Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam

Lời mở đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận chung về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2

I. Khái niệm 2

II. Các tiêu chí xác định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 2

1. Công nghệ sản xuất 3

1.1. Khái niệm 3

1.2. Vai trò và tác động của công nghệ đối với đời sống kinh tế - xã hội 4

a. Vai trò của công nghệ 4

b. Vai trò của công nghệ đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước và đối với doanh nghiệp 4

2. Chất lượng sản phẩm 5

2.1. Khái niệm và đặc điểm về chất lượng sản phẩm 5

a. Khái niệm 5

b. Đặc điểm 6

2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm 6

a. Trên góc độ người tiêu dùng 6

b. Trên góc độ người sản xuất 6

2.3. Vai trò của chất lượng sản phẩm 7

3. Cung ứng nguyên vật liệu 8

3.1. Vị trí của hoạt động cung ứng nguyên vật liệu 8

3.2. Vai trò của hoạt động cung ứng nguyên vật liệu 8

4. Chiến lược vốn 10

5. Chiến lược nguồn nhân lực 11

6. Kênh phân phối và chiến lược Marketing 12

6.1. Kênh phân phối 12

6.2. Chiến lược marketing 13

7. Yếu tố giá cả của sản phẩm 14

7.1. Định nghĩa về giá cả 14

7.2. Chiến lược giá 15

8. Thương hiệu sản phẩm 15

8.1. Khái niệm thương hiệu 15

 

doc41 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 720 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i và chiến lược Marketing 4.1 Kênh phân phối - Kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau thamgia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Có hai loại kênh phân phối là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối gián tiếp Các trung gian thương mại tham gia vào kênh phân phối như : nhà bán buôn, nhà bán lẻ , đại lý và môi giới , nhà phân phối Kênh phân phối là con đường mà hàng hoá được lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng . Nhờ mạng lưới kênh phân phối mà khắc phục được những khác biệt về thời gian , địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất với những người tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ. Một doanh nghiệp có kênh phân phối sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm mà còn giúp doanh nghiệp tiến hành các hoạt động xúc tiến, khuếch trương cho những sản phẩm mà doanh nghiệp sẽ tung ra thị trường. Đẩy mạnh các chương trình truyền thông, quảng bá hình ảnh sản phẩm đến với người tiêu dùng rõ nét hơn, hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh. Thu hút khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp mà không phảI của đối thủ cạnh tranh. Mặt khác thông qua kênh phân phối, doanh nghiệp sẽ thu thập được những thông tin cần thiết để lập chiến lược phân phối, soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá đưa những hình ảnh về sản phẩm, về công ty đến với khách hàng hiệu quả nhật vượt qua đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Kênh phân phối càng mở rộng, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng lớn vì sự vươn rộng của kênh phân phối sẽ giúp cho khách hàng tiếp cận với công ty, với sản phẩm của công ty nhiều hơn. Qua đó công ty cũng thu thập nhiều thông tin về khách hàng, về nhu cầu thị hiếu của họ để đáp ứng một cách tốt nhất. 4.2. Chiến lược Marketting: Marketting là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thoã mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không tìm cách gắn hoạt động kinh doanh của mình với thị trường vì chỉ có như vậy doanh nghiệp mới hy vọng tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường. Marketting đã kết nối các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường, nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường, nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Marketting phản ánh một chức năng cơ bản của kinh doanh và có mối liên hệ thống nhất hữu cơ với các chức năng khác. Nó chỉ ra cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản như: + Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng hoá ở đâu? + Họ cần loại hàng hoá như thế nào? Đặc tính của hàng hoá ra sao? Cách bao gói? Có cần thay đổi gì không? + Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Có phù hợp không? Khi nào thì nên tăng giảm? + Doanh nghiệp nên tự tổ chức bán hàng hay dựa vào lực lượng khác? + Làm thế nào để khách hàng biết đến mua và yêu thích hàng hoá của doanh nghiệp? + Hàng hoá của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán không? Doanh nghiệp có khả năng cung ứng loại dịch vụ nào? Marketing giúp doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ tốt hơn đối thủ cạnh tranh và được khách hàng chấp nhận. Marketing tìm ra những nhu cầu của khách hàng chưa được thoả mãn đồng thời khám phá ra những nhu cầu tiểm ẩn chưa được biết đến để tìm ra những hướng kinh doanh mới. Marketing biến những nhu cầu tiềm ẩn chưa được khám phá để biến thành cơ hội kinh doanh của mình. Nếu một doanh nghiệp có bộ phận Marketinh tốt họ sẽ nhạy bén trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường, chạy trước đối thủ cạnh tranh một bước chắc chăn sẽ dễ dàng hơn để dành thế chủ động trong cạnh tranh. 5. Yếu tố giá cả sản phẩm 5.1 Định nghĩa về giá cả Giá cả biến số duy nhất của Marketing-mix tạo doanh thu cho doanh nghiệp. Các quyết định về giá luôn gắn với kết quả tài chính của doanh nghiệp. Trong hoạt động trao đổi, mong muốn bán được sản phẩm với giá cao là một trong những biểu hiện đặc trưng trong hành vi thoả thuận về giá cả của người bán Thông tin về giá cả luôn giữ vị trí số một trong việc đề xuất các quyết định kinh doanh nói chung và các quyết định về giá cả nói riêng Với người mua: giá cả của một sản phẩm hoặc dịch vụ là khoản tiền mà người mua phải trả cho người bán để được quyền sở hữu, sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó - Với người bán: Giá cả một hàng hoá, dịch vụ là khoản thu nhập mà người bán nhận được nhờ việc tiêu thụ sản phẩm đó 5.2 Chiến lược giá Chiến lược giá bao gồm toàn bộ các quyết định về giá mà người quản trị giá phải soạn thảo và tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp thưo đuổi .Chiến lược giá bao gồm các nội dung cơ bản như : Nắm bắt và dự báo một cách chính xác mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến tác động đến các quyết định về giá Xác định mức giá chào hàng , giá bán , chiết khấu , giá bán sản phẩm mới Xác định những mức giá cụ thể cho từng mặt hàng , kiểu kênh phân phối , thời gian và địa điểm tiêu thụ Ra các quyết định về thay đổi giá bao gồm các quyết định điều chỉnh và thay đổi giá theo môi trường kinh doanh luôn biến đổi Lựa chọn những ứng xử thích hợp trước những hoạt động cạnh tranh qua giá cả của đối thủ cạnh tranh Tuỳ theo từng thị trường, mục tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà doanh nghiệp đưa ra các chiến lược giá riêng. Giá là yếu tố tác động trực tiếp đến quyết định mua sắm của ngươI tiêu dùng. ở những thị trường nhạy cảm về giá chỉ một sự thay đổi nhỏ trong giá cả sản phẩm sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến lượng sản phẩm tiêu thụ. Vì vậy khi các chiến lược giá được đưa ra nó được xem như là công cụ hữu hiệu nhất để doanh nghiệp dành chiến thắng trong cạnh tranh. 6.Thương hiệu sản phẩm 6.1.Khái niệm thương hiệu Có rất nhiều khái niệm về thương hiệu, ở đây ta tìm hiểu khái niệm thương hiệu của hiệp hội Marketing Mỹ Thương hiệu là một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng hoặc hình vẽ thiết kế... hoặc tập hợp các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của người bán hoặc một nhóm người bán với hàng hoá, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh Thương hiệu được cấu thành bởi hai phần +Phần phát âm được: là những yếu tố có thể đọc được, tác động vào thính giác của người nghe như: tên công ty, tên sản phẩm, các khẩu hiệu........ +Phần không phát âm được: là những yếu tố không đọc được mà chỉ có thể cảm nhận được bằng thị giác như: hình vẽ, biểu tượng, màu sắc,kiểu dáng thiết kế.... Thương hiệu là bất cứ cái gì được gắn liền với sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm làm cho chúng được nhận biết dễ dàng và khác biệt hoá so với sản phẩm cùng loại. 6.2 .Chức năng của thương hiệu Thương hiệu bản thân nó có ý nghĩa nhiều hơn cái tên của mình và được tạo dựng dựa trên tập hợp tất cả các nguồn lực của công ty. Thương hiệu sản phẩm có các chức năng chủ yếu như sau: - Chức năng phân đoạn thị trường - Tạo nên sự khác biệt trong suốt quá trình phát triển của sản phẩm Thương hiệu được biết đến khi sản phẩm đã được tung ra thị trường, mặc dù được bảo hộ độc quyền nhưng các thương hiệu vẫn bị cuốn theo cạnh tranh nếu họ không muốn đánh mất mình trên thị trường.Thương hiệu đóng vai trò như một tấm lá chắn bảo hộ cho sự đổi mới dưới dạng bảo hộ sở hữu trí tuệ - Đưa sản phẩm khắc sâu vào tâm trí khách hàng Phần hồn của một thương hiệu chỉ có thể được cảm nhận thông qua sản phẩm và các chương trình quảng cáo về nó. Nội dung của một sản phẩm sẽ được khách hàng biết và cảm nhận thông qua các hoạt động này khi nó được truyền tải một cách nhất quán cùng với thông điệp. Hồi ức đóng vai trò quan trọng trong việc hành thành nhận thức về một thương hiệu và nó giải thích tại sao hình ảnh một thương hiệu có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy việc nhận biết một thương hiệu ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng về nhận thức của khách hàng về sản phẩm trong tương lai - Tạo nên định hướng và ý nghĩa cho sản phẩm Thương hiệu chứa đựng trong nó thông tin về sản phẩm. Một thương hiệu lớn ngoài việc thiết lập một thông điệp của sản phẩm tới khách hàng còn phải có khả năng thích ứng với thời đại và thay đổi linh hoạt theo thị hiếu của khách hàng cũng như tiến bộ công nghệ - Thương hiệu là cam kết giữa nhà sản xuất với khách hàng. Cam kết mà một thương hiệu đưa ra mang tính định tính, nó thoả mãn những ước muốn và kì vọng của khách hàng và chỉ có khách hàng là người cảm nhận và đánh giá nó. Nếu công ty thực hiện những gì đã cam kết và đem đến cho khách hàng sự thoả mãn khi tiêu dùng sản phẩm chắc chắn thương hiệu sẽ nhận được những cảm nhận tốt đẹp và trung thành từ phía khách hàng. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở tầm vĩ mô Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, nhà nước cần: Đẩy mạnh cải cách hành chính kinh tế. Một thể chế kinh tế nếu phù hợp với thực trạng của đất nước và quy luật phát triển của thời đại sẽ có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển của mỗi đất nước, thúc đẩy sự hình thành một hệ thống doanh nghiệp hùng mạnh có khả năng cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải tạo hành lang pháp lý ổn định, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực. Tạo môi trường cạnh trạnh: Cùng với việc đào tạo và bồi dưỡng để hình thành một tầng lớp doanh nhân thực thụ, chuyên nghiệp cần tạo ra cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong việc tuyển dụng doanh nhân. Có như vậy đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Đối với doanh nghiệp nhà nước cần thay đổi cơ chế tuyển dụng, thực hiện việc tuyển dụng giám đốc thông qua cơ chế cạnh tranh trên thị trường, xoá bỏ chế độ đẳng cấp doanh nghiệp, thực hiện cơ chế trả lương theo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kích thích giám đốc năng động sáng tạo trong cạnh tranh. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, chú trọng các loại thị trường cơ bản và những thị trường mới sơ khai như thị trường lao đông, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tư vấn và hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp. Nhà nước cần xúc tiến việc xây dựng cơ chế giữa nhà nước và các trung tâm nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp. Đẩy nhanh chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá để nhà nước tập trung đầu tư vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của giám đốc và người lao động ở các doanh nghiệp. Chương II Thực trạng và phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam 1. Khái quát về các doanh nghiệp ngành mía đường Việt Nam Trước năm 1994, ngành công nghiệp mía đường của Việt Nam còn chậm phát triển. Cả nước chỉ có 12 nhà máy chế biến đướng công nghiệp .Do đặc điểm riêng của ngành là các doanh nghiệp được phân bố theo vùng nguyên vật liệu vì vậy các doanh nghiệp mía đường được phân bố chủ yếu ở Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ , Thanh Hoá, Nghệ An, Đồng Bằng Sông Cửu Long, Trung du và miền núi phía bắc, Nghệ An Tính đến trước năm 1994 cả nước có 12 nhà máy chế biến đường , do vùng nguyên liệu chưa đáp ứng đủ mía cho nhà máy nên hầu hết các nhà máy chỉ huy động công suất ép dưới 70% Kể từ khi thực hiện chương trình mía đường vào năm 1995 số lượng nhà máy chế biến đường tăng lên nhanh chóng , tính đến niên vụ 2002-2003 cả nước có tới 44 nhà máy .Các nhà máy sản xuất chủ yếu hai sản phẩm chính là đường trắng và đường tinh luyện .Một số nhà máy sản xuất đường thô là sản phẩm trung gian để chế biến đường tinh luyện.Sản lượng đường công nghiệp cả nước trong những năm qua tăng nhanh đạt 50% trong giai đoạn 1995-2000. Bên cạnh 44 nhà máy công nghiệp, Việt Nam còn có các xưởng sản xuất đường thủ công có mặt ở khắp nơi đặc biệt tập trung ở miền Nam với các sản phẩm như đường phèn, đường vàng ly tâm, đường trắng ly tâm.. 2.Công nghệ sản xuất 2.1. Tại các lò đường thủ công: Sản xuất đường thủ công tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền Trung. Các tỉnh có sản lượng đường thủ công lớn là: Phú Yên, Khánh Hoà, Bến Tre, Cần Thơmặc dù công suất ép mía thấp, khoảng 650-700 tấn/năm nhưng hoạt động sản xuất đường thủ công có một số thuận lợi đó là mức đầu tư vốn và mức thuế thấp, tuy nhiên tỉ lệ tiêu hao nguyên vật liệu rất lớn khoảng 20 mía/1 đường, gấp đôi các nhà máy chế biến đường công nghiệp. Các xưởng đường thủ công phát triển mạnh ở những vùng trồng mía truyền thống do điều kiện giao thông đi lại khó khăn nên các nhà máy chế biến công nghiệp không thể thu mua được mía nguyên liệu hoặc không có đủ điều kiện để phát triển nhà máy chế biến đường. Các lò đường thủ công chỉ tập trung phục vụ nhu cầu của người dân ngay tại địa bàn. 2.2.Tại các nhà máy đường: các nhà máy được xây dựng mới và mở rộng, công nghệ và thiết bị chế biến đường đều được nhập khẩu từ các nước như: Trung Quốc, ấn độ, Pháp, Nhật, Khoảng 53% công suất thiết kế của các nhà máy mới này sử dụng thiết bị và công nghệ tiên tiến của các nước như: Anh, Nhật, Đài Loan,Trong khi 47% các nhà máy còn lại sử dụng các công nghệ và thiết bị đơn giản của Trung Quốc, ấn độ, những nhà máy này có quy mô trung bình và nhỏ chỉ sản xuất đường thô và đường trắng RS. Ngành công nghiệp chế biến đường đòi hỏi vốn đầu tư lớn khoảng 130 triệu đồng cho một tấn công suất tương đương gần 9000$/1 tấn công suất. Đây là mức khá thấp so với mức đầu tư trung bình của thế giới, tại Thái Lan mức đầu tư bình quân chỉ khoảng 6700/ tấn công suất do máy móc và thiết bị sản xuất nội địa. Các nhà máy chế biến dùng công nghệ chế biến đơn giản của Trung Quốc có vốn đầu tư thấp nhất, chỉ dưới 7000$/tấn công suất. Thông thường các nhà máy sử dụng công nghệ hiện đại có vốn đầu tư khoảng 12000$/ tấn công suất. Với cùng một loại thiết bị công nghệ, thiết bị vốn đầu tư cũng có sự khác nhau tuỳ theo quy mô của nhà máy. Với công nghệ tương đối hiện đại, chi phí đầu tư của 1 nhà máy có quy mô 1000 tấn công suất có thể lên tới 10 triệu $ trong khi đó một nhà máy có quy mô 4000 tấn công suất thì chi phí đầu tư chỉ khoảng 25 triệu $ tức bằng 65% chi phí đầu tư cho một nhà máy có quy mô nhỏ. Toàn bộ nguồn vốn đầu tư cho các nhà máy là các vốn vay trong nước và vốn nước ngoài. Công ty mía đường Việt Đài có hệ thống dây chuyền sản xuất và thiết bị hiện đại do đó có khả năng thu hồi đường cao nhất so với các nhà máy đường khác trong cả nước (cứ 8.5kg mía được một kg đường). Theo ông Nguyễn Văn Hội Tổng giám đốc công ty mía đường I chúng ta hiện đang sử dụng phổ biến các dây chuyền sản xuất của Trung Quốc , quy mô 1000-1500 tấn/ngày , các dây chuyền này vốn rẻ lại được thiết kế an toàn , thừa nên khả năng phát huy thêm công suất rất cao. Một dây chuyền 1000 tấn/ ngày chỉ cần đầu tư thêm khoảng nữa là có thể mở rộng gần gấp đôi công suất. Tuy nhiên trước tình hình Việt Nam gia nhập WTO, các hạn chế về định lượng vàgiấy phép nhập khẩu đường đối với 10 nước ASEAN bị xoá bỏ thì quy mô nhà máy nhỏ, công suất dưới 3000tấn mía/ngày, thiết bị và công nghệ cũ khó có thể tồn tại và cạnh tranh được. Chỉ có những nhà máy có công suất trên 10000tấn mía/ngày mới đạt hiệu quả và có khả năng cạnh tranh toàn cầu.Theo ông Lê Văn Tam chủ tịch hiệp hội mía đường Việt Nam, hiện tại ở nước ta sau khi sắp xếp lại chỉ còn khoảng 37 nhà máy tầm cỡ đáng kể có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện mới. Phần lớn các nhà máy đường của ta hiện nay đều chưa hoạt động hết công suất do khó khăn về vùng nguyên liệu. Cả nước có hơn 40 nhầ máy đường cơ giới hoạt động với tổng công suất khoảng 81000tấn mía /ngày tuy nhiên nhiều nhà máy đường không huy động được tối đa công suất thiết kế.Vụ mía 2001-2002 bình quân chỉ đạt 70% có nhà máy chỉ đạt 50%. Các nhà máy chế biến đường Việt Nam được phân loại theo nhóm thiết kế như sau: + Các nhà máy nhỏ có công suất thiết kế dưới 1500 tấn mía / ngày có 23 nhà máy. + Các nhà máy trung bình có công suất thiết kế 1500-2500 tấn mía/ngày có 15 nhà máy. + Các nhà máy lớn có công suất thiết kế trên 2500 tấn mía/ngày có 6 nhà máy. Bảng 1.1. Các nhà máy hoạt động trên 80% công suất TT Tên Nhà Máy Công suất hoạt động(% công suất thiết kế) 1 Đồng Xuân 200% 2 Phan Rang 175% 3 Phụng Hiệp 138% 4 Nghệ An –T&L 141% 5 Hiệp Hoà 124% 6 Lam Sơn 104% 7 Nông Cống 103% 8 La Ngà 98% 9 Bình Dương 85% Nguồn: Cục chế biến, Bộ NN&PTNT Sở dĩ đạt được công suất hoạt động như trên là do các nhà máy chủ động được vùng nguyên liệu: Năng suất mía, chất lượng mía cao và đồng đều, lượng mía nguyên liệu cung cấp lớn. Ngược lại vấn còn rất nhiều nhà máy thiếu nguyên liệu chế biến nên chỉ đạt công suất thiết kế từ 50-80% Bảng 1.2. Danh sách các nhà máy hoạt động với công suất 50-80% TT Tên nhà máy/công ty Công suất hoạt động( % công suất thiết kế) 1 Sơn La 79% 2 Cao Bằng 73% 3 Tuyên Quang 73% 4 Quảng Ngãi 73% 5 Thái Bình 68% 6 Ninh Hoà 64% 7 Việt Đài 60% Nguồn: Cục chế biến, Bộ NN&PTNT /2003 Hầu hết những nhà máy này đều không có vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng và năng suất nguyên liệu mía thấp. Thực tế cho thấy đây là những vùng không có lợi thế để phát triển cây mía. 3. Nguồn nguyên liệu 3.1 Đặc điểm về vùng nguyên liệu mía Nước ta có điều kiện khí hậu thuận lợi cho cây mía phát triển vì vậy cây mía được trồng rải rác trên phạm vi cả nước nhưng được tập trung ở 4 vùng chủ yếu: - Vùng Bắc Trung Bộ với diện tích 49000ha chiếm 17.1% tổng diện tích mía cả nước tập trung chủ yếu ở Thanh Hoá và Nghệ An - Duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích 53200ha chiếm 18.3% tổng diện tích mía cả nước tập trung chủ yếu ở Phú Yên , Khánh Hoà, Quảng Ngãi - Đông Nam Bộ với diện tích 56800ha chiếm 19.5% tổng diện tích cả nước tập trung chủ yếu ở Tây Ninh và Đồng Nai - Đồng Bằng sông Cửu Long với diện tích 76100ha chiếm 26.1% tập trung chủ yếu ở Long An , Cần Thơ, Bến Tre,Sóc Trăng Mía Việt Nam chủ yếu được trồng trên những thửa ruộng nhỏ ,chỉ có một số ít vùng chuyên canh cây mía là những vùng nguyên liệu mía cho các nhà máy chế biến như các nông trường quốc doanh ở Lam Sơn, nông trường Sông Âm, và một số khác ở Quảng Ngãi Phần lớn mía do các hộ nông dân sản xuất với quy mô nhỏ và không đồng đều Trong điều kiện hộ trồng mía có diện tích trồng nhỏ của Việt Nam , một nhà máy phải liên hệ với hàng ngàn hộ trồng mía mới có đủ nguyên liệu .Một nhà máy công suất cỡ nhỏ cũng cần liên hệ với khoảng 3000-4000 hộ trồng mía, Công ty mía đường Lam Sơn có khoảng30000 hộ trồng mía .Tại miền Bắc có 13 nhà máy, có nhu cầu mía trên 82.050 ha nhưng hiện chỉ có 60.621 ha trong vùng nguyên liệu quy hoạch Hình thức thu mua mía cũng khác nhau đáng kể giữa các vùng trong cả nước. ở nhà máy đường Vị Thanh , người thu gom đóng vai trò rất quan trọng giữa hộ trồng mía và các nhà máy chế biến , có khoảng 95% hộ trồng mía bán sản phẩm của mình cho người thu gom còn 5%bán cho hợp tác xã .Nhà máy không mua được trực tiếp tại hộ vì điều kiện kênh rạch , điều kiện giao thông không thuận lợi mặt khác phân bố sản xuất mía của các hộ khá phân tán không thể tập trung theo đúng kế hoạch .ở Công ty mía đường Lam Sơn , người thu gom đóng vai trò khá mờ nhạt trong quá trình thu mua mía từ hộ nông dân, Công ty trực tiếp hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với hộ nông dân nhưng thực chất việc giao dịch buôn bán chủ yếu thông qua hai lực lượng là hợp tác xã và chủ hợp đồng .Nhiều nhà máy đã coi nhẹ việc xây dựng vùng nguyên liệu, tiến độ xây dựng vùng nguyên liệu chưa kịp với tiến độ xây dựng nhà máy vì vậy trong quá trình thu mua mía một số nhà máy đi mua nguyên liệu thuộc địa phận của nhà máy khác làm cho giá mía nguyên liệu thu mua khá mạnh, đẩy giá mía lên cao ,một số nhà máy ép sớm ảnh hưởng xấu đến chất lượng đường và hiệu suất thu hồi Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay , việc mở rộng các vùng nguyên liệu là rất khó và về lâu dài là không thể. Bảng 3.1.Kênh thu mua mía ở Công Ty Cổ Phần Mía Đường Lam Sơn, Thanh Hoá Hộ nông dân Chủ hợp đồng Hợp tác xã Thu gom Hộ nông dân Công ty Lam Sơn 5% 80% 15% 100% 100% 100% ở Công ty Mía Đường Lam Sơn vai trò của người thu gom khá mờ nhạt trong quá trình thu mua mía từ hộ nông dân. Theo sơ đồ ta thấy chỉ có 5% số hộ bán cho nhà máy thông qua những người thu gom, họ chủ yếu là những hộ ở rất xa nhà máy , giao thông không thuận tiện. 80% các hộ bán cho nhà máy thông qua chủ hợp đồng. HTX cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp hộ nông dân bán mía cho nhà máy (15%). Chủ hợp đồng và HTX là hai nhân tố chính kết nối giữa hộ gia đình và nhà máy không chỉ ở khâu tiêu thụ sản phẩm mà còn trong quá trình quản lý, vay vốn đầu tư, cung cấp phân bón, giống, thuốc trừ sâu 3.2. Chất lượng mía Giống mía được trồng tập trung phổ biến theo vùng, ở Thanh hoá chủ yếu trồng giống mía Roc 1 và My 55.14, ở Cần thơ trồng chủ yếu là Roc 16 và Hoài Lan Tím. Việc sử dụng các loại giống khác nhau một phần là do thói quen từ trước, phần lớn là do các giống mía nội. Tuy nhiên trong những năm gần đây, các nhà máy đã đưa các giống mới có năng suất cao chữ đường lớn và sản xuất. Chất lượng của cây mía Việt Nam thấp, đạt 9 chữ đường cao nhất cũng chỉ 10 chữ đường. Một phần do tập quán canh tác của cây mía nội vẫn quanh quẩn với giống mía có chất lượng thấp. Mặt khác chúng ta còn yếu kém trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất vì vậy năng suất và chất lượng mía của chúng ta thấp. Trước khi Việt Nam thực hiện chương trình 1 triệu tấn đường năng suất cây mía chỉ đạt khoảng 45 tấn/ ha. Sau khi thực hiện chương trình năng suất mía bình quân của cả nước đã đạt 50,8 tấn/ ha tuy nhiên từ năm 2000-2003, năng suất bình quân giảm chỉ còn 49,8 tấn/ha. Trong khi đó năng suất mía bình quân của Trung Quốc và ấn Độ là 75-76 tấn/ha, Thái Lan là 65,9 tấn/ha, Brazil là 85 tấn/ ha. Hiện tại một số vùng của Việt Nam, điều kiện thời tiết thuận lợi, giống tốt, thâm canh cao đã cho năng suất mía khá cao khoảng 60-70 tấn/ha như vùng nguyên liệu mía Lam Sơn, vùng nguyên liệu của nhà máy Tate&Lyle Những điều đó cho thấy Việt Nam có lợi thế sản xuất mía ở một số vùng. Tuy nhiên việc phát triển vùng nguyên liệu lại được phát triển một cách ồ ạt, không có quy hoạch cụ thể kể cả những vùng có hay không có lợi thế. Bên cạnh đó, chất lượng mía tính theo chữ lượng đường cũng không được cải thiện. Bảng 3.2. Diện tích nguyên liệu và chất lượng mía theo vùng Vùng Diện tích vùng nguyên liệu (ha) Sản lượng nguyên liệu vụ 2002/2003 Năng suất mía bình quân(tấn/ha) Chữ lượng đường CCS Cả nước 263255 11578585 49.5 9.7 Miền Bắc 73565 3867248 49.4 10.2 Miền Trung 73793 2753301 47.1 9.8 Miền Nam 117167 4958236 52 9 Nguồn: Cục chế biến, Bộ NN&PTNT năm 2004 Ta thấy năng suất bình quân của các vùng mía nguyên liệu ở Miền Nam (52 Tấn /ha) cao hơn Miền Bắc ( 49tấn/ ha), Miền Trung( 47.1 tấn/ha) tuy nhiên chữ lượng đường trong mía của vùng nguyên liệu mía phía Bắc nhất là vùng Lam Sơn, vùng nguyên liệu của nhà máy Tate&lyle Nghệ An lại lớn hơn đạt 10.2 CCS . trong khi vùng nguyên liệu của Miền Nam chỉ đạt 9CCS. Chất lượng mía tính theo chữ lượng đường trong những năm qua vẫn không được cải thiện.Chữ đường bình quân cả nước chỉ xấp xỉ đạt 10 chữ đường, đặc biệt ở Miền Nam chỉ đạt 9 chữ đường.Trong khi đó chữ đường bình quân của Ôxtraylia là 15 chữ đường, Thái Lan, Nam Phi là 12-13 chữ đường.Như vậy cả năng suất và chất lượng mía của chúng ta đều thấp hơn so với mức trung bình của thế giới 3.3 Mức độ đáp ứng Bên cạnh một số nhà máy có đủ và thừa nguyên vật liệu thì vẫn còn không ít nhà máy thiếu nguyên vật liệu trầm trọng. Có 28 nhà máy đáp ứng trên 80% công suất, 11 nhà máy đạt 50-80% công suất và 5 nhà máy đạt dưới 50% công suất. Do vùng mía của Việt Nam manh mún, phân tán và thường ở vùng sâu vùng xa, cơ sở hạ tầng yếu kém, xa nhà máy, giao thông yếu kém, kỹ thuật thâm canh còn chưa được phổ biến cho nông dân, giống mía cho năng suất và chất lượng thấp. Việc thực hiện bao tiêu mía thành phẩm cho hộ nông dân cũng gặp nhiều khó khăn. ở công ty mía đường Lam Sơn, để xây dựng tốt mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà máy chế biến và hộ nông dân trồng mía.Công ty đã ký kết hợp đồng từ khâu thu mua, vận tải ...với hộ nông dân, chủ hợp tác xã.Bên cạnh đó vùng nguyên liệu của công ty có năng suất cao, mạng lưới giao thông được xây dựng và phát triển. ở công ty mía đường Trà Vinh, niên vụ 2004-2005 Công ty tiếp tục đầu tư gần 10 tỷ đồng cho nông dân trồng mía và ký hợp đồng tiêu thụ 3712 ha. Tuy nhiên tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn luôn diễn ra.Vùng nguyên liệu của nhà máy khoảng 7000 ha, sản lượng khoảng 500.000 tấn vậy mà năm ngoái chỉ đạt 94.8% công suất do các hợp đồng thu mua mía nguyên liệu bị phá vỡ.Một số công ty 100% vốn nước ngoài đến vùng nguyên liệu kích giá, cạnh tranh thu mua không lành mạnh. Hiện nay sản lượng mía ở Đồng Bằng Sông Cửu Long chưa đủ cung cấp cho các nhà máy trong vùng. Một số năm gần đây không có tình trạng thừa mía nguyên vật liệu do đó có sự tranh giành thu mua mía nguyên vật liệu tạo nên giá ảo rất cao.Công ty Casuco luôn duy trì hợp đồng bao têu với nông dân khoảng 9000 ha. Tuy nhiên tỷ lệ thu mua chỉ đạt 60% diện tích do nông dân không giữ đúng cam kết Trong quá trình thực hiện hợp đồng thu mua mía, thường xảy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV293.doc
Tài liệu liên quan