Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập

MỤC LỤC

 

Mở đầu 1

Chương I. Những vấn đề chung về cạnh tranh và hội nhập của NHTM 2

I. Khái quát về cạnh tranh trong ngành ngân hàng 2

I.1. Quy luật về hợp tác kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa 2

I.2. Vai trò của ngành ngân hàng trong hội nhập 2

I.3. Xu thế cạnh tranh giữa NHTM nước ngoài và NHTM Việt Nam 3

II. Cơ hội và thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam trong

quá trình hội nhập 4

II.1. Những cơ hội mở ra cho ngành ngân hàng trong quá trình hội nhập 4

II.2. Những thách thức đối với NHTM Việt Nam 6

II.2.1. Những thách thức đối với khách hàng của ngân hàng 6

II.2.2. Thách thức trực tiếp đối với ngân hàng 7

Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại

ở Việt Nam 9

I. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam 9

I.1. Về quy mô và vốn tự có 9

I.2. Về chất lượng hoạt động 10

I.3. Về chất lượng phục vụ 10

II. Tình hình hoạt động của khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân

hàng nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 11

II.1. Về huy động vốn 12

II.2. Cho vay 13

II.3. Hoạt động ngân hàng quốc tế 13

Chương III. Các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của

NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 14

I. Cần phải xây dựng hoàn thiện và sửa đổi hệ thống luật ngân hàng cho thống

nhất và phù hợp với yêu cầu thực tiễn và lộ trình hội nhập 14

II. Nâng cao vai trò quản lý và điều tiết của ngân hàng nhà nước 15

II.1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, nâng cao vai trò điều

tiết, kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước 15

II.2. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương 17

II.3. Cải tổ, cơ cấu lại ngân hàng nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa vai trò

và chức năng quản lý điều tiết của ngân hàng nhà nước 18

III. Nâng cao khả năng tài chính, tăng vốn tự có cho các NHTM 18

III.1. Phát triển vốn từ bên trong 18

III.2. Gia tăng vốn từ nguồn bên ngoài 20

IV. Nguồn nhân lực 21

V. Nâng cao sức cạnh tranh bằng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 24

VI. Giải pháp hình thành liên minh chiến lược NHTM 26

Kết luận 28

Tài liệu tham khảo

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6521 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục vụ. Một là, cạnh tranh về mở rộng mạng lưới, chức năng hoạt động: nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận thuận lợi các dịch vụ ngân hàng một cách nhanh nhất và thuận lợi nhất. Hiện nay các NHTM nhà nước đã có chi nhánh ở hầu hết các tỉnh và thành phố trong cả nước, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã mở rộng mạng lưới về đến tận vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên việc mở rộng mạng lưới phục vụ của các ngân hàng thương mại cổ phần còn hạn chế, chỉ ở phạm vi các thành phố lớn, các trung tâm. Hai là, hoạt động cạnh tranh về ứng dụng công nghệ thông tin: hầu hết các tổ chức tài chính rất chú trọng đến ứng dụng công nghệ thông tin, một số ngân hàng đã và đang trong giai đoạn cuối tiếp nhận dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán...Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin là cơ sở quan trọng để các tổ chức này nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên mức độ đâu tư còn hạn chế, phần lớn công việc vẫn đang làm thủ công, mức độ được tin học hoá chưa cao, so với các nước trên thế giới và ngay cả trong khu vực vần tồn tại một khoảng cách không nhỏ. Ba là, hoạt động cạnh tranh về đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tài chính, từ đầu năm 2003 có rất nhiều sản phẩm mới được ra đời trong hệ thống NHTM trong nước như chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, dài hạn, tiết kiệm trúng thưởng ôtô; tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm phát lộc, trái phiếu, phát hành thẻ ATM, thẻ tín dụng, cho vay mua ôtô, cho vay mua nhà trả góp, ngân hàng trực tiếp...Các NHTM đã rất coi trọng đến công tác marketing, lắng nghe ý kiến khách hàng, bằng việc giảm thiểu các thủ tục không cần thiết, xử lý nhanh gọn các yêu cầu của khách hàng, thu tiền tại nhà...NHĐT&PTVN là hệ thống ngân hàng đầu tiên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001,2000, liên tục đổi mới việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nhằm thỏa mãn tốt nhất sự hài lòng của khách hàng, và đây cũng là ngân hàng duy nhất của Việt Nam được công nhận là Ngân hàng có hệ thống thanh toán tốt nhất thế giới hiện nay. NHNo&PTNTVN đã là ngân hàng tài trợ chính thức cho Seagame22… Mặc dù đã có nhiều sự mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ như vậy nhưng nhìn chung sản phẩm dịch vụ ngân hàng chưa đầy đủ, chưa hình thành được hệ thống thanh toán liên ngân hàng giữa các ngân hàng trong nước gây bất tiện cho khách hàng, số lượng ngân hàng được hiện đại hoá không nhiều. Bốn là, cạnh tranh về chiến lược kinh doanh: chất lượng cạnh tranh của các tổ chức tài chính cũng đi đến yêu cầu, đòi hỏi trình độ cao và tinh xảo hơn. Đầu năm 2003, NHĐT&PTVN đã đưa ra sản phẩm huy động vốn rất độc đáo là chứng chỉ tiền gửi cả ngắn hạn và dài hạn. Đây là sản phẩm lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam thu hút được nhiều khách hàng quan tâm, đầu tư tiền gửi chỉ trong thời gian ngắn, ngân hàng này đã thu hút được lượng vốn theo nhu cầu, kế hoạch của mình, đáp ứng tốt cho các dự án mà ngân hàng này đã cam kết cấp tín dụng. NHNTVN đưa ra chương trình huy động vốn ngắn hạn với sự kiện Seagame22. Các ngân hàng Việt Nam vẫn chủ yếu chiếm giữ thị phần trong nước là chủ yếu chưa có chiến lược vươn ra xa vượt biên giới. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA KHỐI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH VÀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. Từ năm 1990, khi Việt Nam thực hiện mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng đã được mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới hai hình thức là liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài liên tục tăng từ năm 1990 đến 1997 và từ 1998 đến nay có khuynh hướng chững lại về số lượng ngân hàng cũng như thị phần hoạt động. Về mặt tín dụng, các ngân hàng nước ngoài hoạt động cho vay chủ yếu là các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Theo số liệu đầu năm 2003 của ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản Có của khối ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh chiếm 10,42% tổng tài sản Có của cả hệ thống; thị phần cho vay chiếm khoảng 8,4% thị phần tín dụng; huy động của khối ngân hàng nước ngoài chiếm 8,8% thị phần huy động trong nước. Thị phần cho vay và huy động vốn của NHTM Việt Nam (31/12/2001) Khối ngân hàng Số lượng (ngân hàng/định chế) Tín dụng/ cho vay (%) Huy động (%) Tài sản Có so với tài sản Có của cả hệ thống (%) NHTMNN NH Liên doanh CN-NH nước ngoài NH TMCP Quỹ tín dụng ND Tổng cộng 4 4 26 39 887 79.50 1.10 9.06 9.12 9.47 100 78.51 1.13 10.01 9.47 0.88 100 77.31 1.45 1.97 9.86 0.41 100 Nguồn: TC Nghiên cứu kinh tế 306- Tháng 11 năm 2003 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng trong các năm của các ngân hàng nước ngoài là khá thấp chưa tới 1%. Điều này cho thấy khả năng quản lý của ngân hàng nước ngoài khá tốt. Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng các ngân hàng nước ngoài chỉ "chọn miếng ngon", chọn những khách hàng làm ăn có lãi, rủi ro thấp nhất và đẩy các doanh nghiệp còn lại với rủi ro nhiều hơn cho ngân hàng trong nước phục vụ. Thực tế có thời kỳ các ngân hàng nước ngoài đã cố gắng giành lấy các tổng công ty nhà nước có doanh số xuất nhập khẩu lớn. II.1. Về huy động vốn Đến nay, trên lãnh thổ Việt Nam có gần 100 định chế tài chính nhận tiền gửi. Trong nhiều năm qua, các NHTM Nhà nước vẫn chiếm gần 80% thị phần huy động trong nước; các ngân hàng thương mại cổ phần có thị phần huy động chiếm khoảng 10%; khối ngân hàng nước ngoài chiếm thị phần khoảng 11%. Điều đáng chú ý là từ năm 2002 thị phần của khối chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng giảm đi cùng với giảm quy mô về tài sản Có so với tổng tài sản Có của cả hệ thống. Về thị phần của khối ngân hàng trên cho thấy, các NHTM Nhà nước vẫn là nhóm ngân hàng chi phối thị trường. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh về huy động vốn đối với các NHTM trong nước khi Việt Nam bỏ các hạn chế huy động VND. II.2. Cho vay. Nếu so sánh giữa các nhóm ngân hàng thì NHTM Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung vốn cho nền kinh tế. Trong những năm qua, các NHTM Nhà nước thường chiếm gần 80% thị phần tín dụng và thị phần của khối ngân hàng nước ngoài có chiều hướng thu hẹp lại. Vào thời điểm tháng 12/2002 thị phần cho vay của khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh là 8,9%. II.3. Hoạt động ngân hàng quốc tế. Trong hai năm 2000 và 2001, lượng tiền gửi nước ngoài của các NHTM Việt Nam đã tăng liên tục và đạt khoảng 20% tổng tài sản Có của cả hệ thống. Khối ngân hàng nước ngoài có tỷ trọng tiền gửi nước ngoài trên dưới 30% tài sản Có trong khi khối NHTM Nhà nước là 20%. Tiền gửi ở nước ngoài tăng lên phản ánh quan hệ mở cửa nhiều hơn với bên ngoài. Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ tiền gửi tiền ở nước ngoài giữa hai nhóm NHTM Nhà nước và nhóm ngân hàng nước ngoài ta thấy còn một khoảng cách khá xa. Sự khác biệt này cũng có thể dựa trên nhận xét rằng các NHTM trong nước còn thua kém nhiều so với các ngân hàng nước ngoài trên phương diện quản lý danh mục đầu tư ở phạm vi toàn cầu hoặc về hoạt động ngân hàng quốc tế. CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NHTM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Toàn cầu hóa đã trở thành xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới. Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Việt Nam cần xây dựng hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, họat động hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện những giải pháp sau I. CẦN PHẢI XÂY DỰNG HOÀN THIỆN VÀ SỬA ĐỔI HỆ THỐNG LUẬT NGÂN HÀNG CHO THỐNG NHẤT VÀ PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU THỰC TIỄN VÀ LỘ TRÌNH HỘI NHẬP Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành luật ngân hàng để toàn bộ hệ thống ngân hàng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo. Nhưng hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa nhất quán còn quá nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế . Hơn nữa, trong hệ thống luật ngân hàng trong nước còn nhiều điều chưa phù hợp với luật pháp quốc tế: nội dung của GAST(WTO), hiệp định thương mại Việt-Mỹ... Do đó, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức họat động dịch vụ ngân hàng và tài chính trên lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu, rà soát lại hệ thống luật của ta để tìm ra những điểm bất cập trong luật pháp và những điểm không phù hợp với luật pháp quốc tế để sửa đổi bổ sung, sửa đổi lại hệ thống luật ngân hàng của ta sao cho phù hợp với luật quốc tế. Tránh tình trạng NHTM Việt Nam họat động theo luật ngân hàng Việt Nam nhưng lại vi phạm luật phát quốc tế đem lại nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi làm ăn, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, luật ngân hàng cần quy định cụ thể, rõ ràng các điều khoản về việc thu hồi và xử lý nợ. Một thực trạng hiện nay làm những người thu hồi nợ rất vất vả là cơ chế pháp lý cho việc thu hồi nợ vừa thiếu vừa mâu thuẫn; vừa không nghiêm trong việc chấp hành, vừa kéo dài trong thi hành án, vừa vướng mắc ngay từ văn bản luật, pháp lệnh... đến các văn bản khác thấp hơn. Do đó, cần phải thiết lập một cơ chế pháp lý khắc phục những bất cập này sao cho phù hợp với các đặc trưng yêu cầu của họat động tín dụng. Một điều đáng lưu ý trong cơ chế pháp lý có hiệu quả là phải có các biện pháp thích hợp và xử lý nợ có hiệu quả, tránh tình trạng thủ tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng nấc. Nên áp dụng biện pháp cho vay "để đương" đối với tài sản đảm bảo có giá trị lâu dài hoặc mất ít giá trị sử dụng (như đất đai, nhà cửa ..) tức người vay cần phải làm giấy tờ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên vay với điều kiện bên vay không được trả nợ. Điều quan trọng không kém là trong quá trình thi hành án cũng nên hạn chế sự can thiệp của các cơ quan thẩm quyền phải ngưng lại việc xử lý nợ, gây thiệt hại cho ngân hàng. Còn nếu sau khi kiểm tra mà có kết quả không thay đổi thì thiệt hại cho ngân hàng trong thời gian ngưng phải được bồi thường từ cơ quan chức năng đó. Hơn nữa, trong luật ngân hàng sửa đổi nên quy định việc lương bậc và quyền lợi của cán bộ, công nhân viên của các ngân hàng thương mại quốc doanh phụ thuộc vào kết quả họat động của doanh nghiệp mà họ đang làm việc. Điều này sẽ huy động được tối đa khả năng công tác của cán bộ, công nhân viên, và tinh thần trách nhiệm của họ trong công việc. Tránh tình trạng ỷ lại, đùn đẩy nhau trong công việc, làm việc vô trách nhiệm, cứ làm cứ hưởng, lỗ nhà nước chịu ở một số ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay. Trong luật ngân hàng cũng cần phải có các điều khỏan quy định chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi họat động của lực lượng kiểm toán. Để lực lượng kiểm toán có cơ sở pháp lý vững chắc nhằm giúp họat động kiểm toán họat động hiệu quả hơn. Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong các cơ quan, đơn vị kinh tế thực hiện với chức năng chính là kiểm tra, đánh giá các họat động tài chính và phi tài chính nhằm bảo vệ tài sản của doanh nghiệp cũng như bảo đảm được sự chính xác và độ tin cậy của các sổ sách kế toán, nâng cao hiệu quả họat động trong doanh nghiệp và góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý tại các đơn vị kinh tế cơ sở. Thực hiện tốt công tác kiểm toán sẽ giảm được độ rủi ro và tăng thêm hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tăng cường khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các tổ chức tín dụng, thiết lập hệ thống đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa các giao dịch vãng lai, kiểm soát có chọn lựa các giao dịch tài khoản vốn. Xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài, kiểm soát và hạn chế tối đa việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. II. NÂNG CAO VAI TRÒ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU TIẾT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC II.1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh họat, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ của ngân hàng nhà nước Các NHTM muốn họat động tốt yêu cầu phải có một chính sách tiền tệ linh họat, nâng cao vai trò điều tiết, kiểm sóat tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. Triển khai các giải pháp phát triển thị trường tiền tệ theo Đề án hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính Việt Nam. Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp, hoàn thiện thị trường mở; Nâng cao chất lượng phân tích, dự báo kinh tế phục vụ cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương. Phối hợp với các bộ, các ngành để có sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô ( chính sách tiền tệ với quản lý nợ của chính phủ, chính sách tài khóa..). Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hóa có sự điều tiết gián tiết có hiệu quả của Nhà nước. Bổ sung, sửa đổi hoặc trình Chính phủ sửa đổi các quy định về ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lý và phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lý ngoại hối cho các chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường công tác ngiên cứu họach định chính sách tại ngân hàng Trung ương. Xây dựng hệ thống cơ quản lý ngọai tệ theo hướng tự do hóa có kiểm sóat bằng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ trong lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện triệt để phương châm "trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam". Thực hiện thống nhất một đầu mối quản lý ngoại tệ quốc gia là ngân hàng Trung ương. Phát triển mạnh thị trường ngoại hối làm cơ sở để hạn chế người cư trú mở tài khỏan ngoại tệ tại ngân hàng và tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ. Cải cách mệnh giá đồng tiền và có chính sách kích thích cho đồng tiền Việt Nam nhanh chóng được tự do chuyển đổi, trước hết là chuyển đổi trong các cân vãng lai. Xây dựng và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường tiền tệ ngắn hạn, tạo môi trường để áp dụng phổ biến các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Đồng thời nhanh chóng thành lập trung tâm thanh toán quốc gia do ngân hàng Trung ương vận hành để hiện đại hóa nền văn minh ngân hàng Việt Nam và là một phương tiện hữu hiệu để ngân hàng Trung ương kiểm soát mọi kênh dẫn vốn trong thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế, đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác và thuận lợi cho họat động thanh toán của kho bạc Nhà nước và của bất cứ ngân hàng nào trên lãnh thổ Việt Nam. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả, dễ giám sát theo họat động quốc tế. Tập trung triển khai các nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước tại chỉ thị số 27/2003/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện luật doanh nghiệp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể trong 6 tháng đầu năm 2004, tập trung rà soát, sửa đổi , bổ sung các quy định về thanh tóan hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu với các nước có chung biên giới để thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa qua biên giới. II.2. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng Trung ương Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về chất trong hoạt động thanh tra. Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các sai phạm. Tập trung, chú trọng thanh tra chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM nhà nước và công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD nhằm quản lý tốt chất lượng tín dụng; phát hiện và cảnh báo kịp thời những khoản vay có rủi ro; xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân sai phạm theo đúng quy định của pháp luật. Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và cơ chế phân loại nợ theo mức độ rủi ro để phản ánh chính xác chất lượng tín dụng, ngăn chặn sự gia tăng nợ xấu và tổng mức rủi ro đối với mỗi ngân hàng và toàn bộ hệ thống. Xây dựng các chỉ tiêu giám sát và đổi mới các chỉ tiêu giám sát từ xa theo tiêu chuẩn quốc tế. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt hiện tượng kết luận thanh tra không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức cá nhân vi phạm. Các đoàn thanh tra, kiểm tra chịu trách nhiệm trước tránh thanh tra, thống đốc ngân hàng nhà nước và trước pháp luật về kết quả thanh ta kiểm tra đối với các tổ chức tín dụng. Thanh tra ngân hàng nhà nước cần tăng cường các thiết chế an toàn kết hợp với nâng cao năng lực điều hành, chỉ đạo thống nhất hệ thống thanh tra ngân hàng và chịu trách nhiệm về việc theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình về chất lượng tín dụng, kết quả xử lý nợ xấu (bao gồm cả nợ quá hạn , nợ khoanh, nợ chờ xử lý), nợ tồn đọng của toàn hệ thống TCTD để kịp thời đề xuất với thống đốc ngân hàng nhà nước biện pháp xử lý, cảnh báo các tổ chức tín dụng biểu hiện rủi ro, thiếu an tòan. Thông qua thanh tra, giám sát nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng để củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng Việt Nam. Các đơn vị từ Trung ương tới các chi nhánh tỉnh, thành phố, các TCTD cần coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình hội nhập và phải tập trung chỉ đạo, triển khai kiên quyết, nghiêm túc nhằm tạo sự chuyển biến thật sự về hiệu quả trong họat động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước và toàn bộ hệ thống NHTM. Trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay của các NHTM trong nước, đảm bảo chất lượng tín dụng. Nếu không có các biện pháp thích hợp mà chạy theo lợi nhuận, các NHTM có thể lơi lỏng việc thẩm định lại dự án gây hậu quả xấu đến toàn hệ thống. Ngoài ra cần có biện pháp loại bỏ hiện tượng cò tín dụng, giảm bớt chi phí cho các doanh nghiệp, cũng như nâng cao khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp đối với hệ thống ngân hàng. II.3. Cải tổ, cơ cấu lại Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và chức năng quản lý điều tiết của ngân hàng nhà nước Cần phải cải tổ lại ngân hàng nhà nước theo hướng nâng cao năng lực quản lý, khả năng phân tích tài chính, phân tích kinh tế vĩ mô, cần tách biệt rõ ràng những họat động mang tính chuyên môn, nghiệp vụ - những họat động thuộc phạm vi chức năng ngân hàng mẹ - quản lý điều hành họat động về tiền tệ, tín dụng ngân hàng của toàn nền kinh tế. Không để lẫn lộn hoạt động chuyên môn nghiệp vụ với hoạt động mang tính chất hành chính-hoạt động nhằm duy trì sự tồn tại của một tổ chức-nhằm giảm bớt các thủ tục rườm rà, không cần thiết, đồng thời tăng thêm tính linh hoạt, nhạy bén khi xử lý các tình huống về tiền tệ trong nền kinh tế. Xây dựng mô hình Ngân hàng Nhà nước phù hợp với chức năng ngân hàng Trung ương với những nghiệp vụ cơ bản: hoạch định và giám sát thực hiện chiến lược; hoạch định và điều hành chính sách tài chính tiền tệ; thanh tra theo tiêu chuẩn quốc tế; vận hành hệ thống thanh toán quốc gia và nghiệp vụ phát hành, kho quỹ hiện đại. Trên cơ sở đó cần có một lộ trình cấu trúc lại tổ chức của Ngân hàng Nhà nước từ Trung ương đến hệ thống chi nhánh theo hướng tập trung tinh gọn, hiện đại. III. NÂNG CAO KHẢ NĂNG TÀI CHÍNH, TĂNG VỐN TỰ CÓ CHO CÁC NHTM Vấn đề tăng vốn tự có và phát triển hệ thống luôn là những vấn đề hàng đầu của các NHTM Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển. Quy mô về vốn tự có của một ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh giá về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của ngân hàng. Quy mô quá nhỏ bé về vốn là một trong những yếu điểm lớn, đang cản trở sự phát triển của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, để khắc phục yếu điểm trên trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng áp lực, các NHTM Việt Nam cần phải tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng: sát nhập hoặc giải thể các ngân hàng có mức vốn quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh. Mặt khác bắt buộc các ngân hàng không đủ vốn phải có biện pháp bổ sung trong một thời gian nhất định sao cho ngang bằng với mức trung bình của khu vực và đạt được mức tối thiểu 8%. Khuyến khích các ngân hàng sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tăng vốn từ bên ngoài kết hợp với phát triển vốn từ bên trong. III.1. Phát triển vốn từ bên trong Nếu như lợi nhuận của ngân hàng để lại có thể đáp ứng được nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là nguồn vốn bổ sung tốt nhất. Khi ngân hàng có thể bổ sung vốn mà không làm tổn hại đến họat động kinh doanh, đến các chủ sở hữu cũng như ngân sách nhà nước thì đó là việc nên làm. Muốn vậy thì các NHTM phải nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả đầu tư để nâng cao chất lượng và giá trị tài sản Có. Do đó, các NHTM phải tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi hoạt động kinh doanh thương mại để các NHTM thực hiện tốt chức năng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Hoạt động cho vay chính sách là một nghiệp vụ không mang lại lợi nhuận, nên cần phải tách hoàn toàn hoạt động này và chuyển hoạt động này sang cho Ngân hàng chính sách. Giảm dần bảo hộ các NHTM trong nước, đặc biệt về hoạt động tín dụng và cơ chế tái cấp vốn, tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong kinh doanh, giảm dần bao cấp đối với các NHTM nhà nước, áp dụng đầy đủ hơn các quy chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đồng thời, tự thân các NHTM phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với từng thời kỳ kinh doanh. Phát huy tốt nguồn vốn tự có. Nhất là chú trọng việc mở rộng quy mô họat động, hiện đại hóa công nghệ, đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến; cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới; xây dựng, chuẩn hóa và văn bản hóa toàn bộ các quy trình nghiệp vụ, các họat dộng chủ yếu của các NHTM; thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp; xác định trách nhiệm rõ ràng, tuân thủ triệt để các quy trình và văn bản đã được xây dựng. Hơn nữa, việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh cũng là vấn đề cần được quan tâm giải quyết hợp lý. Hiện nay, nhiều ngân hàng đang mở thêm các chi nhánh và xu hướng này có khả năng còn tiếp tục. Để làm lành mạnh hóa tài chính của các NHTM thì một yêu cầu cấp bách hiện nay đối với các NHTM Việt Nam hiện nay là phải giải quyết tốt nợ xấu, thu hồi vốn tiếp tục đầu tư kinh doanh. Nợ xấu làm cho một bộ phận tài sản Có bị đông cứng trong tài khoản thế chấp không sinh lời sẽ làm cho vốn không luân chuyển được, ngân hàng bị ảnh hưởng đến kết quả họat động kinh doanh, thậm chí còn thua lỗ, huy động vốn và cho vay, đầu tư bị thu hẹp. Trước hết, các ngân hàng phải rà soát lại các khoản nợ một cách cụ thể và chính xác, thực hiện phân loại nợ ( hoàn toàn có khả năng thu hồi, có khả năng thu hồi với những điều kiện nào hoặc thu hồi ở mức độ nào ...) để từ đó có biện pháp xử lý thích hợp đạt hiệu quả, nhưng phải quyết tâm cao, tháo gỡ từng bước với nhiều biện pháp khác nhau. Từng ngân hàng phải nỗ lực, quan tâm đến nợ xấu để tập trung giải quyết như ban hành quy chế về tổ chức hoạt động của ban xử lý nợ sao cho hoạt động có hiệu quả; tái thẩm định và phân tích nguyên nhân, tìm biện pháp xử lý tương thích... Cần phải thành lập một tổ chức mua bán nợ với nhiệm vụ mua lại nợ của các ngân hàng đang bị tồn đọng để xử lý, bán ra để thu hồi cho ngân hàng. Các NHTM cần phải xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt được để quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sau khi tính toán các nguồn bổ sung khác. Để có căn cứ quản lý, phải thiết lập một cơ chế phù hợp buộc các NHTM phải tự tích lũy vốn; bên cạnh các quy chế về mức vốn tối thiểu và tỉ lệ an toàn vốn, nhất thiết phải đặt ra một chỉ tiêu về tỉ lệ số nhân đòn bẩy tối đa để ràng buộc các ngân hàng muốn mở rộng quy mô hoạt động phải tích lũy một lượng vốn tương ứng.Trước mắt có thể cho phép các ngân hàng sử dụng nguồn từ quỹ đầu tư phát triển và dự phòng tài chính trích lập hàng năm chưa sử dụng đến, số lợi nhuận chưa phân phối để bổ sung vốn. Tiếp đến đưa ra quy định về thời gian tối đa cho mỗi ngân hàng phải bổ sung vốn đủ mức an toàn tối thiểu, trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn các ngân hàng không được mở rộng quy mô hoạt động. Đối với các NHTM cổ phần, khi hết thời hạn quy định nếu không đáp ứng được yêu cầu về vốn sẽ buộc phải đóng cửa hoặc sát nhập với ngân hàng khác. Mỗi ngân hàng phải xây dựng kế hoạch phát triển hàng năm và xác định tỷ lệ tích lũy từ lợi nhuận để tự bổ sung vốn sao cho phù hợp với nhu cầu mở rộng hoạt động của mình. Đồng thời, phải có chính sách khuyến khích các ngân hàng tích lũy vốn nhanh sẽ được hưởng những ưu đãi nhất định về thuế thu nhập, phí bảo hiểm tiền gửi và sự hỗ trợ của ngân hàng nhà nước khi gặp tình huống bất trắc. Trong báo cáo tài chính hàng nă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1135.doc
Tài liệu liên quan