Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Chương I. Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3

I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3

1. Sự cần thiết khách quan 3

2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 6

3. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 8

II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 9

1. Đối tượng bảo hiểm 9

2. Phạm vi bảo hiểm 11

2.1 Rủi ro được bảo hiểm 12

2.2 Các rủi ro loại trừ 12

3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 14

3.1 Giá trị bảo hiểm 14

3.2 Số tiền bảo hiểm 15

4. Phí bảo hiểm 15

4.1 Phí bảo hiểm 15

4.2 Phương pháp tính phí bảo hiểm 16

5. Hợp đồng bảo hiểm 19

6. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 22

7. Giám định và bồi thường 23

7.1 Giám định 23

7.2 Bồi thường 26

8. Bảo hiểm trùng 28

Chương II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO 29

I. Một số nét khái quát về công ty cổ phần bảo hiểm PJICO 29

1. Sự ra đời và phát triển 29

1.1 Sự ra đời 29

1.2 Cơ cấu tổ chức của PJICO 32

2. Kết quả hoạt động kinh doanh 35

2.1 Về kế hoạch kinh doanh chung của công ty 35

2.2 Về thị phần của công ty 37

2.3 Về công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo 38

3. Phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới 40

3.1 Những định hướng lớn năm 2003 40

3.2 Các mục tiêu kinh doanh năm 2003 40

3.3 Các nhiệm vụ chủ yếu 41

II. Phân tích thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO 42

1. Công tác khai thác 43

2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 49

3. Công tác giám định và bồi thường 52

3.1 Công tác giám định 52

3.2 Công tác bồi thường 56

4. Tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại pjico 60

5. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh 66

5.1 Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả 66

5.2 Phân tích kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO 68

Chương III. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 71

I. Kiến nghị 71

1. Về phía Nhà nước và các ngành có liên quan 71

2. Về phía công ty PJICO 71

II. Giải pháp 71

1. Đối với Nhà nước và các ngành có liên quan 71

2. Đối với công ty PJICO 73

2.1 Trong khâu khai thác 72

2.2 Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 74

2.3 Công tác giám định – bồi thường 75

2.4 Về tình trạng trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô 77

2.5 Một số biện pháp khác 78

Kết luận 80

 

doc94 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2445 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưởng bất kỳ ưu đãi nào như các doanh nghiệp cổ phần hoá, công ty PJICO đã tự lực tự cường phát huy hết nội lực của mình để tăng doanh thu. Bảng 3: Doanh thu của công ty PJICO (1997- 2002). Chỉ tiêu Năm Kế hoạch (tỷ đồng) Thực hiện (tỷ đồng) Thưc hiện/ kế hoạch (%) Tốc độ tăng so với năm trước (%) 1997 77,05 99,2 129 - 1998 114,08 117 103 18 1999 134,55 120 89 2,6 2000 138,00 144 104 20 2001 155,00 164,6 106 14 2002 186,20 211,9 114 28,7 ( Nguồn: Phòng tổng hợp ) Như vậy, doanh thu của công ty liên tục tăng, đồng thời công ty thường xuyên đạt vượt mức kế hoạch đặt ra. Để đạt được những thành công đó, ngay sau khi ra đời PJICO đã nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm, số lượng các nghiệp vụ ngày càng nhiều và đa dạng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm phong phú của khách hàng. Từ chỗ ban đầu công ty hầu như chỉ tiến hành bảo hiểm cho các khách hàng là các cổ đông, đến nay 77% doanh thu của công ty là từ khách hàng ngoài cổ đông. Công ty đã bảo hiểm và đồng bảo hiểm nhiều công trình lớn giá trị hàng triệu đôla Mỹ như khách sạn Hà Nội Daewoo, cao ốc HITC tại Hà Nội, Diamon Plaza tại TP. Hồ Chí Minh, nhiều gói thầu cầu, đường trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, đường xuyên á, nhà máy thuỷ điện Sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận- Đami, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO đã liên tục tham gia bảo hiểm tại PJICO. Ngoài ra, công ty đã có nhiều cố gắng tập trung khai thác mở rộng mạng lưới khách hàng bằng cách thành lập các chi nhánh, văn phòng bảo hiểm tại khắp các tỉnh thành phố trong cả nước. Đây cũng là một trong những nhân tố làm tăng trưởng doanh thu của công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng đã chú trọng sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư lại cho nền kinh tế thông qua việc cho khách hàng vay tín dụng, đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Từ khi thành lập công ty đã từng bước củng cố vị trí, chỗ đứng cũng như uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm. Trong 7 năm hoạt động doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân là 39%. Lợi nhuận: Tính đến ngày 31/12/2002 công ty đã tạo ra 72 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế và trên 35 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. Hàng năm chia lãi cổ tức cho các cổ đông ở mức ổn định bình quân 1,2%/tháng cao gấp 1,5 đến 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Bảo toàn và phát triển vốn: Sự tăng trưởng của PJICO không chỉ thể hiện qua lợi nhuận mà còn thể hiện thông qua sự tích luỹ vốn trong 7 năm hoạt động. Nguồn vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển. Vốn kinh doanh không ngừng được bổ sung bằng các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Đến ngày 31/12/2002 số dư quỹ dự phòng trên 85 tỷ và nâng vốn kinh doanh của công ty lên trên 135 tỷ gấp hơn 4 lần vốn góp ban đầu của các cổ đông. Thuế nộp ngân sách: Công ty bảo hiểm PJICO luôn thực hiện đầy đủ và làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước. Mặc dù mới được thành lập và cũng không được hưởng ưu đãi nào của Nhà nước nhưng sau 7 năm hoạt động công ty đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước trên 45 tỷ đồng. Đây là một doanh nghiệp mới được thành lập lại hoạt động dưới mô hình công ty cổ phần, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn, thị trường còn nhỏ. Nhưng với ý thức tự lực tự cường, quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng sự giúp đỡ của các ban ngành PJICO đã không ngừng vươn lên nhằm chiếm giữ thị phần, nâng cao uy tín của mình trên thị trường. Sự ra đời và hoạt động của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực Hà Nội và tại các địa phương mà công ty mở chi nhánh. 2.2 Về thị phần của công ty. Mặc dù mới hoạt động được hơn 7 năm, bên những doanh nghiệp có bề dày kinh nghiêm như Bảo Việt và hàng loạt các doanh nghiệp bảo hiểm mới được thành lập đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường diễn ra ngày càng gay gắt. Tuy nhiên với sự chỉ đạo của HĐQT, của các ban ngành có liên quan, sự ủng hộ hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các cổ đông sáng lập, các khách hàng và đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, công ty đã từng bước phát triển, tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bảng 4: Thị phần thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2002. STT Công ty Doanh thu (tỷ đồng) Tăng trưởng (%) Thị phần (%) 1 Bảo Việt 1.240 22,0 40,4 2 Bảo Minh 862 53,8 28,1 3 PVIC 445 193,0 14,5 4 PJICO 176 27,1 5,7 5 Bảo Long 34 30,7 1,1 6 PTI 113 22,0 3,7 7 Các công ty bảo hiểm khác - - 6,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2002) Từ số liệu trên ta thấy, thị phần của PJICO đứng thứ tư chỉ sau: Bảo Việt, Bảo Minh, PVIC. Tuy nhiên tiềm năng của thị trường vẫn còn rất lớn, công ty cần tập trung khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm. 2.3 Về công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo. Để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, công ty PJICO không chỉ tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, các thành phố lớn mà còn triển khai ở các tỉnh từ Bắc tới Nam. Trong năm 2002 công ty đã bỏ mô hình phòng quản lý bảo hiểm Hà Nội (mô hình tiền thân của chi nhánh hay hội sở Hà Nội) do hoạt động không hiệu quả. Các văn phòng bảo hiểm tại Hà Nội trước kia chịu sự quản lý của phòng quản lý bảo hiểm Hà Nội nay chịu sự quản lý trực tiếp của công ty. Công ty đã từng bước kiện toàn cán bộ lãnh đạo cho các phòng ban và các chi nhánh. Đặc biệt từ 1/9/2002 về cơ bản công ty đã phân cấp việc bổ nhiệm trưởng phó phòng ban thuộc chi nhánh cho giám đốc các chi nhánh. Công ty đã phân cấp toàn bộ việc tuyển dung, ký kết hợp đồng lao động có thời hạn cho các giám đốc chi nhánh nhằm tăng cường tính chủ động của các chi nhánh trong công tác lao động tiền lương. Công ty đã thực hiện việc trả lương kết hợp giữa hai hình thức: trả lương cơ bản và trả lương theo sản phẩm. Việc trả lương như vậy là rất phù hợp, thông qua hình thức trả lương này công ty có thể một mặt đưa ra những chính sách nhằm hỗ trợ và giữ cán bộ, mặt khác kích thích người lao động nâng cao hơn nữa năng suất khai thác, từ đó làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Ngoài ra công ty đã có những chính sách khen thưởng khích lệ kịp thời đối với những cá nhân, đơn vị đạt doanh thu cao trong công ty. Bảng 5: Thu nhập của cán bộ công nhân viên tại PJICO. Chỉ tiêu Năm Số lao động (người) Lương bình quân (triệu đồng/người/tháng) 1997 175 1,56 1998 200 1,73 1999 280 1,8 2000 300 1,82 2001 342 1,85 2002 372 1,85 ( Nguồn: Phòng tổ chức cán bộ) Như vậy thu nhập bình quân của người lao động là tương đối cao so với mức thu nhập chung của xã hội, đồng thời thu nhập của năm sau cao hơn năm trước. Điều đó thể hiện sự nỗ lực của bản thân những cán bộ công nhân viên, sự đoàn kết trong nội bộ công ty và sự quan tâm giúp đỡ của ban lãnh đạo công ty trong thời gian qua. Công ty đã tích cực tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên nhằm nâng cao hơn nữa kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, đồng thời có những chính sách hỗ trợ họ trong quá trình khai thác. Cụ thể trong năm 2002: Tại văn phòng công ty đã tổ chức một lớp đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, hai khoá đào tạo đại lý chuyên nghiệp, một khoá đào tạo nghiệp vụ giám định bồi thường bảo hiểm hàng hải và tài sản hoả hoạn, một khoá tập huấn nghiệp vụ kế toán cho tất cả các đơn vị. Công ty đã cử nhiều cán bộ đi học tập, tham dự hội thảo, tham quan tại nước ngoài về các lĩnh vực bảo hiểm, tái bảo hiểm, quản lý nhân sự. Nhìn chung công tác tổ chức cán bộ, lao động- tiền lương đã có sự thay đổi cơ bản nhằm tạo ra sự chủ động tốt cho các đơn vị, khuyến khích được các cán bộ khai thác trực tiếp, cán bộ công nhân viên gắn bó lâu dài với công ty. Tuy nhiên công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ của công ty vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về phát triển của công ty. Từ những kết quả đã đạt được ta có thể khẳng định rằng việc sáng lập công ty cổ phần bảo hiểm PJICO là một dự án đầu tư dài hạn và rất khả thi, vừa đạt hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội cao. 3. Phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới. 3.1 Những định hướng lớn năm 2003. Nâng cao năng lực cạnh tranh để tiếp tục phát triển và nâng cao thị phần. Thực hiện chiến lược phát triển kết hợp với kết quả, trong đó ưu tiên chiến lược phát triển (gia tăng, khách hàng, doanh số, thị phần ...) Đa dạng hoá danh mục đầu tư, phát triển mạnh việc tham gia đầu tư vào các công ty cổ phần có chất lượng và các dự án có hiệu quả cao... 3.2 Các mục tiêu kinh doanh năm 2003. Tổng doanh thu: 300 tỷ đồng, tăng trưởng 42% trong đó: Phí bảo hiểm gốc: 245 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2002. Thu nhận tái: 25 tỷ đồng, tăng 78%. Hoa hồng nhượng tái: 18 tỷ đồng, tăng 35%. Thu đầu tư: 12 tỷ đồng, tăng 26% Lợi nhuận trước thuế: 18 tỷ đồng, tăng 50%. Cổ tức: 15%. 3.3 Các nhiệm vụ chủ yếu: Tập trung mọi nguồn lực cho việc phát triển kinh doanh, phát triển khách hàng. Công ty sẽ xúc tiến mạnh mẽ các chương trình cụ thể để phát triển doanh thu từng nghiệp vụ bảo hiểm, đặc biệt là tập trung phát triển các nhóm khách hàng: Khai thác các đầu mối xuất nhập khẩu và các Tổng công ty có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn; Phát triển đội tầu PJICO (mục tiêu tăng thêm 10 - 15 tầu); tăng cường khai thác bảo hiểm cháy đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ; tập trung khai thác các dự án của ngành giao thông, điện lực, dệt may, xi măng, giấy, thép. Đẩy mạnh công tác đầu tư: + Sang năm 2003 sẽ xúc tiến đầu tư vào một số dự án khả thi: liên doanh xây dựng khách sạn tại Hạ Long; góp vốn vào công ty cổ phần đầu tư và phát triển đường cao tốc của Bộ Giao thông vận tải; tham gia mua cổ phần của một số công ty cổ phần hoá trong ngành xăng dầu, tiếp tục đầu tư trên thị trường chứng khoán. + Nghiên cứu thành lập công ty bất động sản PJICO, góp vốn xây dựng chung cư tại hai đô thị mới Yên Hoà, kinh doanh tại hai thành phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. + Đầu tư lợi thế thương mại của khu đất Khánh Hoà, hoàn thành việc huy động vốn điều lệ và tiếp tục thu hồi hết nợ, chỉ cho vay những đơn vị góp vốn cổ phần và doanh nghiệp Nhà nước. Xây dựng cơ bản: Xúc tiến việc xây dựng trụ sở tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh để hoàn thành vào năm 2004, xây dựng trụ sở PJICO Cần Thơ, PJICO Quảng Ninh, PJICO Huế, đầu tư đất tại một số chi nhánh chưa có trụ sở như: Đồng Nai, Thái Nguyên... Đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin trong công ty, coi đây là nhân tố quan trọng nâng cao chất lượng chỉ đạo điều hành và thực thi công việc, nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tiến phong cách làm việc và nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí hành chính... Tổ chức tốt Đại hội cổ đông vào tháng 4/2003 (chiến lược phát triển, sửa đổi điều lệ, bổ sung vốn điều lệ, nhân sự nhiệm kỳ 3). Kiện toàn một bước công tác tổ chức bộ máy và cán bộ lãnh đạo: xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch, quy hoạch cán bộ và đào tạo cán bộ cho giai đoạn 2003 - 2005. Kiện toàn một bước công tác giám định, bồi thường để nâng cao chất lượng dịch vụ chung, tăng cường công tác phòng chống trục lợi, đảm bảo tỷ lệ bồi thường thường xuyên chung dưới 50%. Tiếp tục triển khai trung tâm cứu hộ, sửa chữa xe cơ giới tại Hải Phòng. Phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp. II. phân tích Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO. Như trên đã phân tích, xe cơ giới bao gồm rất nhiều loại như; xe ôtô chở khách, xe ôtô chở hàng, xe máy, xe lam... Nhưng nhìn chung được chia thành 2 loại là xe ôtô và xe môtô (xe máy). Vì vậy nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng được chia thành 2 nghiệp vụ nhỏ là bảo hiểm vật chất xe ôtô và bảo hiểm vật chất xe máy. Nhưng thực tế tại PJICO loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới chỉ áp dụng đối với xe ôtô, không áp dụng đối với xe máy. Sở dĩ như vậy vì; - Xe môtô có giá trị nhỏ vì vậy khi tổn thất xảy ra, chi phí sửa chữa cũng không lớn như đối với xe ôtô, chủ xe có thể tự gánh chịu thiệt hại mà không gây ảnh hưởng lớn về mặt tài chính đối với chủ xe. - Còn về phía công ty, do số người tham gia bảo hiểm rất ít không đảm bảo được quy luật số lớn, vì vậy nếu có người tham gia thì phí bảo hiểm sẽ rất lớn. Hơn nữa đây là một nghiệp vụ rất khó kiểm soát và quản lý do tổn thất xảy ra nhỏ, vụn vặt. Như vậy, có thể thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe môtô không hiệu quả đối với cả người tham gia và cả công ty bảo hiểm. Hiện nay ở hầu hết các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ, trong đó có PJICO nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới chủ yếu tập trung vào bảo hiểm vật chất xe ôtô, nghiệp vụ này đã và đang rất phát triển. Để thấy được điều này chúng ta sẽ đi nghiên cứu sâu hơn về thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO. 1. Công tác khai thác. Khai thác là khâu đầu tiên và quan trọng nhất khi triển khai bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Khai thác quyết định doanh thu và hiệu quả kinh doanh của công ty, đồng thời nó có ảnh hưởng rất lớn đến các khâu còn lại của nghiệp vụ. Đối với bảo hiểm vật chất xe ôtô, khai thác chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng do đây là loại hình bảo hiểm tự nguyện, tỷ lệ rủi ro cao. Vì vậy khâu khai thác được công ty hết sức quan tâm. Công ty bảo hiểm PJICO ra đời vào đúng thời điểm thị trường bảo hiểm ở Việt Nam đang rất sôi động, ngày càng có nhiều các công ty bảo hiểm kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm Phi Nhân Thọ ra đời. Trong đó nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô luôn là nghiệp vụ mang lại doanh thu và lợi nhuận cao cho các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ. Đối với PJICO đây cũng là một nghiệp vụ mang lại doanh thu và lợi nhuận cao cho công ty, nhưng ngay từ khi ra đời nghiệp vụ này đã vấp phải sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Do vậy, một vài năm gần đây việc triển khai nghiệp vụ này gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt trong khâu khai thác. Khâu khai thác thực chất là quá trình vận động, tuyên truyền và giải thích cho chủ xe thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô. Từ đó tiến hành thẩm định, đánh giá rủi ro và đi đến kí kết hợp đồng, thu phí bảo hiểm. Có thể nói đây là công việc hết sức khó khăn đòi hỏi cán bộ khai thác phải vận dụng linh hoạt các chính sách về giá cả, sản phẩm, phân phối, dịch vụ sau khi bán..., phải làm tốt công tác này để thu hút ngày càng đông số người tham gia bảo hiểm, từ đó mới đảm bảo quy luật “số đông bù số ít”, giúp cho công ty tồn tại và phát triển. Việc thu hút ngày càng nhiều các chủ xe tham gia bảo hiểm có vai trò đặc biệt quan trọng, từ đó làm tăng quỹ tài chính bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bồi thường khi xe không may gặp phải rủi ro gây thiệt hại về mặt tài sản, nhanh chóng ổn định về tài chính cho khách hàng. Từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ của công ty, đem lại lòng tin cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm. Chính sự hài lòng của khách hàng sẽ tạo ra sức cạnh tranh mới cho sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó, việc tăng quỹ tài chính bảo hiểm còn giúp công ty trang trải các chi phí như chi đề phòng- hạn chế tổn thất, chi hoa hồng, chi quản lý... đồng thời mang lại lợi nhuận cho công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của khâu khai thác, công ty đã đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các biển quảng cáo để giúp các tầng lớp dân cư có nhận thức sâu hơn về mục đích và ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm vật chất xe ôtô từ đó nâng cao tính tự giác tham gia bảo hiểm của các chủ xe. Bên cạnh đó công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động của mình, tới nay công ty đã có trên 20 chi nhánh, 400 văn phòng đại diện, tổng đại lý và đại lý khắp cả nước để thực hiện việc giới thiệu và chào bán các sản phẩm bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, thực hiện việc thu phí một cách nhanh chóng, tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm một cách thuận tiện, dễ dàng và tốn ít thời gian nhất. Với sự cố gắng phấn đấu hết mình của ban lãnh đạo công ty cùng với sự lỗ lực không mệt mỏi của các cán bộ công nhân viên, các đại lý, tổng đại lý, các chi nhánh, văn phòng trên khắp cả nước, PJICO đã đạt được một số kết qủa về công tác khai thác trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô như sau: Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng; số xe lưu hành trong cả nước liên tục tăng với tốc độ ngày càng cao, đặc biệt năm 2002 tăng 37,16% so với năm 2001 (tương ứng với 223.480 xe) đưa tổng số xe cả nước lên 825.000 xe. Sở dĩ số lượng xe tăng nhanh là do; đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách đổi mới khuyến khích phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty, tổ chức trong nước và nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam; đồng thời xã hội càng phát triển thì nhu cầu đi lại của người dân ngày càng cao...chính những điều này đã làm cho nhu cầu vận chuyển ngày càng cao, vì vậy trong thời gian gần đây số lượng xe ôtô tăng lên một cách nhanh chóng. Từ đó đã khẳng định được sự cơ động, tính linh hoạt của các phương tiện xe cơ giới nói chung và xe ôtô nói riêng. Có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng đối với các công ty bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam trong đó có PJICO. Mặc dù số xe lưu hành tăng với tốc độ cao nhưng số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO vẫn ở mức thấp, chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng xe đang lưu hành. Cụ thể; năm 1997, 1998 tỷ lệ khai thác ở mức thấp tương ứng là 0,57% và 0,59% đồng thời tốc độ phát triển của xe tham gia bảo hiểm cũng ở mức thấp 10,82%. Sở dĩ như vậy là vì; mặc dù thành lập vào năm 1995 nhưng trong những năm đầu công ty hầu như chỉ triển khai trong phạm vi nội bộ các cổ đông, chỉ đến cuối năm 1996 đầu năm 1997 công ty mới bắt đầu triển khai rộng rãi ra bên ngoài do vậy các cán bộ khai thác chưa có kinh nghiệm, lòng tin của khách hàng đối với công ty còn bị hạn chế. Tuy nhiên bước sang năm 1999, 2000, 2001 và các năm tiếp theo công ty đã từng bước tạo được lòng tin cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm, đặc biệt với sự lỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, công ty đã từng bước phát triển, tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong xu thế phát triển chung của toàn công ty, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô cũng ngày càng khẳng định được vị trí của mình. Cụ thể; tỷ lệ khai thác năm 1999 là 0,78%, năm 2000 là 0,94% và năm 2001 là 1,26% đưa doanh thu phí bảo hiểm từ 7.432 triệu đồng vào năm 1997 lên đến 22.802 triệu đồng vào năm 2001 tăng 7.330 triệu đồng so với năm 2000. Đặc biệt năm 1999 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tài chính của các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đồng thời tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước ở mức thấp nhưng tốc độ tăng của xe tham gia bảo hiểm tại PJICO vẫn vươn lên và đạt mức 40,26%, với tỷ lệ khai thác đạt 0,78%. Đây là minh chứng thật sự cho sự phát triển vững chắc của PJICO tạo đà cho sự phát triển của những năm tiếp theo. Năm 2002, do phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt hơn từ phía các công ty khác, vì vậy tỷ lệ khai thác năm 2002 bị sụt giảm chút ít so với năm 2001 xuống còn 1,15%. Tuy nhiên do tốc độ phát triển của số xe lưu hành năm 2002 là rất cao so với năm 2001 và đạt 137,16% (tăng 37,16% so với năm 2001) nên tốc độ tăng của xe tham gia bảo hiểm vẫn đạt 24,42% đưa doanh thu phí bảo hiểm năm 2002 lên đến 30.370 triệu đồng. Chi phí khai thác bình quân/ 1 xe tham gia bảo hiểm nhìn chung là tương đối cao. Đặc biệt năm 1997 do mới tiếp cận với thị trường ngoài cổ đông vì vậy chi phí khai thác bình quân/1 xe tham gia bảo hiểm là 109.810 đồng/xe. Nhưng chi phí này đã được giảm vào những năm tiếp theo, do công ty đã có được những mối quan hệ tốt với khách hàng vì vậy tỷ lệ tái tục hợp đồng vào những năm tiếp theo cao từ đó làm giảm chi phí khai thác của công ty. Tuy nhiên năm 1999 do chịu ảnh hưởng của nền kinh tế vì vậy để khai thác được một hợp đồng bảo hiểm mới phải bỏ ra chi phí nhiều hơn, mức tăng chi phí cho những hợp đồng mới đó đã làm tăng chi phí bình quân/1 xe tham gia bảo hiểm. Năm 2000, cán bộ khai thác đã cố gắng tiết kiệm, tránh lãng phí trong khâu khai thác do đó chi phí khai thác bình quân/ 1 xe giảm xuống còn 96.179 đồng/xe. Đến năm 2001, 2002 do các công ty bảo hiểm ra sức cạnh tranh do đó chi phí khai thác như chi phí chăm sóc khách hàng, chào hàng...tăng cao, đã làm cho chi phí khai thác bình quân tăng, cụ thể năm 2001 là 100.645 đồng/xe và năm 2002 là 107.222 đồng/xe. Những con số năm 2002 cho thấy thị trường bảo hiểm vật chất xe ôtô ở Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn. Doanh thu phí bảo hiểm những năm qua đã tăng trưởng cao và ổn định, PJICO đã tìm được những khách hàng lớn trung thành với công ty, cho đến nay công ty không còn phụ thuộc vào lượng khách hàng là các thành viên như trước đây. Tuy nhiên công ty cần không ngừng mở rộng quan hệ, tìm kiếm khách hàng để củng cố hơn nữa năng lực tài chính của mình. Mặc dù trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô công ty đã gặp rất nhiều khó khăn và còn nhiều tồn tại. Tuy nhiên với sự phấn đấu không mệt mỏi, doanh thu của nghiệp vụ này đã giữ vị trí quan trọng trong tổng doanh thu của toàn công ty. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Nhìn vào số liệu bảng 7 ta thấy doanh thu của tất cả các nghiệp vụ đều có xu hướng tăng, đặc biệt doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô từ năm 1997 đến năm 2000 chiếm một tỷ lệ khá cao trong cơ cấu doanh thu và giao động từ 8,64% đến 13%, tuy nhiên trong thời gian này doanh thu của nghiệp vụ này vẫn chỉ đứng thứ hai sau doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu. Mặc dù vậy từ năm từ năm 1997 đến năm 2000 doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô vẫn tiếp tục tăng một cách ổn định và đến năm 2001, 2002 doanh thu từ nghiệp vụ này đã có những bước đột phá lớn, từ chỗ chiếm 13% tỷ trọng trong cơ cấu doanh thu thì năm 2001, 2002 con số đó đã lên đến 16,49% và 17,28% vươn lên đứng vị trí hàng đầu trong số các nghiệp vụ bảo hiểm mà công ty đã triển khai. Qua phân tích ta thấy về công tác khai thác có thể thấy PJICO đã từng bước khẳng định được vị trí và chỗ đứng của mình, đặc biệt trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô. Điều đó được thể hiện rất rõ qua số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm và doanh thu phí của nghiệp vụ tăng khá đều đặn, tỷ lệ tái tục lớn. Tuy nhiên so với tổng số xe lưu hành thì số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO còn rất nhỏ. Mà nguyên nhân đầu tiên phải kể đến những đối thủ cạnh tranh của công ty như Bảo Minh, PVIC, PTI... và đặc biệt là Bảo Việt, Bảo Việt có mạng lưới phân phối trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, họ có bề dày kinh nghiệm trong quản lý và khai thác. Chính vì vậy mà kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô ở Bảo Việt rất cao. 2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Theo thống kê của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, hàng năm số vụ tai nạn giao thông ở nước ta liên tục tăng lên trong đó số vụ tai nạn giao thông đường bộ đặc biệt nghiêm trọng đang có xu hướng gia tăng. Năm 1999 là 20.733 vụ, năm 2000 là 23.587 vụ, năm 2001 là 25.040 vụ và năm 2002 con số này đã lên tới 29.386 vụ. Tai nạn giao thông không chỉ gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho chính các chủ phương tiện tham gia giao thông không may gặp rủi ro mà còn gây thiệt hại lớn cho xã hội. Hàng năm tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người dân và gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng về tài sản, vì vậy nó luôn là mối đe doạ lớn đối với mọi thành viên trong xã hội. Nhằm hạn chế thiệt hại và tai nạn giao thông xảy ra các công ty bảo hiểm đã và đang có những đóng góp hết sức tích cực, trong đó có PJICO. Kể từ khi được thành lập PJICO đã rất chú trọng đến công tác đề phòng và hạn chế tổn thất vì đây là khâu không thể thiếu được của bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào. Nó không chỉ là trách nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng như các chủ phương tiện giao thông- người đóng vai trò trực tiếp trong công tác đề phòng tai nạn và khắc phục hậu quả khi không may gặp rủi ro mà quan trọng hơn nó còn là quyền lợi của các công ty bảo hiểm vì nếu thực hiện tốt khâu này sẽ góp phần làm giảm số vụ tai nạn xảy ra từ đó làm giảm chi bồi thường của nghiệp vụ này, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho công ty. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác đề phòng- chế tổn thất, trong những năm qua hàng năm PJICO đã trích một khoản tiền nhất định từ doanh thu phí để thực hiện công tác này. Cụ thể tình hình thực hiện công tác đề phòng- hạn chế tổn thất ở PJICO được thể hiện qua bảng sau: Qua số liệu bảng 8 ta thấy: chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất năm 1997 là 445 triệu đồng (tương ứng với 5,99% doanh thu), năm 1998 tăng lên là 517 triệu đồng (tương ứng với 6,21% doanh thu), năm 1999 là 734 triệu đồng (tương ứng với 6,34% doanh thu), năm 2000 tăng lên là 1.008 triệu đồng (chiếm 6,51% doanh thu), năm 2001 là 1.521 triệu đồng (chiếm 6,67% doanh thu) và đến năm 2002 con số này là 2.077 triệu đồng (chiếm 6.84% doanh thu). Như vậy chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất của nghiệp vụ này ngày càng tăng một cách tuyệt đối đồng thời chiếm một tỷ lệ ngày càng cao trong doanh thu nghiệp vụ. Qua đó có thể khẳng định rằng công ty ngày càng quan tâm hơn đến công tác đề phòng- hạn chế tổn thất, đồng thời còn một nguyên nhân khác nữa là số vụ tai nạn xảy ra ngày càng nhiều hơn khiến cho chi hạn chế tổn thất ngày càng lớn. Mặ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13038.DOC
Tài liệu liên quan