Đề tài Mỹ, EU và Nhật Bản- Các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam - Phân tích và đề xuất giải pháp thúc đẩy xuất khẩu

MỤC LỤC

Lời mở đầu

Mục lục

Phần A- Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam 1

I. Xuất Khẩu 1

1. Tổng quan tình hình xuất khẩu 1

2. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 2

a. Hàng dệt may 2

b. Giày da 4

c. Thủy sản 7

d. Dầu thô 11

e. Gạo 12

f. Cà phê 13

g. Cao su 15

h. Hạt tiêu đen 16

i. Hạt điều 17

j. Chè 18

k. Gỗ và các sản phẩm từ gỗ 19

l. Than 21

m. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 21

II. Nhập khẩu 22

1. Tình hình chung 22

2. Một số mặt hàng nhập khẩu chính 25

a. Xăng dầu các loại 25

b. Chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ chất dẻo 27

c. Phân bón các loại 29

d. Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 31

e. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 32

f. Ô tô nguyên chiếc và xe máy 34

g. Sắt thép các loại 36

h. Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày 38

i. Nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu 41

j. Nhóm đá quý, kim loại quý 43

k. Nhóm kim loại thường khác 44

l. Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 45

m. Gỗ và sản phẩm gỗ 46

n. Giấy và nguyên liệu 48

o. Các nhóm khác 48

Phần B- Một số thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 51

I. Thị trường Mỹ 51

1. Môi trường chung 51

a. Điều kiện tự nhiên xã hội, kinh tế, văn hóa 51

b. Luật thương mại và các chính sách ngoại thương 58

c. Tình hình xuất nhập khẩu của Mỹ 67

d. Tình hình giao thương với Việt Nam 82

2. Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 88

2.1. Hàng dệt may 88

a. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ 88

b. Thuận lợi và khó khăn 91

c. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ 94

2.2. Gỗ và sản phẩm gỗ 97

a. Tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào Mỹ 97

b. Thuận lợi và khó khăn 98

c. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào Mỹ 103

3. Các biện pháp chung thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ 105

II. Thị trường EU 109

1. Phân tích môi trường chung 109

a. Điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế, văn hóa 109

b. Chính sách thương mại 112

c. Tình hình xuất nhập khẩu của EU 119

d. Tình hình giao thương với Việt Nam 122

2. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU 129

2.1. Thủy sản 129

a. Tình hình xuất khẩu thủy sản vào EU 129

b. Thuận lợi và khó khăn 131

c. Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang EU 136

2.2. Gỗ và các sản phẩm gỗ 137

a. Tình hình xuất khẩu chung 137

b. Thuận lợi và khó khăn 138

c. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gỗ vào EU 142

2.3. Cà Phê 143

a. Tổng quan tình hình nhập khẩu cà phê của EU 143

b. Thuận lợi và khó khăn 144

c. Các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê sang EU 146

2.4. Giày dép 147

a. Khái quát về thị trường giày dép EU 147

b. Tình hình xuất khẩu giày dép sang EU 149

c. Thuận lợi và khó khăn 155

d. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang EU 158

3. Giải pháp chung nhằm đẩy mạnh xuất khẩu vào EU 159

III. Thị trường Nhật Bản 163

1. Phân tích môi trường chung 163

a. Điều kiện tự nhiên xã hội, kinh tế, văn hóa 163

b. Chính sách ngoại thương và đặc điểm thị trường Nhật Bản 171

c. Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản 183

d. Tình hình giao thương với Việt Nam 187

2. Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Nhật 198

2.1. Hàng dệt may 198

a. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật 198

b. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật 202

2.2. Dây điện và dây cáp điện 204

a. Tình hình xuất khẩu chung 204

b. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu dây điện và dây cáp điện sang Nhật 206

2.3. Gỗ và sản phẩm gỗ 207

a. Tình hình xuất khẩu mặt hàng gỗ sang Nhật 207

b. Thuận lợi và khó khăn 208

c. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gỗ sang Nhật 214

3. Các biện pháp chung đẩy mạnh xuất khẩu sang Nhật Bản 218

Kết Luận

Bảng biểu tham khảo

Tài liệu tham khảo

 

doc222 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mỹ, EU và Nhật Bản- Các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam - Phân tích và đề xuất giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề này cần phải có công nghệ, thiết bị xử lý. Ngoài ra, để tăng hiệu suất quay vòng vốn, các doanh nghiệp cần tập trung phát triển sản xuất đồ gỗ trong nhà. Đồ gỗ ngoài trời là mặt hàng sản xuất có thời vụ, chỉ xuất mạnh trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 3 năm sau. Trong khi đó, đồ gỗ trong nhà có thể xuất khẩu quanh năm. Đặc biệt trong năm nay, xuất khẩu đồ gỗ ngoài trời bị tác động khá mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua với biểu hiện qua kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU sụt giảm mạnh. Muốn giải quyết bài toán giảm nhập khẩu nguyên liệu gỗ và tăng chất lượng gỗ, không những phải làm tốt công tác tuyển chọn giống cây trồng, quy trình chăm sóc... mà còn phải lựa chọn thêm nhiều giống cây ngoài các nguyên liệu truyền thống như keo, bạch đàn... Thậm chí, có thể tính đến phương án đưa các giống xoài, sầu riêng vào khai thác gỗ để đáp ứng nhu cầu gỗ đa dạng của thị trường. Một số biện pháp mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể làm để hạn chế ảnh hưởng của các vụ kiện chống bán phá giá là đa dạng hóa các thị trường để nhỡ bị kiện ở thị trường này thì không quá ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp nên tránh bán hàng với giá quá thấp, bởi vì điều này có thể khiến thị trường Mỹ cho rằng doanh nghiệp có những hoạt động kinh doanh không lành mạnh. Doanh nghiệp nên có một hệ thống sổ sách kế toán minh bạch để khi bị yêu cầu, có thể cung cấp kịp thời các số liệu rõ ràng cho phía điều tra. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ: Trong những năm tới, muốn tăng được kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu nhập khẩu rất lớn, điều cốt lõi là ta phải tăng được nguồn cung có sức cạnh tranh, nhất là những mặt hàng công nghiệp chế biến và chế tạo có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Nhà nước phải tập trung đổi mới quản lý, đơn giản các thủ tục hành chính, ban hành các luật pháp, chính sách tháo gỡ khó khăn và tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra những mặt hàng mới phi truyền thống có giá trị cao để xuất khẩu trong đó có xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Quy mô sản xuất nhỏ và dựa vào gia công thuần túy là những trở ngại lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ với các đối tác nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Để khắc phục trở ngại này, các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất để đảm bảo và ổn định chất lượng hàng hóa, mở rộng quy mô và hạ giá thành sản xuất, đặc biệt là phải tổ chức tự cung ứng được đầu vào của sản xuất để có thể đón xu hướng chuyển dịch đơn hàng từ các nước khác vào Việt Nam và trở thành đối tác sản xuất trực tiếp và lâu dài cho các nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ. Năm 2010 xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng tối thiểu 10% so với năm 2009. Một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may vẫn sẽ giữ được thị trường, giày dép chắc chắn vẫn giữ được đà tăng trên 11% và đồ gỗ nội thất cũng vẫn có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, giá cả chưa thể khôi phục ngay và việc Mỹ áp dụng một số chính sách mang tính chất bảo hộ, đưa ra những quy định như những rào cản kỹ thuật là những trở ngại chung với tất cả các nước xuất khẩu vào Mỹ, trong đó có Việt Nam. Những rào cản kỹ thuật, những hành vi bảo hộ thương mại mà Mỹ dựng lên một cách tinh vi, nhằm hạn chế nguồn hàng xuất khẩu của các nước khác vào thị trường Mỹ, nhằm bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Do khủng hoảng kinh tế, rào cản thương mại đang được dựng lên ở khắp nơi trên thế giới và ngày thêm dày đặc. Thực tế các rào cản thương mại do Mỹ dựng lên đều hết sức ngặt nghèo với mục đích hạn chế nhập khẩu và áp dụng cho các nước xuất khẩu, trong đó có Việt Nam. Vấn đề của chúng ta là cần phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất và kinh doanh theo yêu cầu của Mỹ. Để chủ động, điều đầu tiên là doanh nghiệp cần phải nắm thật chắc các quy định và phải tuân thủ nghiêm ngặt. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp chỉ biết và thực hiện các quy định mới khi đối tác yêu cầu mà không có một đầu mối quản lý một cách hệ thống và cập nhật các yêu cầu mang tính quy chuẩn tại thị trường nhập khẩu. Nhóm hàng đầu tiên cần lưu ý là cá tra và cá basa, vốn đã bị Mỹ khởi kiện và đưa vào danh mục bị áp thuế chống bán phá giá. Gần đây, Bộ Nông nghiệp Mỹ có ý đồ đưa cá tra và cá basa của Việt Nam vào nhóm hàng "catfish" để loại cá này phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan quản lý chất lượng của Mỹ, từ khâu nuôi trồng, chế biến, vận tải và bảo quản. Để giúp các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ tiếp tục theo dõi và có những hoạt động nhằm làm rõ quan điểm này của phía Mỹ. Noài ra, các mặt hàng nông sản và thực phẩm khác cũng có thể sẽ gặp khó khăn do phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn khắt khe hơn và phải cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam về việc Mỹ áp dụng luật nông trang và các quy định về xuất xứ hàng hóa và an toàn nhập khẩu, theo đó phải chứng minh nguồn gốc nguyên liệu và chứng chỉ, đồng thời phải có hệ thống kiểm tra chất lượng đáp ứng được yêu cầu của Mỹ. Điều này sẽ làm các doanh nghiệp phải thêm chi phí và đầu tư thêm về kỹ thuật, song đây là một xu thế chung mà các nước đều sẽ tiến tới áp dụng. Các doanh nghiệp phải cố gắng giữ khách hàng, cho dù lợi nhuận giảm và chi phí tăng, vì đây là vấn đề hết sức quan trọng, mang tính chiến lược. Để vượt qua rào cản kỹ thuật phải xử lý bằng kỹ thuật, tức là phải nâng cao trình độ kỹ thuật, cải thiện môi trường, nâng cao điều kiện lao động cho người lao động. Trước hết, phải giải được bài toán năng lực. Phải xây dựng mô hình sản xuất chất lượng cao để có điều kiện tăng thu nhập cho người lao động. Đây cũng chính là cách giữ lao động hiệu quả nhất. Chuyển từ gia công sang hàng FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) cộng với thiết kế để tăng giá trị gia tăng nhằm có thêm nhiều lợi nhuận. Biện pháp thứ hai là phải di dời dần các nhà máy, xí nghiệp sản xuất khỏi các thành phố lớn, khu công nghiệp, chuyển sang phân tán trên cả nước để ở đâu cũng có nhà máy nhằm tận dụng được nguồn lao động nông nhàn, giải quyết bài toán thiếu hụt lao động. Việc thứ ba là xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người sử dụng lao động và người lao động. Hai bên phải cùng cộng tác chặt chẽ. Có như vậy mới có thể đồng quan điểm và cùng giải quyết những vấn đề gặp phải. Vấn đề thứ tư là tổ chức cung ứng nguyên phụ liệu trong nước. Đây là chuyện dài hạn. Phải thu hút các nhà đầu tư vào ngành này để tăng tỷ lệ nội địa hóa, chủ động được nguồn nguyên phụ liệu phục vụ xuất khẩu. Từ đó sẽ có điều kiện tăng năng lực cạnh tranh. Thêm vào đó, để đưa hàng hóa thành công vào thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không nên bỏ qua hoặc không quan tâm đúng mức đến các công đoạn trong chuỗi cung ứng. Muốn vậy, doanh nghiệp phải làm việc với những đối tác Hoa Kỳ có uy tín, có kinh nghiệm để có thể chuyển hàng hóa hiệu quả đến Hoa Kỳ. Nhưng trước đó, song song với việc các nhà sản xuất Việt Nam cần đảm bảo sản xuất hàng hóa có chất lượng thì doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu phải biết rõ nhà cung cấp nguyên liệu cho mình là ai, sản phẩm xuất khẩu có được kiểm nghiệm không, rồi tiếp đó mới tới ai là người vận chuyển, ai là người đưa sản phẩm vào Hoa Kỳ và ai là người phân phối đến người tiêu dùng. Hoa Kỳ là một thị trường lớn và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong năm 2009 và các năm tiếp theo. Vì vậy, các doanh nghệp cần tổ chức tốt hơn công tác thị trường nước ngoài, nắm bắt và tổ chức các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với các bạn hàng nhập khẩu, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để hiểu rõ những thay đổi trong cơ chế quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tiếp xúc với cơ quan tư vấn để họ hướng dẫn về các đạo luật mới do nó tác động trực tiếp đến hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp, bởi đây là những hàng rào kỹ thuật thương mại mới và phức tạp cho nên doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu với sự hỗ trợ của các chuyên gia. Tóm lại, doanh nghiệp cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa 3 khâu sản xuất, nắm bắt thông tin và tổ chức xúc tiến thương mại. Bộ Công thương cũng cần tích cực phổ biến cho doanh nghiệp nắm được những quy định mới liên quan đến chính sách và điều tiết nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, cũng như có biện pháp tổ chức thực hiện để có thể giảm thiểu tác động từ việc thực thi các quyết định này đến xuất khẩu của Việt Nam, tăng cường chất lượng của các quy định để phù hợp với các quy định của Hoa Kỳ. Ngoài ra để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp cần có kế hoạch dài hơi, đủ tính chiến lược; lựa chọn sản phẩm phù hợp và giàu sức cạnh tranh; sử dụng chuyên gia giỏi nghiệp vụ và tiếng Anh trong giao tiếp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần làm tốt công tác xúc tiến thương mại như lập và duy trì trang web, tham gia các hội chợ tại Hoa Kỳ để tìm bạn hàng mới, nhất là ở những bang giầu tiềm năng; tổ chức tốt việc giới thiệu sản phẩm cả về mẫu mã, giá cả, phương thức mua bán và thanh toán. II. EU Phân tích môi trường chung Điều kiện tự nhiên- xã hội, kinh tế, văn hóa: Liên minh châu Âu hay Liên hiệp Châu Âu (tiếng Anh: European Union) là một tổ chức liên chính phủ của các nước châu Âu. Từ 6 thành viên ban đầu, hiện nay có 27 quốc gia thành viên. Liên minh được thành lập với tên gọi hiện nay theo Hiệp ước về Liên minh châu Âu năm 1992, thường gọi là Hiệp ước Maastricht. Tuy nhiên, nhiều phương diện của Liên minh châu Âu đã có từ trước, kể từ thập niên 1950, thông qua một loạt các tổ chức tiền thân. Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ. Trước ngày 1 tháng 11 năm 1993 tổ chức này được gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC).           Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập.               * 1957: Bỉ, Đức, Italy, Luxembourg, Pháp, Hà Lan               * 1973: Đan Mạch, Ireland, Anh               * 1981: Hy Lạp               * 1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha               * 1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển               * Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp               * Ngày 1/1/2007: Romania, Bulgaria Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Phần Lan, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; các nước đứng ngoài là Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Hiện nay, đồng Euro đang có tỉ giá hối đoái cao hơn đồng đô la Mỹ. EU hiện có 27 thành viên với diện tích là 4,324,782 km² với dân số là 491,58 triệu người. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu. Vẫn còn 22 quốc gia gồm Albania, Andorra, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bosnia & Herzegovina, Croatia, Georgia, Iceland, Liechtenstein, Macedonia, Moldova, Monaco, Montenegro, Na Uy, Nga, San Marino, Serbia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ, Ukraine, và Vatican chưa gia nhập Liên minh châu Âu. EU là trung tâm hàng đầu thế giới về chính trị, kinh tế, thương mại, tài chính, khoa học kỹ thuật, GDP đạt trên 16.524 tỷ USD, chiếm 23,5% tổng GDP thế giới, 25% tổng giá trị thương mại thế giới và 33% luồng đầu tư trực tiếp toàn cầu. Tại thị trường chung EU hàng hoá, sức lao động, vốn và dịch vụ được lưu chuyển hoàn toàn tự do giống như khi chúng ta ở trong một thị trường quốc gia. Thị trường chung gắn với chính sách thương mại chung. Nó điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hoá, dịch vụ trong nội khối. Là thị trường có 500 triệu khách hàng, với sức mua theo đầu người khoảng 32.700 USD/năm, EU được xem là một thị trường rộng lớn và đầy hấp dẫn đối với các nhà hoạt động kinh doanh quốc tế trên toàn thế giới nói cung và Việt Nam nói riêng. Kinh tế: Ủy ban châu Âu dự báo GDP của 16 nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể tăng trưởng 1,7% trong năm nay thay cho con số 0,9% của dự báo trước đó. Tốc độ tăng trưởng của quý 3/2010 có thể là 0,5% và quý 4/2010 dự kiến là 0,3%. Quý 2/2010, kinh tế châu Âu tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất trong 4 năm do xuất khẩu tăng trưởng mạnh và nhu cầu tiêu dùng của người dân hồi phục. Ủy ban cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ suy yếu trong nửa sau năm 2010 bởi ảnh hưởng từ các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của chính phủ. Giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) mới đây cũng cho rằng châu Âu đương đầu với rủi ro kinh tế phục hồi chậm chạp. Ông Olli Rehn, thành viên thuộc Ủy ban châu Âu phụ trách các vấn đề kinh tế và tiền tệ, cho rằng kinh tế châu Âu đang trên con đường hồi phục và sự hồi phục của nhu cầu nội địa sẽ mang đến yếu tố thuận lợi cho thị trường việc làm. Tuy nhiên ông khẳng định bất ổn vẫn còn tồn tại và việc đảm bảo ổn định tài chính cũng như củng cố tài khóa vẫn được ưu tiên hàng đầu. Ủy ban châu Âu dự báo kinh tế của 27 nước thuộc Liên minh châu Âu có thể tăng trưởng 1,8% trong năm nay thay cho mức dự báo 1% trước đó. Kinh tế Đức có thể tăng trưởng 3,4%; gấp 3 lần tốc độ dự báo được đưa ra vào tháng 5/2010. Kinh tế Pháp và Ý cũng được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Kinh tế Tây Ban Nha có thể tăng trưởng âm 0,3% thay cho con số âm 0,4%. Tập quán tiêu dùng: Trình độ phát triển kinh tế xã hội của các thành viên là khá đồng đều cho nên người dân thuộc khối EU có đặc điểm chung về sở thích, thói quen tiêu dùng. Hàng hoá được nhập khẩu vào thị trường này phải đảm bảo đầy đủ về chất lượng, nguồn gốc, mẫu mã vệ sinh an toàn cao. Người tiêu dùng Châu Âu thường có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhẫn hiệu nổi tiếng thế giới vì họ cho rằng những nhãn hiệu nổi tiếng này gắn với chất lượng sảm phẩm và có uy tín lâu đời cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an toàn về chất lượng và an tâm cho người sử dụng. EU gồm 27 quốc gia, mỗi quốc gia có một đặc điểm tiêu dùng riêng do đó có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoá. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị trường tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong EU nhưng các quốc gia này đều nằm trong khu vực Tây và Bắc Âu nên có những đặc điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá. Về sở thích, thị hiếu nói chung của người Tây Âu rất thích các hàng hóa chất lượng cao và có xu hướng thích mua những đồ mà họ có thể tự lắp ráp. Nhìn vào đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta có thể thấy, hầu hết đồ gỗ đã được đóng sẵn. Chính vì vậy, mặt hàng này không những không được người tiêu dùng Tây Âu ưa chuộng, mà việc vận chuyển khi xuất khẩu cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, xu hướng sử dụng một số đồ dùng chỉ qua một lần rồi vứt bỏ cũng là một điểm đáng lưu ý. Sản xuất hàng hóa kiểu ‘‘ăn chắc, mặc bền’‘ như chúng ta vẫn làm ngày càng trở nên không thực tế. Hiện nay, do hệ quả của lối sống công nghiệp, hiện đại, cuộc sống của người Tây Âu ngày càng được tổ chức gọn nhẹ, dễ mang. Thực tế là những bao gạo nặng tới 15-20 kg mà Việt Nam xuất khẩu sang EU đã không được ưa chuộng. Trong khi đó, Thái Lan đã rất nhạy bén khi xuất các bao gạo chỉ nặng có 1kg. Kênh phân phối: Đặc điểm của thị trường các nước EU là có sự thống trị của dây truyền phân phối hàng hóa, là những siêu thị lớn, và rất hiếm, nếu như không muốn nói là không có doanh nghiệp nào của VN có mối quan hệ tốt với những dây chuyền phân phối hàng hóa này để có thể đưa được hàng hóa của mình vào. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống cửa hàng và siêu thị của tập đoàn mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của hệ thống khác. Kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đoàn này ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập. Chính sách thương mại: Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát.v.v...Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Chính sách thương mại nội khối Chính sách thương mại nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới, lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan để tự do lưu thông hàng hoá, sức lao động, dịch vụ và vốn, điều hoà các chính sách kinh tế xã hội của các nước thành viên. Lưu thông tự do hàng hoá: Các quốc gia EU nhất trí xoá bỏ mọi loại thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu giữa các thành viên, xoá bỏ hạn ngạch áp dụng trong thương mại nội khối. Xoá bỏ tất cả các biện pháp tương tự hạn chế về số lượng, xoá bỏ các rào cản về thuế giữa các thành viên. Tự do đi lại và cư trú trên toàn lãnh thổ Liên minh: tự do đi lại về mặt địa lý, tự do di chuyển vì nghề nghiệp, nhất thể hoá về xã hội, tự do cư trú Lưu chuyển tự do dịch vụ: Tự do cung cấp dịch vụ, tự do hưởng các dịch vụ, tự do chuyển tiền bằng điện tín, công nhận lẫn nhau các văn bằng Lưu chuyển vốn tự do: Thương mại hàng hoá dịch vụ sẽ không thể duy trì được nếu vốn không được lưu chuyển tự do và được chuyển tới nơi nó được sử dụng một cách có hiệu quả kinh tế nhất. Chính sách thương mại nội khối của EU thường tạo cho các thành viên sự tự do như ở trong quốc gia mình. Điều này tạo cho các đối tác giao thương với EU thuận lợi trong việc tìm hiểu các đối tác mới của EU thông qua các đối tác truyền thống, ít phải điều tra ngay từ đầu, giảm chi phí cho việc tìm kiếm thị trường mới. Ngoài ra nếu có được quan hệ tốt với thị trường truyền thống, sẽ là điều kiện thuận lợi để thâm nhập vào thị trường mới dẽ dàng hơn. Chính sách ngoại thương:  Tất cả các nước thành viên EU phải áp dụng chính sách ngoại thương chung đối với ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương được xây dựng trên nguyên tắc: Không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN toàn phần cho sản phẩm nhập khẩu từ Ôxtrâylia, Canađa, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Dilân, Xingapo, Hoa Kỳ và các hiệp định ngành hàng song phương khác. Bên cạnh các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần trị giá và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, EU đã có cam kết cụ thể thực hiện theo lịch trình chung của GATs, kể cả lĩnh vực viễn thông cơ bản, tài chính và dịch vụ nghe nhìn. Thuế hải quan: Trong thị trường nội bộ EU, các nước thành viên EU không phải chịu thuế hải quan khi bán hàng của mình ở các nước thành viên EU khác. Nhập khẩu  hàng từ một nước ngoài EU vào EU có thể phải chịu thuế hải quan, và trong một số trường hợp phải theo hạn ngạch nữa, mặc dù mức thuế này thường chỉ là khiêm tốn. Tuy nhiên, đã có những hiệp định về tự do thương mại cũng như những ưu đãi tự định mà EU dành cho các nước không thuộc EU. Mức thuế áp dụng được tính bằng phần trăm của giá trị tính thuế của hàng hoá. Thuế đặc biệt đối với hàng nông nghiệp được tính theo số lượng hay trọng lượng hàng, hay bằng cách tính gộp cả phần trăm giá trị hàng và trọng lượng hàng. Khi hàng xuất xứ từ các nước ngoài EU đã vào khu vực EU và thủ tục hải quan đã hoàn tất, sản phẩm được phép lưu hành tự do trong toàn khu vực thị trường chung EU. Các nước đang phát triển đã được hưởng ưu đãi trong việc xuất khẩu hàng của họ sang các nước phát triển đã gần 40 năm nay. Chế độ ưu đãi phổ cập (GSP) là một trong những cơ chế ưu đãi. Theo chế độ này, sản phẩm nhập vào các nước EU từ các nước đang phát triển được hưởng giảm thuế. Hàng hoá theo chế độ GSP này được chia làm  hai loại: nhạy cảm và không nhạy cảm. Hàng công nghiệp, trừ các loại vải, chủ yếu thuộc loại không nhạy cảm, và không phải chịu thuế. Trong khi đó, phần lớn sản phẩm nông nghiệp thuộc loại nhạy cảm và chỉ được giảm thuế tới mức nhất định. Ngoài ra, những nước được hưởng ưu đãi khuyến khích đặc biệt vì có phát triển bền vững và quản trị tốt (GSP+) được miễn thuế cho tất cả các loại sản phẩm, kể cả loại hàng nhạy cảm. Những điều kiện tốt nhất được dành cho những nước Kém Phát triển Nhất (LDCs), ví dụ như không phải chịu thuế và hạn ngạch đối với tất cả các loại hàng hoá trừ vũ khí, theo hiệp định “Mọi hàng trừ vũ khí” đường, những mặt hàng sẽ được giảm dần cho đến khi ngừng hẳn vào cuối năm 2009. Ngoài ra, EU còn dành ưu đãi tự định cho Các nước và Vùng lãnh thổ ở Hải ngoại (OTCs). Điều này có nghĩa là họ luôn không phải chịu thuế nhập khẩu vào thị trường EU. Còn có những hiệp định tự do thương mại giữa EU và các nước ACP (Châu Phi, vùng biển Caribê, và vùng Thái Bình Dương), hiệp định này được dựa trên Hiệp định Đối tác Kinh tế (EPAs) hay thoả thuận tiếp cận thị trường tạm thời trước khi ký EPAs, mà trước đó gọi Hiệp định Cotonou. Ngoài ra, phải kể đến những chế độ ưu đãi thuế quan theo những Hiệp định Tự do Thương mại (EPAs) ví dụ như với Mexico, Chilê, Nam Phi và một số nước vùng Địa trung hải (các Hiệp định Euro - Địa Trung hải). EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào lãnh thổ mình như thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy phép, biện pháp tự vệ, quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, chống bán phá giá... Một số quy định hải quan đối với các hoạt động xuất nhập khẩu. Tự do lưu thông: Hàng hoá nhập khẩu vào EU được tự do lưu thông trên lãnh thổ 27 nước thành viên EU như hàng hoá được sản xuất tại EU sau khi đóng các khoản thuế nhập khẩu quy định. Gia công tại EU: Cho phép hàng bán thành phẩm hoặc nguyên liệu thô được nhập vào EU để gia công và được các nhà sản xuất của EU tái xuất khẩu trong EU mà các nhà sản xuất không cần phải nộp thuế hải quan và VAT đối với hàng hoá đó. Có 2 cách liên quan đến thuế là miễn thuế hoặc đóng thuế trước và được hoàn thuế. Gia công dưới sự quản lý của hải quan: Nghĩa là hàng hoá được gia công phải chịu mức thuế thấp hơn trước khi đưa vào tự do lưu thông (ví dụ các vật liệu nhựa PVC chịu mức thuế 8,3% có thể gia công thành phim với mức thuế chỉ 2,7%). Mức thuế nhập khẩu chênh lệch sẽ dành cho việc bảo tồn hoặc thêm mới các hoạt động gia công tại cộng đồng. Kho Hải quan: Kho hải quan cho phép doanh nghiệp giữ hàng nhập khẩu tại cộng đồng và lựa chọn thời gian đóng thuế hoặc tái xuất hàng hoá. Khối lượng công việc và gia công cho phép đối với hàng hoá lưu kho hải quan được khống chế trong phạm vi bảo quản hàng hoá. Tuy nhiên cũng có thể tiến hành gia công để bán vào cộng đồng hoặc gia công dưới sự kiểm soát của hải quan tại kho hải quan. Đối với hàng nhập khẩu, khu vực tự do được dùng như là nơi lưu kho đối với hàng hoá không có nguồn gốc cộng đồng cho đến khi hàng hoá này được đưa vào tự do lưu thông. Tạm nhập: Tạm nhập là hàng hoá có thể được sử dụng tại Cộng đồng mà không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế VAT theo một số điều kiện nhất định và phải tái xuất theo đúng tình trạng mà hàng hóa được nhập vào. Đối với loại này, EU cho phép sử dụng kê khai bằng lời (nghĩa là trả lời hải quan như trường hợp đối với hành lý xách tay). Tuy nhiên, hải quan có thể yêu cầu liệt kê danh sách hàng hoá để bổ sung cho việc khai bằng lời. Hàng quá cảnh: Luật hải quan EU cho phép hàng hoá được quá cảnh qua lãnh thổ hải quan EU nếu đáp ứng các quy định về thủ tục quá cảnh:( Gồm các bảo lãnh riêng; Các phương tiện vận chuyển; Các bản khai theo quy định; Hoàn thành các thủ tục tại hải quan xuất phát, trên đường và tại điểm đến; Các thủ tục kiểm soát hàng xuất cảnh.) Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng các thủ tục quá cảnh được đơn giản hoá gồm: Sử dụng giấy bảo lãnh toàn diện hoặc gia hạn bảo lãnh; Sử dụng danh sách vận chuyển đặc biệt; Sử dụng dấu niêm phong đặc biệt; Miễn áp dụng các quy định để sử dụng lộ trình theo yêu cầu; Quy chế người gửi hàng ủy quyền; Quy chế người nhận hàng ủy quyền; Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng cho việc vận chuyển hàng bằng tầu hoặc các công ten nơ loại lớn; Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng với hàng vận chuyển qua đường hàng không, hàng hải và qua ống dẫn. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của EU: Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo vệ khác hẳn với thị trường các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động giữa các thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. Hiện nay EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện định chuẩn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThị trường.doc
  • docbiểu đồ.doc
  • docmở đầu.doc
Tài liệu liên quan