Đề tài Một số yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT ngoại thành Hà Nội

Có rất nhiều học sinh lựa chọn thi 2 khối A và B . Tỉ lệ đó là 36.8 % . Trong đó chỉ có 20.3 % lựa chọn thi khối A và 8 % lựa chọn thi khối B .Khối C là 1.2 % . Khối D là 12.8 % .Khối A và D là 16.4 % . Điều này chứng tỏ rằng , hiện nay đa số các học sinh có xu hướng lựa chọn thi 2 trường và thường thiên về khối A. Hiện nay các khối ngành B và C được rất it học sinh lựa chọn . Một điều dễ nhận thấy là những học sinh có xu hướng lựa chọn thi 2 khối bởi lẽ nếu thi 2 khối thì khả năng đỗ đại học của họ sẽ được nhân đôi , nhiều học sinh quyết định ôn cả 2 khối của bởi lý do này . Hơn nữa ví như học sinh học thi khối A thi thêm khối B thì việc ôn thi chỉ là dành thêm một chút thời gian để ôn thêm môn Sinh học vì 2 khối này đã chung nhau 2 môn : Toán và Hóa . Điều này cũng cho ta thấy rằng vì sao có số học sinh quyết định lựa chọn thi cả 2 khối A và B lại có tỉ lệ cao (36.8%)

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7190 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại như: khả năng tìm việc làm sau khi ra trường, thu nhập từ nghề đó mang lại… Nhìn chung việc chọn trường của học sinh THPT chưa quan tâm tới chất lượng đào tạo của trường. Tóm lại, định hướng nghề nghiệp là một trong những vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Những nghiên cứu trước đây thường chủ yếu tập trung đi tìm hiểu thực trạng việc làm của thanh niên, xu hướng lựa chọn ngành học, hay những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc chọn nghề của học sinh THPT. Những yếu tố tác động tới định hướng nghề nghiệp chỉ là một phần nhỏ trong các nghiên cứu ấy. Trong quá trình tìm và phân tích tài liệu, tác giả nhận thấy rằng có nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố bản thân học sinh và yếu tố gia đình học sinh là những yếu tố tác động chính tới việc định hướng nghề nghiệp của thanh niên, học sinh. Có nghiên cứu lại cho thấy hơn một nửa học sinh bị cha mẹ áp đặt trong việc định hướng nghề nghiệp. Có nghiên cứu lại cho rằng học sinh quyết định là chính. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả quyết định tìm hiểu sâu hơn về “Một số yếu tố tác động tới định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT ngoại thành Hà Nội – Qua khảo sát ở 2 trường THPT Ngoại thành Hà Nội”. Trong các yếu tố tác động đó, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu sự tác động của yếu tố thuộc về bản thân và gia đình học sinh. 2. CÁC LÝ THUYẾT SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI 2. 1. Lý thuyết cấu trúc chức năng của T.Parsons Theo Parsons , xã hội là một chỉnh thể , hệ thống bao gồm nhiều tiểu hệ thống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong hệ thống xã hội , hệ thống hành vi được coi là nền tảng , cơ sở mà nhờ đó con người có khả năng thích ứng với môi trường xung quanh Để giữ sự thống nhất của hệ thống xã hội và đảm cho sự tồn tại của hệ thống, Parsons cho rằng cần phải nhất thiết cú điều kiện và yêu cầu sau: Hệ thống phải kết nối được với môi trường một cách hiệu quả và hệ thống đó phải duy trỡ được sự liên kết bên trong; Thích nghi - thể hiện sự huy động nguồn lực từ môi trường và phân bố bên trong hệ thống Theo đuổi mục tiêu – đây là yêu cầu thiết lập thứ tự các mục tiêu của hệ thống và huy động nguồn lực của hệ thống để đạt mục tiêu; Liên kết - sự điều phối và duy trì mối liên kết qua lại của các bộ phận; Duy trì khuôn mẫu. Mỗi hệ thống xã hội có cách thức riêng để đáp ứng các yêu cầu chức năng trên, điều này được Parsons gọi là những đặc trưng có tính khuôn mẫu. Vận dụng lý thuyết này chúng tôi muốn tìm hiểu hành vi lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT trên những yếu tố tác động khác nhau : Gia đình , nhà trường , bạn bè, các yếu tố từ chính bản thân cá nhân của mỗi học sinh …… 2. 2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của R.Mead Con người trở nên người hơn qua việc họ tương tác với nhau. Các nhà tương tác luận biểu trưng cho rằng con người sở đắc những phẩm tính người rất riêng, và có thể có hành vi mang tính người rất riêng, chỉ qua việc họ liên đới với những người khác. Con người là những hữu thể có ý thức, biết tự-phản tư, và luôn chủ động định hướng hành vi của mình. Những năng lực quan trọng nhất mà con người phát triển qua việc họ dính líu với xã hội, hay sự tương tác xã hội, là “tâm thức” và “bản ngã”. Như Mead quan sát thấy, khi phát triển năng lực xem mình như là những đối tượng và phản ứng lại với mình cũng như là những đối tượng, các cá đang học cách tương tác với bản thân mình, hay học cách tư duy. Họ cho rằng con người ta rèn luyện một yếu tố tự chủ quan trọng trong những hành động của mình. Đồng thời, các nhà tương tác luận hiểu rằng một loạt các nhân tố xã hội như: ngôn ngữ, văn hóa, chủng tộc, tính sắc tộc, tầng lớp xã hội, và giới cưỡng ép các lý giải và các hành vi của con người ta. Vì thế, các nhà tương tác luận có thể được xem là những nhà duy nhiên cẩn trọng hay các nhà quyết định luận ôn hòa; họ tiền-thiết định rằng các hành động của con người chịu ảnh hưởng chứ không phải là bị quy định bởi những sự kiện trước đó hay bởi những lực xã hội hay những lực sinh học. Vận dụng lý thuyết này, chúng tôi xem xét hành vi lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT như biểu hiện của hành động xã hội có ý thức. Từ đó, dẫn tới nhận thức về vấn đề nghề nghiệp - việc làm của học sinh THPT. 3. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI : 3.1 Hướng nghiệp : Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ địa phương và quốc gia. Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu trong tiến trình hướng nghiệp của mỗi người. Hướng nghiệp là một quá trình liên tục tác động từ khi người học còn ngồi học ở bậc phổ thông, qua quá trình trao dồi chuyên môn nghề nghiệp và tìm được nơi lao động phù hợp. 3.2 Tự hướng nghiệp Tự hướng nghiệp là tự mình định hướng nghề nghiệp, tự mình xác định đúng ngành nghề thích hợp với bản thân và phù hợp với xã hội. Từ đó, bạn tự chọn hướng trau giồi tính cách và năng lực sao cho hiệu quả, để khi được trúng tuyển, cả khi học nghề và lập nghiệp sau này được vững chắc. Lúc đó, bạn không phải ân hận vì đã đi nhầm đường, còn vững tin ở tương lai. 3.3 Tư vấn hướng nghiệp Tư vấn hướng nghiệp là tư vấn về sự hỗ trợ khách quan và cả cách nỗ lực chủ quan trong quá trình hướng nghiệp. Nó có lợi cho người đang cần tư vấn hướng nghiệp và cũng lợi cho cả người cần dẫn dắt người khác hướng nghiệp (như phụ huynh, thầy cô, bạn bè…) 3.4 Trung học phổ thông Trường phổ thông trung học hay còn được gọi là trường trung học phổ thông là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó gồm các khối học lớp 10, lớp 11, lớp 12. Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này, học sinh được nhận bằng tốt nghiệp phổ thông trung học có một tên gọi khác cho loại bằng này là "Bằng Tú Tài". Trường phổ thông được lập tại các địa phương trên cả nước. Người đứng đầu một ngôi trường được gọi là "Hiệu Trưởng". Trường được sự quản lý trực tiếp của Phòng Giáo Dục huyện, quận và dưới quyền chỉ đạo của Sở Giáo Dục, cơ quan hành chính trực thuộc tỉnh, thành phố. Quy chế hoạt động của Bộ Giáo Dục và Đào tạo ban hành. 3.5 Ngoại thành : Vùng ngoài của thành phố .Theo nghị định 72/2001/ NĐ-CP của chính phủ quy định là : 1.Vùng ngoại thành, ngoại thị có các chức năng sau : a) Bố trí các công trình kỹ thuật hạ tầng đầu mối, các khu dân cư, các công trình vệ sinh, bảo vệ môi trường, các cơ sở sản xuất, dịch vụ, y tế, đào tạo, nghiên cứu khoa học và các công trình đặc biệt khác mà trong nội thành , nội thị không bố trí được; b) Bố trí các cơ sở nghỉ ngơi; các khu tham quan, du lịch; vành đai xanh, công viên rừng bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái; c) Dự trữ đất để mở rộng và phát triển đô thị 2. Quy mô vùng ngoại thành , ngoại thị được xác định trên cơ sở : a) Vị trí và tính chất của đô thị b) Quy mô dân số khu vực nội thành , nội thị; c) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng giao thông liên hệ giữa khu vực nội thành , nội thị và khu vực lân cận d) Các mối quan hệ giữa khu vực nội thành, nội thị với khu vực lân cận đ) Đặc điểm lịch sử và điều kiện tự nhiên của từng địa phương; e) Tổ chức hợp lý các đơn vị quản lý hành chính đô thị g) Yêu cầu phát triển các chức năng của vùng ngoại thành ngoại thị, khu vực nội thành , nội thị theo quy hoạch xây dựng đô thị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1.TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU : Hà Nội được coi là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của cả nước. Vì thế, tại đay là địa bàn tập trung một số lương lớn các trương THPT. Cả thành phố hiện nay có 134 trường vơi 182.477 học sinh. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở 2 trường: Trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm – Hà Nội và Trường THPT Cao Bá Quát - Gia Lâm -Hà Nội[1;.] Trường THPT Nguyễn Văn Cừ thành lập năm 1971 với tên gọi là “ trường vừa học vừa làm “ với mục tiêu vừa lao động vừa học tập Các thế hệ học sinh đầu tiên của trường đã vượt qua rất nhiều khó khăn để học tập tốt . Trong điều kiện nguy hiểm , gian khó của thời chiến , học sinh trường THPT Nguyễn Văn Cừ nêu cao tinh thần quyết tâm để đạt được nhiều thành tích Năm 1980. Trường vinh dự được nhà nước trao tặng danh hiệu : Trường tiên tiến xuất sắc của Huyện Gia Lâm Năm 1993, trường được đổi tên là trường THPT Nguyễn Văn Cừ . Đến nay quy mô của nhà trường ngày càng mở rộng cả điều kiện cơ sở vật chất và điều kiện dạy học Trong những năm qua tuy điểm tuyển sinh vào lớp 10 của trường còn thấp hơn các trường trong khu vực nhưng tỉ lệ học sinh đạt tốt nghiệp của nhà trường luôn cao bằng và hơn trung bình thành phố , ngang hàng với các trường trong khu vực ( Năm 2008 -2009 học sinh đỗ tốt nghiệp đạt tỉ lệ 97.73 % - TP HN :88.28% ; Năm 2009 -2010 Tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp là 99.58 % ) Học sinh trúng tuyển vào các trường ĐH – CĐ ngày càng gia tăng THPT Cao Bá Quát thuộc xã Cổ Bi - Gia Lâm Hà Nội Tổng số cán bộ, giáo viên :90 Tổng số học sinh: 1900 Thành tích tóm tắt: Trường THPT Cao Bá Quát thành lập năm 1961. Trải qua 42 năm xây dựng và trưởng thành nhà trường đã được Đảng và Nhà nước trao tặng: - Một huân chương lao động hạng nhì - Một huân chương lao động hạng ba - Cờ luân lưu của Chính phủ dành cho đơn vị dẫn đầu ngành giáo dục 1979-1980 - Nhiều năm liên tục là đơn vị tiên tiến xuất sắc của ngành giáo dục đào tạo Hà Nội Nhà trường đã đào tạo được hàng ngàn học sinh trưởng thành nhiều em đã trở thành những nhà khoa học, các doanh nghiệp, các nhà quản lý trên khắp mọi miền của Tổ quốc.Đặc biệt hàng trăm học sinh đã tham gia quân đội cấm súng bảo vệ Tổ quốc, trong số đó đã có nhiều người đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường, có nhiều người được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới trường THPT Cao Bá Quát vẫn phát huy được truyền thống vẻ vang của nhà trường thi đua dạy tốt học tốt: với tỉ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp THPT hàng năm đạt 99% trở lên, tỉ lệ học sinh giỏi đạt 6%, học sinh khá đạt 42%. Học sinh xếp loại đạo đức khá và tốt hàng năm đạt trên 90%, học sinh xếp loại đạo đức yếu dưới 1%. Trường có đội ngũ đông đảo các thày cô giáo gảng dạy có kinh nghiệm với 2/3 các thày cô giáo đạt danh nhiệu lao động giỏi trong đó ½ đạt danh hiệu giáo viên giỏi và chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. Với những thành tích nhiều năm đã đạt được, liên tục từ năm 1999-2000 đến nay trường THPT Cao Bá Quát giữ vững danh hiệu tiên tiến xuất sắc, luôn luôn là địa chỉ đáng tin cậy của phụ huynh học sinh Gia Lâm. Hạnh kiểm trường năm học 2009-2010 -    Hạnh kiểm tốt: 1.472 học sinh = 86.18% -    Hạnh kiểm khá: 201 học sinh = 11.77% -    Hạnh kiểm trung bình: 27 học sinh = 1.58%, giảm 0.3% -    Hạnh kiểm yếu: 8 học sinh = 0.47%, giảm 1% Tỉ lệ học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt năm học này đã tăng 1.2%  Kết quả học tập : Năm 2009 -2010 có nhiều kết quả đáng khen: Giỏi : 244 học sinh = 14.29 % Tiên tiến: 957 = 56.03% Trung bình 484 = 28.34 % Yếu = 23 học sinh =1.35 % Có 30/37 lớp đạt tieu chuẩn tiên tiến .Đặc biệt, trong kì thi HSG lớp 12 cấp Thành phố, toàn trường có 14 bạn đạt giải, tăng 5 giải so với năm trước: Trong đó:                + 03 giải nhì bộ môn Hóa và Sinh vật.             + 02 giải ba bộ môn Lịch sử và Sinh vật.             + 09 giải khuyến khích các môn Anh 2 giải, Địa lí 2 giải, Sử 1 giải, Văn 2 giải, Vật lí 1 giải, Toán 1 giải. Trong kì thi Olimpic cụm các trường Gia Lâm – Long Biên dành cho học sinh khối 10 và khối 11, đội tuyển học sinh giỏi của trường đã dự thi và đạt được 40 giải. Vấn đề đồng hành với thanh niên trong tư vấn, hướng nghiệp: Bên cạnh những hoạt động bề nổi, những hoạt động nhằm định hướng nghề nghiệp cho đoàn viên, thanh niên cũng được BGH cũng Đoàn trường chú trọng thồng qua các hoạt động hỗ trợ, định hướng giúp đoàn viên thanh niên có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp tương lai phù hợp với điều kiện và năng lực của bản thân. -    Đều đặn tổ chức các tiết học hướng nghiệp với mọi khối, lớp. Những tiết học hướng nghiệp với nhiều trò chơi, nhiều cuộc thi lí thú, sôi nổi đã giúp không ít đoàn viên thanh niên định hướng được nghề nghiệp của mình trong tương lai. -    Đoàn trường đã tổ chức cho các bạn học sinh khối 12 tham gia ngày hội “ Thanh niên với nghề nghiệp ”. -    Những tiết học hướng nghiệp được duy trì đều đặn cho các khối lớp, những tiết sinh hoạt dưới cờ với những nội dung hướng nghiệp đan xen, những bản tham luận của học sinh về vấn đề thanh niên với việc định hướng nghề nghiệp tương lai thường xuyên được dán ở bảng tin của trường…. Tất cả các hoạt động đó đã phần nào giúp thanh niên định hướng nghề nghiệp tương lai của mình. 2. THỰC TRẠNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH THPT KHU VỰC NÔNG THÔN Quá quá trình phân tích số liệu khảo sát ở 2 trường THPT thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội. Chúng tôi nhận thấy những kết quả sau : 2.1 Số liệu mẫu nghiên cứu: Trường Số lượng Phần trăm THPT Nguyen Van Cu 111 44.58 THPT Cao Ba Quat 138 55.42 Tổng 249 100 Giới tính Số lượng Phần trăm Nam 90 35.63 Nữ 159 64.37 Tổng 249 100 2.2 Lựa chọn của học sinh sau khi tốt nghiệp Tỷ lệ học sinh cho rằng mình có dự định cho việc định hướng nghề nghiệp là :77% và chỉ có 23 % là chưa có dự định gì Trong số đó có 20.2 % số học sinh cho rằng mình có dự định từ lúc mình còn học THCS và có 36.1 % số học sinh cho rằng có dự định từ lúc mình học THPT và 43.8% số học sinh cho rằng năm lớp 12 mới có dự định cho nghề nghiệp của mình Như vậy hầu hết các sinh viên năm cuối mới thường đặt những dự định cho mình và hầu hết tại thời điểm đó các em mới có đủ trình độ , kiến thức để định hướng cho tương lai của mình Hầu hết các học sinh đều có dự định thi ĐH, CĐ(91.3% ) chứng tỏ rằng một khi các em đã học lên đến lớp 12 thì đều có xu hướng học lên tiếp tục ĐH , CĐ . Điều đó cũng chứng tỏ đó là con đường tốt nhất cho các em có được ngành nghề vững vàng và ổn định trong tương lai. Đồng thời điều đó cũng chứng minh rằng giả thuyết mà tác giả đặt ra là hoàn toàn đúng và có cơ sở chắc chắn , thiết thực Có số ít học sinh cho rằng mình sẽ không lựa chọn tiếp tục học lên ĐH , CĐ hoặc chưa biết cụ thể (1.7 % TL Không và số còn lại cho rằng chưa biết ) Bảng 1 : Dự định thi ĐH , CĐ của học sinh THPT nông thôn Có Không Chưa biết 91.3% 1.7% 7% 2.2 Xu hướng của kỳ thi ĐH , CĐ Đa số các em học sinh lựa chọn thi ĐH (91.3 % ) và sau khi kết quả điều tra cho thấy thì có khoảng 88.1 % số học sinh cho rằng mình có đi ôn thi , luyện thi. Đây cũng là một thực tế phổ biến trong giới học sinh hiện nay và cũng nhất là của đa số học sinh lớp 12 Có số ít học sinh không thi ĐH và tất cả họ đều cho rằng mình không tham gia bất kỳ lớp ôn thi , luyện thi nào Việc lựa chọn khối thi: Có rất nhiều học sinh lựa chọn thi 2 khối A và B . Tỉ lệ đó là 36.8 % . Trong đó chỉ có 20.3 % lựa chọn thi khối A và 8 % lựa chọn thi khối B .Khối C là 1.2 % . Khối D là 12.8 % .Khối A và D là 16.4 % . Điều này chứng tỏ rằng , hiện nay đa số các học sinh có xu hướng lựa chọn thi 2 trường và thường thiên về khối A. Hiện nay các khối ngành B và C được rất it học sinh lựa chọn . Một điều dễ nhận thấy là những học sinh có xu hướng lựa chọn thi 2 khối bởi lẽ nếu thi 2 khối thì khả năng đỗ đại học của họ sẽ được nhân đôi , nhiều học sinh quyết định ôn cả 2 khối của bởi lý do này . Hơn nữa ví như học sinh học thi khối A thi thêm khối B thì việc ôn thi chỉ là dành thêm một chút thời gian để ôn thêm môn Sinh học vì 2 khối này đã chung nhau 2 môn : Toán và Hóa . Điều này cũng cho ta thấy rằng vì sao có số học sinh quyết định lựa chọn thi cả 2 khối A và B lại có tỉ lệ cao (36.8%) Việc lựa chọn ngành nghề thì Bảng 2 : Khối ngành dự thi của học sinh Khối ngành dự thi ĐH Tỉ lệ Kỹ thuật 13.1 % Kinh tế ,thương mại ,tài chính 61.6 % Khoa học cơ bản 7.4 % Y dược 7 % Sư phạm 7.9 % Quân đội, công an 3.1 % Điều này giúp cho ta nhận ra một điều rằng vì sao có tỉ lệ 36.8 % số học sinh quyết định lựa chọn 2 khối ngành A và B và có tới 20 % số học sinh lựa chọn thi khối A.Bởi có 13.1 % số học sinh quyết định lựa chọn thi khối ngành kỹ thuật và 61.6 % số học sinh quyết định lựa chọn thi vào các khối ngành kinh tế tài chính ngân hàng Hiện nay một thực trạng mới thấy là có rất nhiều học sinh lựa chọn khối ngành kinh tế , kỹ thuật và thương mại bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế khiến hầu hết các học sinh bị lôi cuốn và xu hướng cá nhân cũng bị đẩy theo “ Học kinh tế là sở thích của em. Nó phổ biến, dễ kiếm tiền, phù hợp với con gái. Công việc này cũng dễ xin việc”. (PVS.Nữ , Lớp 12) Biểu 2 :Biểu đồ khối ngành dự thi của học sinh THPT Khi được hỏi tại sao các em lại có quyết định như thế . Tác giả có đưa ra một số các phương án và được các em đánh giá như sau: Bảng 3 : Đánh giá của học sinh về nghề nghiệp Ngành của bố mẹ , người thân đang làm 17.1 % Ngành dễ xin được việc làm sau này 39.3 % Ngành thú vị , năng động , có nhiều cái mới 40.2 % Ngành có thu nhập tốt 50 % Ngành nhàn hạ 14.5 % Năng lực của em phù hợp với ngành đó 47.6 % Ngành được xã hội đánh giá cao 25.6 % Bạn bè cũng lựa chọn ngành đó 6 % Xác xuất đỗ ĐH cao hơn 9.8 % Ngành đó dễ được làm gần bố mẹ 13.7 % Bố mẹ em mong muốn vào ngành đó 18.8 % Ngành đó phát triển trong tương lai 35.5 % Có khả năng thăng tiến sau này 19.3 % Có khả năng đóng góp nhiều cho xã hội 40.3 % Một thực tế dễ thấy là hầu hết các em học sinh đang đánh giá theo hướng là ngành đó phải có thu nhập tốt (50% số HS ) hoặc năng lực phù hợp với cá nhân (47.6%) Ngành có sự thú vị , yêu cầu năng động (40.2 ) . Nhưng quan điểm như thấy bạn bè thi vào đấy mình cũng thi thì lại được các học sinh đánh giá rất thấp(6% ) chứng tỏ khi quyết định lựa chọn ngành nghề của bản thân quyết định của các em là rất cao mang tính chất quyết định, những ảnh hưởng từ bạn bè , những góp ý của cha mẹ ( 18.8 % ) chỉ là những góp ý nhằm giải quyết thắc mắc của các em , còn hầu hết các quyết định là của các em . Biểu 3 : Xu hướng đánh giá nghề nghiệp của học sinh THPT Chúng ta hãy cũng nhìn lại địa bàn sinh sống của các em và nghề nghiệp của cha mẹ để đánh giá rõ hơn về vấn đề này Bảng 4: Nghề nghiệp của cha mẹ học sinh Nghề nghiệp Cha Mẹ Nông dân 45.7 % 45.6 % Bộ đội , công an 4.7 % 1.3 % Buôn bán , dịch vụ 14.1 % 19.4 % Công nhân 14.1 % 11.8 % Cán bộ nhà nước 3 % 5.1 % Thợ thủ công 2.6 % 3 % Bác sỹ , dược sỹ 3.4 % 2.1 % Kỹ sư 1.7 % 0.8 % Khác 10.7 % 11 % Nghề nghiệp của cha mẹ các em chủ yếu là nông đân (45.6 %) với cá cha và mẹ các em thương xuyên phải làm những công việc nặng nhọc và những công việc chiếm nhiều thời gian , không có thời gian để quan tâm và góp ý đến việc học tập của con cái Bên cạnh đó trình độ học vấn của cha mẹ các học sinh cũng là một lý do khiến cha mẹ các em cũng không có thời gian , cũng như trình độ , khă năng hiểu biết nghề nghiệp , ngành nghề và các kiến thức liên quan đến định hướng nghề nghiệp nên hầu như không có khả năng quyết định hay định hướng nghề nghiệp cho con cái Chỉ có những gia đình có cha mẹ có trình độ học vấn cao hoặc là những gia đình thuộc khu vực thành thị thì việc quyết định dường như có sự tham gia nhiều vào cha mẹ, đôi khi còn mang tính chất phụ thuộc Bảng 5 : Trình độ học vấn của cha mẹ học sinh Trình độ học vấn Cha Mẹ Không biết chữ 1.72 % 1.7 % Tiểu học 4.72 % 5.11 % Trung học cơ sở 33.48 % 25.53 % Phổ thông trung học 42.49 % 50.64 % Cao Đẳng 4.29 % 5.96 % Đại Học 10.3 % 8.94 % Trên Đại Học 3 % 2.13 % Nhìn vào bảng trên ta thấy được rằng hầu hết các cha mẹ của học sinh đều là trình độ học vấn THCS ( 33.48 %, 25.53% ) và THPT (42.49% , 50.64% ) chỉ có số ít là các cha mẹ có trình độ ĐH(10.3%, 8.94%) và trên ĐH (3% , 2.13% ) Điều đó chứng tỏ một điều rằng việc cha mẹ có trình độ học vấn hạn chế thì việc tác động đến công việc học tập cũng như định hướng cho con cái , những quyết định của con cái dường như là do chính cá nhân các em tự quyết định và định hướng nghề nghiệp cho mình . Chính những điều đó khẳng định được khả năng dần dần tự độc lập của các em , các em đã biết lựa chọn nghề nghiệp của mình phù hợp với thực tế : ( thu nhập ): 50%, phù hợp với năng lực và khả năng của cá nhân: 47.6 % , phù hợp với tuổi trẻ năng động và sáng tạo ( công việc năng động , thú vị , nhiều cái mới ): 40.2 % Bên cạnh tính độc lập của cá nhân , việc quyết định trước định hướng nghề nghiệp của mình khi được hỏi thì không ít những trường hợp đã lựa chọn những quyết định đó là của cá nhân học sinh và cha mẹ học sinh: 63.53 % . Cha mẹ của những học sinh này là những người có trình độ học vấn cao , có kinh nghiệm sống nên có thể tham gia đóng góp ý kiến , phân tích để các em có thể quyết định ý kiến của các em. Điều này giúp các em tự tin hơn trong nhưng quyết định của mình. Thế nhưng cũng có trường hợp ngược lại có em nói với chúng tôi rằng em thích nghề nghiệp đó nhưng cha mẹ lại muốn các em vào các ngành khác để dễ xin việc sau này .Lại có em nghĩ năng lực của mình không đủ sức tham dự các ký thi ĐH , CĐ nhưng bố mẹ các em lại muốn các em bước vào giảng đường ĐH nên các em đành phải làm theo cha mẹ dù biết năng lực của các em đôi khi chưa đủ để bước vào ngưỡng cửa ĐH , CĐ . Việc nhiều em đánh giá yếu tố sau này dễ kiếm được việc làm làm yếu tố lựa chọn của đánh giá được phần nào một số thắc mắc trên (39.3 %) và bên cạnh đó các học sinh cũng đánh giá một số yếu tố mang tính chất xã hội như có thế giúp ích nhiều cho xã hội (40.3% ),ngành nghề dễ dàng phát triển trong tương lai (35.5% ) hay được xã hội đánh giá cao (25.6 %) Nhưng trước quan điểm nếu không đỗ ĐH thì các em sẽ quyết đinh như thế nào thì câu trả lời thu được là : Bảng 6 : Nếu học sinh không đỗ ĐH thì sẽ làm gì Chờ năm sau thi ĐH , CĐ 26.41 % Xét tuyển vào CĐ , TCCN hoặc thấp hơn 45.45 % Đi học nghề hoặc đi làm công nhân 3.03 % Sản xuất hoặc kinh doanh tại nhà 3.03 % Chưa có phương án cụ thể 17.75 % Chủ yếu phương án mà các em lựa chọn đó là quyết tâm được đi học tiếp nên quyết định xét tuyển vào CĐ , TCCN hoặc các trường khác có điểm thấp hơn ( 45.45 % ) Nhung cũng có nhiều học sinh quyết chí khẳng định là năm sau sẽ tiếp tục thi ĐH (26.41 % ) . Một số ít học sinh chọn phương án là đi làm hoặc làm công nhân hoặc sản xuất kinh doanh tại nhà (3.03%) Bên cạnh nhưng bạn quyết định thi ĐH cũng có số ít học sinh quyết định không thi ĐH (8.7 %) Tuy chỉ chiểm một số lượng nhỏ nhưng lý do tại sao? Bảng 7 :Lý do các học sinh quyết định không thi ĐH , CĐ Lý do Số lượng Phần trăm Kinh tế gia đình khó khăn không đủ tiền học 4 16.67 % Học lực cá nhân 8 33.33 % Tham gia ngay vào các công việc của gia đình 2 8.33 % Đi làm kiếm tiền nhanh hơn 10 41.67 % Tổng 24 100.00 Chỉ có 24 học sinh quyết định không dự thi ĐH ,CĐ và khoảng gần 1 nứa số đó cho rằng mình đi làm sẽ kiếm tiền nhanh hơn (41.67 % ) có khoảng 8 học sinh cho rằng năng lực của mình thực sự không đủ nên không thi ĐH và CĐ và có khoảng 4 hs cho rằng vì gia đình quá khó khăn (16.67 % ) Biểu 4 : Lý do quyết định không dự thi ĐH , CĐ Phần lớn các học sinh thuộc những gia đình khó khăn thường phân vân trước những quyết định của mình , mặc dù có nhiều học sinh có khả năng ,học lực có thể thi đỗ ĐH hay học cao lên nhưng do điều kiện không đủ , điều kiên gia đình khó khăn , các em muốn đi làm để kiếm tiền một cách nhanh hơn bằng con đường trực tiếp. Chúng ta hãy cùng xem lại đánh giá về mức sống của các em Bảng 8 : Bảng tự đánh giá mức sống của các em học sinh THPT Giàu 7.44 % Khá giả 16.12 % Trung Bình 70.25 % Khó khăn 6.20 % Như vậy hầu hết các học sinh đều có mức sống là trung bình (70.25 % ) và Khá giả (16.12 %) Như vậy chỉ ra 91.3 % học sinh cho rằng mình sẽ thi ĐH , CĐ là hoàn toàn đúng Chỉ có 6.2 % gia đình các em chỉ ra là khó khăn. Số liệu này chứng tỏ 1 điều rằng những học sinh có quyết định không dự thi đại học hoặc đi làm hầu hết là con em của các gia đình khó khăn không đủ điều kiện để học tiếp hoặc muốn đi làm để phụ giúp gia đình Biểu 5: Mức sống theo tự đánh giá của học sinh Tuy vậy đa số những học sinh mà gia đình có mức sống trung bình vẫn có nhiều học sinh có học lực xếp loại khá và giỏi . Điều đó góp phần đánh giá được khả năng học tập của các em , những học sinh có gia đình có mức sống TB thì tỉ lệ xếp loại học lực của các em lần lượt là Giỏi (49;70 %) Khá (104 ; 75.36 % ) chiếm tỉ lệ rất cao chứng tỏ việc đầu tư cho học tập của cha mẹ hay của các em đều rất cao Có rất ít các học sinh có xếp loại học tập yếu , kém . Trong 241 số liệu thực chỉ có 9 học sinh xếp loại yếu và kém (3.7 % ) Trong đó có 3 học sinh có gia đình có mức sống giàu và 4 học sinh có gia đình có mức sống khó khăn. Chính vì vậy ta càng thấy rõ rằng : đối với một số gia đình khá giả ,kinh tế tài chính quá rộng , một số em cho rằng việc học tập không quan trọng , đôi khi là tạo nên sự xao nhãng , lười nên học lực trở nên đi xuống . Còn đối với các em gia đình khó khăn , do tính chất khó khăn của gia đình , các em phải làm việc phụ giúp cha mẹ , việc đầu tư thời gian và vật chất cho học tập có phần hạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp cho học sinh thpt ngoại thành hà nội.doc
Tài liệu liên quan