Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới

Mục lục

trang

- Lời mở đầu .2

- Nội dung .4

Chương I Những vấn đề cơ bản về .4

1.1 Lý thuyết về cạnh tranh trong thương mại quốc tế. .4

1.1.1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong thương mại quốc tế 4

1.1.2 Bản chất của cạnh tranh. .5

1.1.3 Vai trò của cạnh tranh 5

1.2. Cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế 6

1.2.1 Khái niệm và phân loại cạnh tranh .6

1.2.2 Nội dung và công cụ cạnh tranh sản phẩm 8

1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh sản phẩm 9

Chương II Thực trạng khả năng cạnh tranh .11

2.1 Khái quát về tình hình xuất khẩu gạo .11

2.1.1 Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới. .11

2.1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam .14

2.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo .24

2.3. Những hạn chế trong khả năng cạnh tranh .38

Chương III Một số biện pháp 42

3.1. Biện pháp đối với thị trường trong nước .42

3.2 Biện pháp đối với thị trường ngoài nước .43

3.3 Biện pháp đối với việc sản xúât gạo. .44

3.4. Xây dựng thương hiệu .44

- Kết luận .46

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2659 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng lực sản xuất nông nghiệp, góp phần khai thông nhanh đầu ra cho sản phẩm lúa của nông dân, thu hút nhiều lao động nông thôn vào các khâu xay xát, chế biến, kho tang,vận chuyển. - Bảo đảm an ninh lương thực, cung cấp nguồn lương thực 80 triệu dân. Việt Nam là quốc gia đông dân, gạo là nguồn lương thực chính cho hơn 90% dân số thời gian qua tình hình phát triển sản xuất và sản lượng tăng nhanh chóng đã đảm bảo an ninh lương thực việt nam. Lượng xuất khẩu gạo của Vịêt Nam chiếm tỷ trọng 13% đến 15% tổng lượng xuất khẩu thế giới đã góp phần và bảo đảm an ninh lương thực thế giới. - Cung cấp nguồn nguyên nhiên liệu cho ngành chế biến thức ăn gia súc, các nghành công nghiệp thực phẩm khác. Với lượng sản xuất thực tế hàng năm trên 32 triệu tấn lúa, ngành sản xuất lương thực là nền tảng cung cấp nguyên liệu dồi dào cho các ngành công nghiệp thực phẩm, các ngành chế biến thức ăn gia súc. 2.1.2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam. 2.1.2.2.1 Mặt mạnh. *Chính sách đổi mới kinh tế của nhà nước nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý việc ra đời Nghị quyết 10 của bộ chính trị về “Đổi mới quản lý nông nghiệp” đã tạo ra động lực nông dân đã đánh thức tiềm năng của nền nông nghiệp Việt Nam.các điểm cốt lõi của nghị quyết 10 (sau này gọi là khoán 10) như sau: - Thừa nhận sự tồn tại của bình đẳng của các thành phần kinh tế. - Khẳng định hộ gia đình và xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ. - Khuyến khích gia đình và xã viên làm giàu theo phương châm: “Ai giỏi nghề gì làm nghề đó” . - Hợp tác xã thực hiện khoán ruộng đất cho gia đình xã viên với diện tích ổn định trong 10-15 năm và mức khoán ổn định trong 5 năm. - Bảo đảm cho hộ xã viên được hưởng 40% sản lượng khoán trở lên. Với khoán 10 sức sản xuất trong nông nghiệp được giải phóng. nhờ vậy làm tăng diện tích và tăng năng suất lao động do đó sản lượng lương thực, thực phẩm cũng tăng lên. * Khả năng cạnh tranh mạnh -Khả năng cạnh tranh mạnh của Việt Nam dựa vào + Ưu thế về diều kiện tự nhiên, đặc biệt là độ phì nhiêu của đồng bằng song Cửu Long. + Chí phí nhân công rẻ, nông dân Việt Nam cần cù, chịu khó thông minh và sang tạo, tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật . + Chi phí cố định để sản xuất gạo còn rẻ, do chi phí đầu tư và sử dụng đất canh tác thấp, thuế nông nghiệp được nhà nước ưu đãi. + Chi phí tiêu thụ tương đối thấp nhờ vào hệ thống xay xát và hệ thống vận chuyển đường thuỷ đã được thiết lập. Ngoài những yếu tố thuận lợi dọ thiên nhiên mang lại , yếu tố con người giữ vị trí quyết định người nông dân ĐBSCL đã bao đời gắn bó với cây lúa, có nhiều kinh nghiệm trồng lúa, cần cù chịu khó nhạy bén với kỹ thuật mới và đã quen với nền sản xuất hàng hoá từ những năm trước 1975. Theo đánh giá của FAO thì ĐBSCL không chỉ là vựa lúa lớn của Việt Nam mà còn có thể là vựa lúa lớn trong khu vực và trên thế giới. 2.1.2.2.2 Mặt yếu. * Cơ sở vật chất còn thiếu và yếu kém. - Tổng mức vốn đẩu tư còn thấp , tỷ lệ phân bố vốn đẩu tư giữa các thành phần kinh tế trong nông nghiệp vẫn chưa hợp lý đầu tư cho cơ giới hoá nông nghiệp chưa hợp lý: tập trung cơ giới lớn, xem nhẹ cơ giới nhỏ và công cụ cầm tay. -Về điện, điện cung cấp cho nộng nghiệp còn hạn chế nên diện tích lúa gieo trồng bị hạn, bị úng không được tưới , tiêu kịp thời nhất là vào các thời kỳ cao điểm. - Về phân bón thuốc trừ sâu nhà nước cung cấp cho nông dân trong những năm gẩn đây tuy có tăng lên nhanh nhưng còn rất thấp so với nhu cầu đáp ứng khoảng 60%và cung cấp không kịp thời. - Cơ khí phục vụ cho nông nghiệp còn rất yếu kém: thiếu các loại máy móc ngay cả những loại thông thường như máy bơm thuốc, bơm nước, máy kéo, bình bơm thuốc trừ sâu loại lớn. - Thiết bị hầu hết của các đơn vị đã cũ và lạchậu, phân tán nhỏ trong thời gian dài chưa được đầu tư nâng cấp đúng mức để đảm bảo chất lượng gạo theo yêu cầu của thị trường thế giới. - Việc ta không đủ năng lực nhận tàu cỡ lớn vào ăn gạo để đi xa, ta chưa thực hiện tốt cam kết hợp đồng xuất khẩu gạo với nước ngoài, giao hàng không đủ, khôn đúng chất lượng tốc độ giao hàng chậm là những nguên nhân quan trọng làm cho ta chịu thua thịêt đáng kể trong giá gạo xuất khẩu. -Về cơ chế quản lý nông nghiệp chậm đổi mới nên đã kìm hãm sự phát triển sức sản xuất nông nghiệp nới chung và sản xuất lương thực nói riêng. * Chất lượng gạo còn kém. - Độ trắng của gạo không đồng đều. - Tỷ lệ thóc còn cao thường từ 30-50 hạt/kg và còn lẫn tạp chất. - Gạo hè thu thường có độ ẩm cao từ 140,5-150,5. - Tỷ lệ hạt bạc bụng còn cao và không đồng đều trong các lô hàng. - Tỷ lệ hạt hư và biến màu thường cao vào mùa mưa. -Tỷ lệ độ gãy không đồng đều. - Các điều kiện đóng gói, bao bì, bốc xếp, bảo quản chưa tốt làm giảm chất lượng gạo xuất khẩu. *Chưa có uy tín trên thương trường gạo thế giới. Thời hạn giao hàng không đảm bảo lượng gạo Việt Nam tuy nhiều nhưng khó tập trung đến cảng trong thời gian quy định do: - Các doanh nghiệp quốc doanh thiếu vốn thu mua. - Bộ nông nghiệp khộng nắm chắc được chính xác và kịp thời tình hình cung cầu trên thị trường. - Cung cấp gạo không đúng hợp đồng đã ký kết thường vi phạm chất lượng và thời gian gịao hàng. *Công tác tiếp thị còn yếu kém. -Do số lượng gạo giạo dịch mua bán trên thế giới ngày càng có nhiều hạn chế nên tính cạnh tranh để giành thị trường và thương nhân trở nên ngày càng gay gắt hơn. - Nhiều doanh nghiệp có trình độ nghiệp vụ chuyên môn xuất khẩu còn yếu thiếu thông tin thiếu kinh nghiệm nhưng không biết hợp tác giúp đỡ lẫn nhau lại còn cạnh tranh giành khách hàng, thị trường để chọ thương nhân nước ngoài lợi dụng ép giá gây thiệt hại cho nhà nước và nông dân. - Do thị trường xuất khẩu gạo của ta chưa ổn định khâu tiếp thị quảng cáo còn yếu. *Cơ chế xuất khẩu gạo còn chưa phù hợp. - Hệ thống tiếp thị gạo xúât khẩu qua nhiều trung gian, không thì chờ các công ty nước ngoài vào tranh bán. Xuất khẩu gạo nhiều khi trở thành mục tiêu giành giật giữa các doanh nghiệp. Trong mấy năm qua cơ chế quản lý xuất khẩu gạo đã có nhiều chuyển biến tuy nhiên vẫn chưa hoàn chỉnh và ổn định có lúc còn cứng nhắc thiếu linh hoạt thiếu nhất quán gây trở ngại và khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác cơ chế quản lý còn chưa chặt chẽ bộc lộ nhiều sơ hở gây ra nhiều tiêu cực như: + Việc mua bán quota xuất khẩu. + Cạnh tranh xuất khẩu trong nội bộ các doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài tạo cơ hội cho khách hàng ép giá. + Tìm cách để bán gạo dưói mức giá chỉ đạo bằng cách nâng giá hàng nhập khẩu ( phân bón, xăng dầu…) hoặc hoàn lại một phần tiền hàng cho khách dưới nhiều hình thức tinh vi. Tất cả những thực trạng nêu trên là nguyên nhân chính làm giá gạo Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trên thế giới. Do đó chúng ta cần tìm hướng khắc phục được những hạn chế này và phát huy những lợi thế trong nước để gạo xuất khẩu của nước ta ngày một tăng cả về chất và lượng. 2.1.2.2.3 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam. Năm 2005 lần đầu tiên xuất khẩu gạo đạt mức trên 5 triệu tấn thu về cho đất nước hơn 1,34 tỷ USD giá gạo bình quân đạt 267 USD/tấn. Đây là múc cao nhất đạt được trên cả ba chỉ tiêu lượng, kim ngạch, giá cả xúât khẩu kể từ khi Việt Nam tham gia vào thị trường xuất khẩu gạo thế giới. So với năm 2004 lượng gạo xuất khẩu tăng gần 1triệu tấn (25%), kim ngạch tăng trên 400 triệu USD(45%) và giá cả tăng 48 USD/tấn (15%).Đây là năm thứ 17Việt Nam liên tục xuất khẩu gạo và là năm thứ ba đạt lượng gạo trên 4 triệu tấn năm thứ hại đạt kim ngạch trên 1tỷ USD và giữ vững vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo. Gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh về lượng và kim ngạch. Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia xuất khẩu gạo vào thị trường thế giới với số lượng 1,42 triệu tấn, giá bình quân 204 USD/tấn và thu về cho đất nước 189 triệu USD. Thời kỳ 5 năm (1991-1995) là 1,734 triệu tấn /năm và tăng nhanh trong thời kỳ 5 năm(1996-2000) với mức 3.663 triệu tấn/năm.Trong thời kỳ 5 năm đầu thế kỷ XXI (2001-2005) lượng gạo xuất khẩu bình quân trong thời kỳ này là 3,706 triệu tấn/năm. Nếu so năm đầu xuất khẩu gạo(1989) thì lượng gạo xuất khẩu năm 2005 gấp 3,57lần, giá gạo tăng gấp 63USD/tấn (267-204USD) và kim ngạch tăng gấp 7,3 lần (1382/189 triệu USD). Bảng 2: Kết quả xuất khẩu gạo qua một số năm. Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1995 1998 1999 2000 2004 2005 Số lượng triệu tấn 1,03 2,06 3,08 4,5 3,5 4,05 5,16 Kim ngạch triệuUSD 234,5 530,2 1100 1200 667 941 1382 Giá xuất khẩu USD/tấn 226,9 257,8 268,5 266,6 190,6 233,5 268 Nguồn: Bộ NN&PTNT Bên cạnh số lượng thì ta cũng cần quan tâm đến chất lượng gạo xuất khẩu. Khoảng 10% gạo xuất khẩu không rõ phẩm cấp và khoảng dưới 1% là gạo xuất khẩu dưới dạng đã nấu. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam đuợc phân loại căn cứ theo tỷ lệ tấm. Gạo có chất lượng cao ( hạt dài, ít bạc bụng ) tỷ lệ tấm thấp (từ 5-10%) chiếm tỷ trọng lớn có xu huớng tăng dần, đến năm 1998 khoảng 70%, trong khi đó gạo có chất lượng trung bình (hạt tròn, bạc bụng) tỷ lệ tấm cao trên 10% chiếm tỷ trọng bé và có xu hướng giảm dần, đến năm 2001 nước ta xuất khẩu khoảng 3,7 triệu tấn gạo trong đó gạo 25% tấm chiếm 32%, gạo 100% tấm chiếm 5% mặc dù gạo chất lượng thấp thường chiếm tỷ lệ khá cạo trong tổng lượng xuất khẩu song năm 2001 gạo chất lượng cao (5%)tấm đã chiếm trên 25% trong tổng lượng gạo xuất khẩu. Nhờ vào những đầu tư trong khâu giống, áp dụng những giống lúa mới, cải tiến áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các giai đoạn gia công sau vụ mùa thu hoạch, chế biến, tích trữ và vận chuyển cho nên chất lượng của gạo xuất khẩu Việt Nam đã được nâng lên một cách đều đặn trong suốt thời gian qua và đã thoả mãn thị hiếu của người tiêu dùng, xâm nhập được một số thị trường chất lượng cao. Gạo Việt Nam hiện nay đã xây dựng được vị thế của mình và đã được chấp nhận ở nhiều khu vực thị trường. Nếu trước đây, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gạo trắng với tỷ lệ gạo tấm vào khoảng 15% và 25%, độ xay xát bình thường, thì những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu được các loại gạo 2% tấm, 5% tấm hạt dài, độ bóng tốt. Đặc biệt, Việt Nam đã xuất được các loại gạo cao cấp cho các thị trường như Iran, Nhật và Hàn Quốc. Chất lượng gạo xuất khẩu Việt Nam trong những năm qua thể hiện qua bảng sau:  Bảng 3: Tỷ trọng chất lượng loại gạo xuất khẩu. 5%-15% gạo tấm  25%-35% và gạo tấm  1989-1995 55,3%  44,7%  2000 68,3%  36,1%  2002 71,8%  28,2%  2004 71,9%  28,1%  Nguồn: Hiệp hội lương thực Việt Nam    Bảng trên nói lên rằng việc xuất khẩu gạo có chất lượng cao và trung bình của Việt Nam đã gia tăng; ngược lại, xuất khẩu gạo chất lượng thấp thì giảm dần dần. Thực tế này cho thấy rằng gạo Việt Nam đã được cải tiến dần về chất lượng để thoả mãn xu hướng tiêu thụ trên thị trường thế giới. Bên cạnh mặt hàng gạo trắng, Việt Nam đang từng bước xâm nhập vào thị trường gạo thơm thế giới. Năm 2004, Việt Nam đã xuất khẩu gạo thơm hơn 100 ngàn tấn.  Giá gạo xuất khẩu Việt Nam cũng tăng dần cùng với xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Gía gạo xuất khẩu bình quân 4 năm 1995-1998 là 269USD/tấn tăng 61USD/tấn so với giá bình quân 6 năm trước đó (1989-1994). Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40-55USD/tấn những năm 1989-1994 xuống còn 20-25USD/tấn những năm 1995-2000. Đến năm 1998 do đồng Bath của Thái Lan mất giá nên giá gạo của Việt Nam đã tiếp cận giá gạo Thái Lan tuỳ theo từng loại từng thời điểm tại thời điểm tháng 4/98 gạo Việt Nam loại 5% tấm là 310-315 USD, loại 25% tấm là 265-270USD tấn so với giá 310-320USD và 265-275 USD/tấn của Thái Lan so với hai loại gạo tuơng ứng. Đã có lúc giá gạo Việt Nam đã cao hơn giá gạo của Pakistan 8% đến 10% (1997). Tuy nhiên giá gạo của Việt Nam so với các nước khác trên thế giới còn thấp. Về thị trường xuất khẩu gạo: Thị trường xuất khẩu gạo của Vịêt Nam ngày càng được mở rộng. Năm 1991 gạo của Việt Nam xuất khẩu sang trên 20 nước, năm và xuất sang trên 50 nước, hiện nay gạo của việt Nam đã xuất sang trên 50nước, hiện nay gạo của Việt Nam đã xuất sang trên 80 nước và có mặt ở tất cả các Châu Lục trên thế giới. Thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là khu vực Châu Á kế đến là Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Đại Dương. Những nứoc nhập khẩu lớn của Việt Nam (1991-1997) là Inđonexia Trung Quốc, Philippin, Cuba, Malaysia, Iran, Pêru, Irăc, Srilanka, SNG, Senegan…. Trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng 3,7 triệu tấn, chủ yếu vẫn là xuất sang Châu Á (52%), Châu Âu (20%) và Trung Đông (12,7%), Châu Phi (8%), Châu Mỹ1(6%),Châu Đại Dương(1%), 5 nước đứng đầu trong danh sách nhập khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2001 đó là: Inđônêxia (14,8%), Philippin (12,6%), Xingapo (9,9%), Irăc (9,8%) và Thuỵ Sĩ(8,4%). Bảng 4: Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam 2001-2003 2001 2002 2003 Lượng Kim ngạch Lượng Kim ngạch Lượng Kim ngạch Tổng số 3729,5 624,7 3240,9 725,5 3813,3 720,5 Châu Mỹ 46,5 7,2 302,8 52,3 Nước Mỹ 46,3 7,2 21,6 5,7 Châu Âu 402,4 61 240,1 43,9 193,0 34,2 EU 21.2 3,3 6,5 1,2 7,1 1,2 Đông Âu 320,9 49,6 221,1 40,8 163,3 29,1 Châu Á 2198,5 394,6 2395,6 579,3 2395,2 461,8 ASEAN 1564,8 249,1 1479,8 295,8 2115,2 388,7 Trung Đông 544,3 131,0 890,9 278,9 229,5 64,1 Nhật Bản 26 4,1 5,1 1,0 46,7 8,1 Trung Quốc 32,5 8,2 14,8 2,8 3,2 0,8 C. Đại Dư 2,9 0,5 11,4 2,1 1,7 0,4 Các nước # 1392,4 205,2 291,4 48,0 1223,3 224,2 Nguồn: Tổng Cục Hải quan. 2.2. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo. * Sản xuất lúa. Sản lượng, năng suất. Thái Lan là nước sản xuất lúa và xuất khẩu lúa gạo lớn nhất.Trong giai đoạn cuối thập kỷ, các nước xuất khẩu gạo lớn đều có xu hướng tăng diện tích lúa gạo, cao nhất là Việt Nam với 25,4%.Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, hầu hết các nước trong khu vực đều có xu hướng giảm diện tích lúa (trừ Cambodia). Bảng 5: Diện tích và năng suất sản xuất gạo ở một số nước. Nước Diện tích 2004 (1000ha) Tốc độ tăng trưởng diện tích Năng suất 2004 (tấn/ha) Tốc độ tăng trưởng năng suất 1995-2000 2001-2005 1995-2000 2001-2005 CPC 2098,6 -0,08 2,64 1,99 3,48 -1,28 TQ 28327 -0,5 -1,57 6,26 0,81 0,02 Ấn Độ 42300 0,89 -1,21 3,05 1,15 1,92 Myanma 6000 1,11 -1,19 3,67 2,60 2,08 Thái Lan 9800 1,73 -0,2 2,75 1,64 1,30 ViệtNam 7443,8 2,54 -0,73 4,85 2,84 3,44 Nguồn: FAO Trong các nước sản xuất lúa gạo, năng suất của Việt Nam tương đối cao so với Ấn Độ, Myanma (4,85>3,67>3,05) và các đối thủ cạnh tranh là Thái Lan. Điều này cho thấy lợi thế của Việt Nam so với các nước xuất khẩu khác. Tuy nhiên, Thái Lan năng suất thấp hơn Việt Nam (2,75<4,85) là do sản xuất lúa chủ yếu là quảng canh. Hơn nữa, Thái Lan tập trung vào lúa gạo chất lượng cao vì thế thời gian nuôi cấy lâu hơn, hiệu quả quay vòng chậm, năng suất thấp hơn. Đối với một số nước sản xuẩt lúa thâm canh như Trung Quốc,Indonesia thì năng suất lúa của Việt Nam lại thấp hơn. Việc áp dụng công nghệ lúa lai thành công giúp Trung Quốc có sự tăng trưởng nhanh về sản lượng. Hiện nay dù là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới nhưng Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập lượng lúa giống lớn từ Trung Quốc. Sự phụ thuộc này đã gây khó khăn không ít cho Việt Nam làm sản xuất lúa ở một số địa phương mất sự ổn định.Bên cạnh đó thì việc gia tăng diện tích canh tác cũng gây khó khăn do hạn chế về đất ở Việt Nam, đồng thời ở một số vùng nông dân có xu hướng chuyển đổi trồng lúa sang trồng các cây khác cho giá trị cao hơn. Tuy vẫn còn có khả năng gia tăng diện tích gieo trồng bằng cách tăng vụ, song điều này sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể chi phí sản xuất trên 1 tấn lúa vì cần những đầu tư lớn hơn vào thuỷ lợi trong khi năng suất các vụ mới có xu hướng thấp hơn. Tóm lại, việc phân tích năng suất, diện tích canh tác và gieo trồng cho thấy, việc tăng sản lượng lúa nhiều khả năng sẽ dẫn đến sự gia tăng của chi phí trên một đơn vị sản phẩm. Chi phí sản xuất lúa. Bảng 6: Chi phí sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và Thái Lan (Đơn vị: USD/ tấn) Năm ĐBSCL Thái Lan So sánh % (VN/TL) Tỷ giá (Baht/USD) 1997 8.97 9.37 95.6 31.4 1998 8.2 7.86 104.2 41.4 1999 7.01 8.62 81.4 37 2000 7.79 8.08 96.5 40.1 2001 6.35 7.36 86.3 44.4 Nguồn: MARD, đánh giá khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam, 2003. Các số liệu điều tra cho thấy chi phí sản xuất lúa ở Việt nam thuộc loại thấp nhất ở trong khu vực. Riêng ở đồng bằng sông Cửu long, chi phí sản xuất thuộc loại thấp nhất trên thế giới. Ví dụ như vào năm 1996, chi phí sản xuất một tấn lúa là 106,7 đôla ở đồng bằng sông Hồng, 88,8 đô la ở đồng bằng sông Cửu long, trong khi đó ở Thái lan, chi phí là 163,9 đôla. Chỉ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) - một thước đo khả năng cạnh tranh trong trường hợp không có những sai lệch về giá cả do những can thiệp về chính sách cũng cho thấy, khả năng cạnh tranh dựa vào chi phí của Việt nam rất cao. Chỉ số DRC tính cho đồng bằng sông Cửu long là 0,5, còn của Thái lan là 0,9. Nói cách khác, để tạo ra 100 USD sản phẩm lúa, người nông dân ở đồng bằng sông Cửu long chỉ cần 50 USD, trong khi ở Thái lan là 90 USD. Một số nghiên cứu khác còn cho con số khả quan hơn: DRC ở đồng bằng sông Hồng là 0,87 trong vụ đông xuân và 0,64 trong vụ hè thu; còn ở đồng bằng sông Cửu long là 0,28 trong vụ đông xuân, 0,37 trong vụ hè thu và 0,41 trong vụ lúa thứ ba. Tuy nhiên, các nghiên cứu đều cho thấy, lợi thế chi phí lao động rẻ đóng vai trò chủ chốt trong lợi thế chi phí nói chung (chi phí lao động ở Việt nam chỉ bằng 1/3-1/2 chi phí lao động ở Thái lan.Tuy nhiên, việc phân tích động thái lợi thế về chi phí cho thấy, lợi thế này có xu hướng ngày một suy giảm. *Công nghệ sau thu hoạch: đây là một khâu mà Việt Nam nhiều yếu kém, dẫn đến tỉ lệ mất mát cao và những đòi hỏi về chất lượng cao còn chưa được đáp ứng tốt. Theo các số liệu của Bộ NN và PTNN, tỉ lệ lúa mất mát khoảng 18-30%. So sánh quốc tế cho thấy, tỉ lệ này là mức trung bình so với các nước Châu , song cao hơn nhiều so với Thái lan và do vậy có thể thấy Việt nam vẫn có dư địa để cải thiện hiệu quả. Đồng thời, chất lượng gạo của Việt Nam còn nhiều bất cập. Những đòi hỏi đối với gạo phẩm cấp cao về độ gẫy, màu, kích cỡ đồng đều còn chưa được đáp ứng do những hạn chế đáng kể trong công nghệ sau thu hoạch. Những hạn chế chính của công nghệ sau thu hoạch bao gồm thiếu các thiết bị phơi khô; hệ thống kho lưu giữ không đáp ứng được yêu cầu do đã cũ (xây dựng từ 20-30 năm trước; các nhà máy xay xát chế biến có công nghệ lạc hậu (sử dụng một qui trình kỹ thuật công nghệ để xay xát chế biến các loại gạo có các đặc tính khác nhau về chiều dài, độ dày, độ ẩm) và quản lý còn bất cập (trong đó vấn đề quá nhiều lao động trong một dây chuyền sản xuất tương đối phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước); hệ thống phân loại chất lượng còn chưa đạt yêu cầu. Bảng 7: Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch. Chỉ tiêu Tỷ lệ tổn thất (%) Tổn thất lúc thu hoạch 1.3- 1.7 Tổn thất lúc vận chuyển 1.2- 1.5 Tổn thất lúc đạp tuốt 1.4- 1.8 Tổn thất lúc phơi sấy, làm sạch 1.9- 2.1 Tổn thất lúc bảo quản 3.2- 3.9 Tổn thất lúc xay xát 4.0 – 4.5 Tổng cộng 13.0- 16.0 Nguồn: số liệu điều tra của viện công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê. * Khâu lưu thông (marketing) trên thị trường trong nước. Khả năng cạnh tranh quốc tế của gạo Việt nam phụ thuộc đáng kể vào hiệu quả của khâu lưu thông. Những sự kém hoàn thiện của thị trường sẽ cản trở đáng kể những tín hiệu giá cả của thị trường quốc tế đến người sản xuất cũng như đẩy chi phí lưu thông lên cao. Phần này sẽ đưa ra mô tả ngắn gọn về những đối tượng tham gia chính vào trong khâu lưu thông và những mối tương tác giữa các đối tượng này, và sau đó sẽ đưa ra một số đánh giá về những thay đổi trong khâu này trong những năm qua. Hộ nông dân: lúa sau khi thu hoạch, được phơi sấy, một phần trữ lại cho nhu cầu sử dụng trong gia đình, còn lại được bán ra cho các thương lái nhỏ (hàng xáo), các nhà máy xay xát nhỏ ở địa phương, hoặc được bán cho các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có điểm mua gom trong khi đang vụ. Có thể mua bằng tiền hoặc đổi vật tư nông nghiệp (phần lớn là đã được cung ứng trước). Các hộ nông dân có thể thuê xay xát nhận lại gạo. Gạo này chủ yếu dùng cho nhu cầu bản thân, song đôi khi cũng được đem ra chợ bán cho người tiêu dùng. Tư thương nhỏ (người thu gom): Trực tiếp mua lúa của các hộ nông dân, rồi bán lại cho các nhà máy xay xát nhỏ hoặc thuê gia công. Các doanh nghiệp lớn cũng thường mua lúa từ các tư thương nhỏ này cho mục đích dự trữ hoặc xay xát của mình. Phần gạo đã được gia công xay xát và phụ phẩm được các tư thương nhỏ bán lại cho các tư thương lớn (Doanh nghiệp kinh doanh gạo tư nhân), các điểm thu mua gạo nguyên liệu của các công ty lương thực Nhà nước, hoặc cung cấp cho mạng lưới bán lẻ. Các tư thương nhỏ đôi khi còn là nguồn cung cấp tín dụng nhỏ bằng cách ứng trước tiền hoặc hàng hóa trước khi thu hoạch để có giá rẻ. Các nhà máy xay xát nhỏ: Tập trung chủ yếu vào gia công xay xát gạo. Đôi khi họ cũng mua trực tiếp lúa để xay và bán thành phẩm ra thị trường qua các điểm bán lẻ, các tư thương lớn, các xí nghiệp chế biến của các doanh nghiệp lớn. Các nhà máy xay xát nhỏ góp phần giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn, góp phần giảm khối lượng cũng như thể tích lúa gạo cần vận chuyển và cả kho chứa trong quá trình dự trữ. Các thương nhân lớn, các doanh nghiệp kinh doanh gạo ngoài quốc doanh: Tập trung thu mua lúa gạo từ các tư thương nhỏ, nhà máy xay xát và bán lại cho các doanh nghiệp lớn hoặc thực hiện xay xát, đánh bóng để tiêu thụ trong nước hoặc cung ứng xuất khẩu. Các công ty lương thực quốc doanh và xuất khẩu gạo: Trực tiếp xay xát lúa đã thu mua hoặc chế biến, đánh bóng gạo nguyên liệu thu mua được để xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Nhiều doanh nghiệp đã tham gia tích cực vào chủ trương điều hành thị trường của nhà nước như: đưa gạo ra miền Bắc, mua lúa gạo dự trữ... Cho đến năm 1998, các công ty xuất khẩu lương thực đều là các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước cấp phép quyền xuất khẩu. Tuy nhiên, như sẽ được đề cập ngay sau đây, từ năm 1998 trở lại đây, Nhà nước đã nới lỏng qui chế xuất khẩu và khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào khâu này để đẩy mạnh xuất khẩu và tạo ra giá cả có nhiều thuận lợi cho người sản xuất lúa.Kênh phân phối lúa gạo phản ánh khá rõ sự hoạt động của cơ chế thị trường với sự tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt là lưu thông trong thị trường nội địa. Lực lượng của thành phần ngoài quốc doanh rất đông. Chính lực lượng này đã tạo ra nhiều công ăn việc làm ở nông thôn, kịp thời tiêu thụ lúa gạo do hộ nông dân sản xuất ra. Lực lượng xay xát ở địa phương đã góp phần giảm đáng kể khối lượng và thể tích vận chuyển do họ nằm ngay tại khu vực sản xuất, phân bổ tương đối cân đối trong khu vực. Đồng thời nhờ các kho chứa của mình, họ cũng giúp tăng dung lượng kho chứa nói chung. Điều này làm giảm áp lực của sự thiếu hụt kho chứa, nhất là vào mùa vụ. Lực lượng tư thương nhỏ góp phần đắc lực trong việc lưu thông lúa gạo từ những vùng sâu, vùng xa. Lực lượng này còn có tác dụng kích thích sản xuất nhờ những hoạt động tín dụng nhỏ của mình. Các tư thương nhỏ (lực lượng mua gom phổ biến) cũng chỉ “lấy công làm lãi” mà chủ yếu là phí vận chuyển. Mức lãi gộp ước tính từ 35 - 70 đ/kg, tức là chỉ bù đắp chủ yếu cho công vận chuyển từ các vùng sâu, vùng xa cùng với hao hụt, tạp chất, rủi ro mà họ có thể gặp...Từ năm 1998, Nhà nước tuyên bố khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu gạo, nhưng do còn duy trì chế độ quản lý xuất khẩu gạo bằng hạn ngạch, chỉ định đầu mối xuất khẩu gạo với khá nhiều tiêu chuẩn cụ thể... nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có được quyền trực tiếp xuất khẩu gạo trên thực tế. Từ tháng 5/2001, Nhà nước thực thi cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu mới, trong đó bỏ chế độ quản lý bằng hạn ngạch, đầu mối đối với xuất khẩu gạo. Đây là những điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu gạo. Nói tóm lại, khâu lưu thông nội địa và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong 10 năm qua với sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân vào các khâu thu mua, vận chuyển, chế biến và gần đây tư nhân đã được phép tham gia xuất khẩu. Kết quả là thế độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước trước đây đã bị xóa bỏ và sự cạnh tranh trong khâu lưu thông đã gia tăng mạnh mẽ, dẫn đến sự gia tăng hiệu quả và cắt giảm chi phí trong khâu này, giúp giảm chi phí một đơn vị sản phẩm xuất khẩu. Sơ đồ: Kênh tiêu thụ lúa gạo Ng. b¸n bu«n Ng. b¸n lÎ Ng.tiªu dïng Ng. thu gom Nhµ xay s¸t N«ng d©n Xuất khẩu DNQD cã H§XK DNQD Kh«ng cã H§XK Nguồn: FAO, 2000, nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam. * Cảng và vận tải biển: Chi phí tại cảng Sài Gòn được ước tính là 40.000 USD cho một tàu trọng tải 10.000 tấn, trong khi chi phí này ở cảng Băng cốc chỉ bằng một nửa. Tốc độ xếp hàng ở Sài gòn là 1.000 tấn ngày so với 6.000 tấn/ngày ở Băng cốc, trong khi phí nộp phạt chậm trễ khá cao (6.000 USD/ngày

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61531.DOC
Tài liệu liên quan