô cùng quan trọng. Không những thế cần thoả thuận cụ thể với chủ đầu tư để có thể được nghiệm thu, bàn giao, thanh toán khối lượng nhanh chóng . 6.2.3. Sản xuất xây lắp thường phải tiến hành theo các hợp đồng giao nhận thầu, đơn đặt hàng của chủ đầu tư đối với nhà thầu xây lắp. Do đó các công trình xây lắp thường có tính cá biệt cao, chi phí lớn. Sản phẩm xây lắp thường mang tính đơn chiếc ( ngay cả khi doanh nghiệp xây lắp tự xây dựng để bán ). Đặc điểm này đòi hỏi công tác xác định giá cả cho sản phẩm xây lắp rất quan trọng đặc biệt là giá thành thực tế . Vì giá thành thực tế càng nhỏ thì doanh nghiệp càng có lợi. 6.2.4. Hoạt động sản xuất xây lắp diễn ra trong những điều kiện khác nhau có khi bị hạn chế về mặt bằng thi công, nhiều đơn vị thi công trên một công trường. Với quy trình phức tạp như vậy thì mỗi bộ phận thực hiện thi công phải có được sự phối hợp nhịp nhàng tạo ra hiệu quả xây lắp cao cả về mặt kinh tế và thời gian. Xuất phát từ đặc điểm này mà công tác tổ chức điều hành sản xuất trong ngành xây lắp rất được coi trọng. Ngay từ khi lập hồ sơ dự thầu mỗi đơn vị thi công đã phải đưa ra được lời giải tối ưu về kế hoạch và tiến độ xây lắp cho cả chủ đầu tư và bản thân doanh nghiệp. Sau đó là sự phối hợp trong thi công giữa các nhà thầu của cùng một công trình và giữa nhà thầu chính và các nhà thầu phụ. 6.2.5. Sản phẩm xây lắp phải tiến hành ngoài trời nên điều kiện làm việc đối với người lao động là rất khắc nghiệt, yếu tố môi trường ảnh hưởng làm gián đoạn sản xuất và làm giảm năng lực thi công của các nhà thầu. Để tăng năng lực và khả năng sản xuất mỗi doanh nghiệp xây lắp đều phải tự tìm cho mình giải pháp thi công hạn chế tối đa công việc gia công kết cấu, vật liệu ngoài trời, coi trọng độ bền và khả năng thích nghi của máy móc với từng loại địa hình, thời tiết tại công trường. Bên cạnh đó nhân tố con người phải luôn được coi trọng trong ngành xây dựng. Công tác bảo hiểm an toàn lao động cho người lao động trên công trường phải luôn được đảm bảo. Ngày nay trong cơ chế thị trường mỗi doanh nghiệp đã và đang phải tính toán giữa rủi ro và chi phí bỏ ra để đề phòng rủi ro. Chính vì thế mà đầu tư nhằm nâng cao điều kiện lao động vì tai nạn lao động sẽ để lại hậu quả rất xấu cho hoạt động của doanh nghiệp. Nói tóm lại : Những đặc điểm trên đây của ngành xây lắp đều ảnh hướng rất lớn tới mọi giai đoạn sản xuất xây lắp, trong đó công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong doanh nghiệp xây lắp chịu ảnh hưởng rất lớn của những đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp. Cụ thể là công tác kế toán của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý , trong việc tập hợp chi phí sản xuất , gây ra căng thẳng cho nhân viên kế toán và dễ sảy ra nhầm lẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm xây lắp thường được thực hiện cách xa công ty đồng thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh lẻ tẻ rời rạc , thất thường không theo trình tự nhất định. 6.3. Khái niệm, phân loại chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp và ý nghĩa của công tác kế toán chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp : 6.3.1.Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất : 6.3.1.1.Khái niệm : Tại doanh nghiệp xây lắp sản xuất là quá trình biến đổi kết hợp một cách có ý thức , có mục đích các yếu tố đấu vào để tạo ra các hạng mục công trình hay các công trình. Các yếu tố đầu vào cho sản xuất không có cùng dạng biểu hiện cụ thể : Tư liệu sản xuất và đối tượng lao động là biểu hiện cụ thể của lao động vật hoá nhưng sức lao động dùng để biến đổi chúng lại là những hao phí về lao động sống. Vì vậy để đo lường kết quả của sự kết hợp các yếu tố đó qua từng thời kỳ hoạt động của một doanh nghiệp với mục đích cho quản trị hay cho nhu cầu thông tin bên ngoài. Người ta đã dùng thước đo tiền tệ để đo lường những hao phí đó và được gọi là chi phí sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của lao động sống và lao động vật hoá trong quá trình thi công và bàn giao sản phẩm xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Qua cách tiếp cận và xem xét khác nhau người ta có thể hiểu chi phí sản xuất của doanh nghiệp theo các cách khác nhau. Đối với kế toán : Chi phí sản xuất luôn phải gắn với kỳ sản xuất kinh doanh và phải là chi phí có thực. Để tiến hành sản xuất – kinh doanh phải có 3 yếu tố: Tư liệu lao động. Đối tượng lao động. Sức lao động của con người. Việc sử dụng các yếu tố nêu trên cũng đồng thời doanh nghiệp phải đưa ra những khoản chi phí sản xuất tương ứng. Ví dụ : Sử dụng lao động có chi phí tương ứng là tiền lương, sử dụng tài sản cố định có chi phí tương ứng là chi phí khấu hao tài sản cố định. Mặc dù chi phí sản xuất phát sinh liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp nhưng để phục vụ cho mục tiêu, chiến lược của bản thân doanh nghiệp và yêu cầu của đối tác kinh doanh, người ta cần phải tính toán, tập hợp chi phí sản xuất theo từng thời kỳ : Tháng, quý, năm. Tuy nhiên để tập hợp đúng, tính đủ, chính xác chi phí sản xuất thì chúng ta cần phải phân biệt rõ giữa chi tiêu và chi phí. Chi tiêu đơn thuần chỉ là sự hao phí vật chất tại một thời điểm mà kế toán phản ánh vào bên Có của tài sản được chi tiêu còn chi phí được ghi vào bên Nợ của tài khoản chi phí .Tài khoản chi phí liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất – kinh doanh mới được coi là chi phí sản xuất .Ví dụ: Chi phí về tiền lương công nhân, chi phí về khấu hao máy, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Những khoản chi không liên quan đến hoạt động sản xuất : Hoạt động quản lý, chi phí hao hụt ngoài định mức đều không nằm trong chi phí sản xuất. Chi phí bao gồm cả những khoản chi chưa thực sự chi nhưng được tính trước vào chi phí hàng ngày và cả những khoản chi kỳ trước chưa phân bổ hay chưa được tính vào chi phí. Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến sản phẩm hoàn thành trong kỳ mà còn liên quan đến sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp và đặc điểm của công tác xây lắp nên cuối kỳ : tháng, quý, năm thường có khối lượng sản phẩm dở dang. Do đó nếu công trình, hạng mục công trình đến cuối kỳ mà chưa được xác nhận khối lượng bàn giao thì mọi chi phí phát sinh trong kỳ đều phí của sản phẩm dở dang. Chỉ khi nào công trình, hạng mục công trình được bàn giao, chấp nhận thanh toán của chủ đầu tư thì khi đó chi phí sản xuất mới được chuyển thành giá thành sản phẩm. 6.3.1.2.Phân loại chi phí sản xuất : Trong sản xuất – kinh doanh mỗi loại chi phí phát sinh có nội dung, tính chất khác nhau và yêu cầu quản lý khác nhau. Do đó để lập kế hoạch sản xuất và hạch toán chính xác giá thành, khống chỉ và thống nhất chi phí trong doanh nghiệp để hoàn thiện giá thành sản phẩm thì người ta phải phân loại chi phí sản xuất từ đó tìm ra biến động trong mỗi loại chi phí và phát hiện ra các yếu tố tác động nhằm đề ra biện pháp quản lý có hiệu quả hơn. Sau đây là một số cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu: 6.3.1.2.1.Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung và tính chất kinh tế của chi phí : Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng nội dung kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu và mục đích tác dụng của chi phí như thế nào. Toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm : - Chi phí nguyên vật liệu : gồm toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động, là nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, thiết bị thay thế thiết bị xây dựng cơ bản. - Chi phí nhân công : Toàn bộ các khoản tiền công phải trả, tiền trích bảo hiểm xã hội,... của công nhân và nhân viên trong doanh nghiệp. - Chi phí khấu hao tài sản cố định : Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Chi phí dịch vụ mua ngoài : Bao gồm toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. - Chi phí khác bằng tiền : Là những chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí trên. - Theo cách phân loại này, nó cho biết kết cấu và tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh để lập thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch quỹ lương, ... tính toán nhu cầu vốn lưu động định mức cho kỳ sau. 6.3.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng chi phí : - Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí để chia ra các khoản mục chi phí khác nhau. Mỗi khoản mục chi phí đều có chung mục đích và công dụng không phân biệt nội dung kinh tế như thế nào. - Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm : - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Là toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, không tính vào khoản mục này những chi phí để chia ra các khoản mục chi phí khác như sản xuất chung vào các hoạt động ngoài sản xuất. - Chi phí nhân công trực tiếp : Là những khoản chi phí về tiền công của nhân viên trực tiếp sản xuất không tính vào khỏan mục này số tiền công và các khoản trích theo lương của nhân viên sản xuất chung và nhân viên quản lý, bán hàng. - Chi phí sản xuất chung : Là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, tổ, đội sản xuất. Ngoài hai khoản chi phí trực tiếp trên như: + Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng : Là tiền lương, phụ cấp các khoản trích theo lương của nhân viên thuộc phân xưởng,có liên quan trong phạm vi phân xưởng sản xuất chứ không tham gia trực tiếp sản xuất. + Chi phí nguyên vật liệu : Là những nguyên vật liệu dùng sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định ở phân xưởng những vật liệu dùng cho văn phòng và quản lý ở phân xưởng. + Chi phí dụng cụ : Những dụng cụ phục vụ cho nhu cầu sản xuất ở phân xưởng. + Chi phí khấu hao tài sản cố định : Phản ảnh số tiền trích khấu hao TSCĐ, TSCĐ thuê tài chính ở phân xưởng. + Chi phí dịch vụ mua ngoài : Những chi phí về lao vụ, dịch vụ mua từ bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như chi phí điện nước, chi phí về thuê ngoài máy móc, chi phí về sửa chữa máy móc,... + Chi phí khác bằng tiền : Là những chi phí khác ngoài những chi phí kể trên phục vụ cho nhu cầu trong phạm vi phân xưởng. Về cơ bản thì chi phí sản xuất phân loại theo phương pháp này trong các doanh nghiệp sản xuất là như nhau nhưng trong xây dựng cơ bản có nội dung cụ thể sau : - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Là những chi phí tính đến hiện trường xây lắp của nguyên vật liệu chính ( xi măng, sắt, thép,... ), nguyên vật liệu phụ ( bột đá, đinh, thép buộc, que hàn,... ), vật kết cấu, vật liệu điện ( dây ba pha, ổ cắm công tắc,... ), vật liệu nước ( ống nước, ống cống, cút,... ), vật liệu hoàn thiện ( cửa các loại, gạch ốp, gạch lát,... ). - Chi phí nhân công trực tiếp : Là những chi phí về tiền lương chính của công nhân trực tiếp tham gia xây dựng. - Chi phí máy thi công : Những chi phí về nguyên vật liệu sử dụng cho máy thi công, chi phí về tiền lương công nhân điều khiển máy và phụ máy, các khoản trích theo lương ( BHXH, BHYT,... ), và các khoản lương phụ khác, chi phí khấu hao máy thi công, chí phí một lần cho sử dụng máy thi công, chi phí sửa chữa máy thi công, chi phí thuê máy,... - Chi phí sản xuất chung ( hay chi phí trực tiếp khác ) là những khoản chi phí gắn liền với quá trình xây lắp nhưng không thuộc 3 khoản mục chi phí trên, cụ thể là : Tiền lương nhân viên quản lý ở tổ, đội, phân xưởng, các khoản trích theo lương của nhân viên trực tiếp sản xuất và của nhân viên quản lý, tiền lương phụ của công nhân trực tiếp sản xuất, các chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khấu hao TSCĐ,... Theo cách phân loại này, mỗi loại chi phí thể hiện những điều kiện khác nhau của chi phí sản xuất, thể hiện nơi phát sinh chi phí, đối tượng chịu phí, nó cũng tạo điều kiện để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố chi phí tới giá thành sản phẩm, phục vụ cho công tác kế hoạch hoá chi phí và tính giá thành sản phẩm cũng như là việc xác định các chi phí đã phát sinh cho từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực đó, cung cấp thông tin cho các nhà quản trị,... Trên đây là hai cách phân loại chi phí mà các cơ quan chức năng quản lý về tài chính của Việt Nam thừa nhận. Sự thừa nhận này được thể hiện qua nghị định 59/CP ngày 03/10/1996, nghị định 27/1999/NĐ - CP ngày 20/4/1999 và cụ thể hoá trong thông tư số 63/1999/TT – BTC ngày 07/6/1999 về hướng dẫn quản lý doanh thu, chi phí, giá thành sản phẩm, dịch vụ tại doanh nghiệp Nhà nước. 6.3.1.2.3.Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm : Đây là cách phân loại chi phí dựa trên mối quan hệ giữa quy mô của chi phí và khối lượng sản xuất. Qua phân tích người ta có thể phân chia chi phí thành 2 loại: - Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi khi quy mô, mức độ sản xuất thay đổi. - Chi phí cố định là chi phí không thay đổi khi quy mô, mức độ sản xuất thay đổi trong một giới hạn nhất định. ở đây ta có thể thấy chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp sẽ có tương quan tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ. Chi phí nhân viên quản lý đội, chi phí thuê nhà xưởng sẽ không thay đổi khi mà quy mô sản xuất thay đổi trong phạm vi mà các giáo viên quản lý hiện tại vẫn có thể đảm đương công việc và nhà xưởng vẫn đủ công suất đáp ứng cho chế tạo. Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa trong kế toán quản trị tạo cơ sở cho việc phân tích điều hoà vốn của từng sản phẩm hay của toàn doanh nghiệp phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh nhanh chóng, cần thiết cho hạ giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh. 6.3.1.2.4. Phân loại chi phí theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối quan hệ với đối tượng chịu phí : Theo cách phân loại này thì chi phí bao gồm : Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. - Chi phí trực tiếp là những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp tới việc sản xuất một công trình, một sản phẩm hay một công việc nhất định. Với loại chi phí này kế toán có thể căn cứ trực tiếp cho từng đối tượng chịu phí. - Chi phí gián tiếp là loại chi phí liên quan đến nhiều hoạt động sản xuất, nhiều sản phẩm. Những loại chi phí này sẽ được kế toán dùng tiêu thức phân bổ thích hợp để phân bố cho từng đối tượng chịu phí. Cách phân loại chi phí này trong doanh nghiệp xây lắp được thể hiện rất rõ như chi phí khấu hao máy thi công là một ví dụ. Một máy có thể phải sử dụng cho nhiều công trình do đó chỉ có thể tập hợp khấu hao máy của tất cả các công trình rồi lại tiến hành phân bổ cho từng công trình. Do vậy việc lựa chọn tiêu thức phân bổ số ca máy theo tỉ lệ chi phí nhân công, theo tỉ lệ nguyên vật liệu trực tiếp,... để phân bổ cho chính xác, hợp lý là rất cần thiết trong phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí. 6.3.2.Khái niệm giá thành : Trong sản xuất luôn có hai mặt : Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Mặt kết quả sẽ thể hiện mặt hao phí chung trong mối liên hệ với khối lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ tạo ra chỉ tiêu thành sản phẩm. Do đó giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan tới khối lượng sản phẩm, công việc,.. hoàn thành trong kỳ. Trong mọi lĩnh vực sản xuất – kinh doanh thì chức năng của giá thành là to lớn nó phản ánh, đo lường hiệu quả sản xuất – kinh doanh, nó giữ chức năng thông tin kiểm tra về chi phí cho nhà quản trị sản xuất và là cơ sở cho các nhà marketing hình thành giá bán của sản phẩm. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn quy ước hoàn thành nghiệm thu bàn giao được chấp nhận thanh toán. Khác với doanh nghiệp sản xuất khác, người ta có thể tính giá thành một loại sản phẩm được sản xuất ra trong kỳ và giá thành đơn vị của sản phẩm đó trở thành cơ sở quan trọng để xác định giá bán ở doanh nghiệp xây lắp, giá thành sản phẩm mang tính chất cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến có một giá thành riêng. Hơn nữa khi nhận thầu công trình thì giá nhận thầu đã được xác định trước khi thi công. Như vậy giá báo có trước giá thành thực tế của công trình. Do đó giá thành thực tế của công trình sẽ xác định lỗ, lãi của doanh nghiệp. Trong các cuộc đấu thầu công khai thì yếu tố giá thành có ý nghĩa quyết định thắng lợi của nhà thầu. Bên cạnh đó nếu doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành thấp bao nhiêu so với giá bỏ thầu thì lãi sẽ tăng lên từng đó. Tuy nhiên hiện nay cũng có một số doanh nghiệp xây lắp tự tổ chức thiết kế, thi công tạo ra các công trình sau đó báo cáo lại cho các đối tượng có nhu cầu mua thì giá thành sản phẩm xây lắp cũng trở thành cơ sở để lập và xây dựng giá bán của sản phẩm đó. 6.3.3.Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm : Ngày nay trong các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề khác nhau việc tính toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đã trở thành công việc quan trọng. Nó là một phần trong kế hoạch kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bởi vì chỉ tiêu chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thông tri cơ bản cho các bộ phận khác trong doanh nghiệp nghiên cứu phát triển, thị trường, tài chính, nhân sự,... có hướng đi đúng cho sản phẩm của mình. Các bộ phận đó có thể đánh giá, phân tích kế hoạch sản xuất, chất lượng, tính năng của sản phẩm và hiệu quả sử dụng tài sản, tiền vốn cho sản xuất từng loại sản phẩm là như thế nào. Trong ngành xây lắp : Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp giống nhau về chất nhưng khác nhau về lượng. Nội dung cơ bản của chúng ta là biểu hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Trong khi chi phí xây lắp là tổng thể các chi phí phát sinh trong một kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm xây lắp là tổng thể các chi phí gắn liền với một khối lượng xây lắp hoàn thành và bàn giao. Chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ mà nó còn liên quan đến những sản phẩm được coi là dở dang cuối kỳ, các sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm có liên quan tới cả chi phí phát sinh trong kỳ, chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ, chi phí của kỳ trước phân bổ cho kỳ này. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Để thực hiện tốt quá trình hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp đối với mỗi doanh nghiệp là yếu tố sống còn và đòi hỏi các bộ phận trong doanh nghiệp đều phải thực hiện tốt phần trách nhiệm của mình để không ngừng ngày càng hoàn thiện công tác này. 6.4. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp : 6.4.1.Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất : Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất hợp lý, phù hợp với từng doanh nghiệp, nhà quản lý phải căn cứ vào : - Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ cao. - Loại hình sản xuất. - Đặc điểm tổ chức sản xuất. - Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp. - Đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp. Hoạt động xây lắp là hoạt động phát sinh nhiều chi phí, quy trình sản xuất phức tạp và sản phẩm mang tính chất đơn chiếc, có quy mô lớn và thời gian thi công lâu dài. Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục công trình nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể được chi tiết theo từng hạng mục công trình. Ngoài ra tuỳ theo từng công việc cụ thể, người ta có thể tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng hay giai đoạn công việc hoàn thành. Do có nhiều đối tượng hạch toán chi phí sản xuất khác nhau nên trong doanh nghiệp xây lắp có nhiều phương pháp tập hợp chi phí. 6.4.1.1.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng : Chi phí sản xuất phát sinh hàng kỳ sẽ được tập hợp và phân loại theo từng đơn đặt hàng – hợp đồng giao thầu. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng chi phí phát sinh được tập hợp theo đơn hàng đó tới lúc khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn hàng đó. 6.4.1.2.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo hạng mục công trình hay công trình: Theo đó chi phí phát sinh cho công trình hay hạng mục công trình nào thì được tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó. 6.4.1.3.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công : Các chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp theo từng đơn vị thi công. Thông thường phương pháp này được áp dụng kết hợp với hai phương pháp trên. Vì một công trình, hạng mục công trình, đơn đặt hàng thường do nhiều đơn vị thi công. Đầu tiên, đơn vị sẽ tập hợp chi phí theo đơn vị thi công hay khu vực thi công. Khi công trình hoàn thành hay cuối kỳ hạch toán, người quản lý sẽ phân tích, đánh giá kết quả thi công của các đơn vị hay bộ phận đó và tính ra giá thành của cả công trình bằng phương pháp tổng cộng chi phí, phương pháp tỉ lệ, phương pháp trực tiếp,... 6.4.2.Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp : Để đo hướng hiệu quả hoạt động của mình, mỗi doanh nghiệp phải xác định đúng, đủ, chính xác giá thành sản phẩm. Công việc đầu tiên là xác định đúng đối tượng giá thành sản phẩm. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp lâu ra cần phải tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị. Với đặc điểm riêng của ngành xây lắp : Đối tượng tính giá thành thường trùng với đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Do vậy đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp có thể là : Từng hạng mục hay toàn bộ công trình hoàn thành. Đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp giống nhau về bản chất đều là phạm vi gới hạn tập hợp chi phí, cùng phục vụ cho công tác quản lý kế hoạch giá thành của doanh nghiệp. Tuy nhiên xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định phạm vi phát sinh chi phí trong khi thi công cần xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm gắn liền với kết quả của quá trình thi công. Một đối tượng tập hợp chi phí có thể có nhiều đối tượng tính giá thành. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp là phương pháp sử dụng số hiệu về chi phí sản xuất đã tập hợp để tính toán ra tổng giá thành và giá thành đơn vị của sản phẩm, lao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0646.doc