Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, bệnh lý và lâm sàng bệnh sán dây ở gà thả vườn tại thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên

MỤC LỤC

Trang

Phần 1 1

MỞ ĐẦU 1

1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1

1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2

1.3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2

1.4. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 2

1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2

1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2

PHẦN 2 3

TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 3

2.1.1. Thành phần và đặc điểm sinh học của các loài sán ký sinh ở gà 3

2.1.1.1. Thành phần của các loài sán dây ký sinh ở gà 3

2.1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo các loài sán dây gây bệnh 6

2.1.2. Dịch tễ học bệnh sán dây gà 16

2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh sán dây gà 20

2.1.4. Chẩn đoán bệnh sán dây gà 22

2.1.5. Điều trị và phòng bệnh cho gà 23

2.1.5.1. Điều trị 23

2.1.5.2. Phòng bệnh 25

2.2 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 28

2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 28

2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 31

PHẦN 3 35

ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG 35

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35

3.1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 35

3.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 35

3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 35

3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán dây ở gà thả vườn tại TP Thái Nguyên 35

3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý sán dây ở gà thả vườn tại thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên 36

3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36

3.4.1. Phương pháp lấy mẫu, xét nghiệm và đánh giá cường độ nhiễm sán dây 36

3.4.1.1. Phương pháp thu thập mẫu 36

3.4.1.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu 37

3.4.2. Phương pháp xét nghiệm đốt và trứng sán dây ở mẫu đất bề mặt nền chuồng và khu vực chăn thả 37

3.4.3. Phương pháp mổ khám, thu thập bệnh phẩm làm tiêu bản vi thể 37

3.4.4. Quy định một số yếu tố liên quan đến các chỉ tiêu nghiên cứu dịch tễ bệnh sán dây ở gà thả vườn 38

3.4.4.1. Lứa tuổi gà 38

3.4.4.2. Mùa vụ trong năm 38

3.4.5. Phương pháp nghiên cứu bệnh lý, lâm sàng của bệnh sán dây gà 38

3.4.5.1. Phương pháp xác định sự thải đốt sán dây hàng ngày của gà bị bệnh 39

3.4.5.2. Phương pháp xét nghiệm máu để xác định các chỉ số huyết học của gà bị bệnh sán dây và gà khoẻ 39

3.4.5.3. Phương pháp xác định bệnh tích đại thể và vi thể ở cơ quan tiêu hoá do sán dây gây ra 39

3.5. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU 40

3.5.2. Đối với các tính trạng định lượng 40

3.5.3. So sánh mức độ sai khác giữa hai số trung bình 41

PHẦN 4 43

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 43

4.1. NGHIÊN CỨU ĐẶC DIỂM DỊCH TỄ BỆNH SÁN DÂY Ở GÀ THẢ VƯỜN TẠI TP. THÁI NGUYÊN 43

4.1.1. Tình hình nhiễm sán dây ở gà thả vườn tại 4 xã phường của TP Thái Nguyên 43

4.1.1.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây ở gà thả vườn của các phường xã 43

4.1.1.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây theo tuổi gà 45

4.1.1.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây theo mùa vụ 47

4.1.2. Sự phát tán đốt sán dây ở nền chuồng, xung quanh chuồng và vườn thả gà 49

4.2. NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LÂM SÀNG BỆNH SÁN DÂY Ở GÀ 50

4.2.1. Sự thải đốt sán dây hàng ngày của gà bị bệnh 50

4.1.2. Tỷ lệ và triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh sán dây 53

4.1.3. Sự thay đổi chỉ số huyết học của gà nhiễm sán dây 55

4.1.4. Bệnh tích đại thể và số lượng sán dây ký sinh ở gà bệnh 60

4.1.5. Bệnh tích vi thể ruột non, ruột già do sán dây gây ra 62

PHẦN 5 67

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 67

5.1. KẾT LUẬN 67

5.2. ĐỀ NGHỊ 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 68

III. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 70

 

 

doc80 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2972 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ, bệnh lý và lâm sàng bệnh sán dây ở gà thả vườn tại thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n pháp phòng chống các bệnh giun sán. Tác giả cho rằng biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh giun sán ở gia cầm là biện pháp phòng trừ tổng hợp, nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của giun sán ở môi trường cũng như trong cơ thể vật chủ. Như vậy, khâu quan trọng trong biện pháp phòng trừ tổng hợp là tẩy sán dây cho gà. Có thể tẩy sán non và sán trưởng thành. Nhưng thực tế trong điều kiện khí hậu nóng ẩm như ở nước ta, mầm bệnh luôn tồn tại và phát triển quanh năm. Vì vậy, ngay trong bản thân con vật cũng tồn tại sán ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Do đó nên chọn các loại thuốc diệt được sán ở tất cả các giai đoạn phát triển để tránh mầm bệnh phát tán ra bên ngoài. Nguyễn Xuân Bình và CS (2002) [1] cho rằng, việc phòng bệnh sán dây cho gà cần phải thực hiện các bước sau: - Vệ sinh chuồng trại định kỳ, đặc biệt là dọn phân thường xuyên để đốt. - Dùng các loại thuốc diệt ký chủ trung gian kiến, ruồi… - Sắp đặt chuồng nuôi và sân nuôi xoay vòng. Để phòng chống bệnh sán dây có hiệu quả, đồng thời với việc tẩy sán phải sử dụng các biện pháp sau: - Chuồng nuôi sân chơi phải khô ráo, sạch sẽ, vì đây là nơi tiếp xúc thường xuyên với mầm bệnh. Do đó có thể thường xuyên thay đệm lót chuồng. - Vườn chăn thả phải luôn sạch sẽ, đồng thời diệt ký chủ trung gian để tránh cho gà không có cơ hội tiếp xúc với ký chủ trung gian gây bệnh. - Xử lý phân để diệt đốt sán và trứng sán, làm cho môi trường sạch hơn. Hàng ngày phải thu dọn phân ở chuồng và vườn thả gà, tập trung ủ nhiệt sinh học, sau 3- 4 tuần nhiệt độ đống ủ tăng lên 60 - 70 ºC sẽ làm trứng chết. Có thể cho thêm tro bếp, vôi bột và lá xanh vào để thêm nhiệt độ cho đống ủ. - Luôn đảm bảo khẩu phần ăn đủ về số lượng và chất lượng. Bổ sung thêm các loại thức ăn giàu vitamin, nguyên tố vi lượng. - Cho gà uống nguồn nước sạch. Nhiều tác giả khi nói đến việc phòng trừ bệnh giun sán nói chung và bệnh sán dây nói riêng đều thống nhất cho rằng cần áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp sau: - Định kỳ dùng thuốc tẩy sán dây cho gà. - Tập trung phân để ủ diệt trứng sán dây, định kỳ làm vệ sinh chuồng trại, sát trùng chuồng trại và sân chơi. - Không chăn thả gà ở những vườn chăn thả ẩm thấp. - Cách ly gà con, nuôi ở chuồng và sân chơi sạch sẽ. - Áp dụng các biện pháp diệt côn trùng như: Xịt thuốc diệt côn trùng, nhưng phải chú ý không gây độc cho gà, giữ sạch thức ăn và ngồn nước uống cho gà. - Nuôi dưỡng theo khẩu phần ăn phù hợp với lứa tuổi, đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng. Trong đó cần bổ sung đạm, khoáng và các vitamin A, D, E và vitamin nhóm B. Bên cạnh đó việc dùng thuốc tẩy phòng bệnh là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để tiêu diệt sán dây ngay từ khi chúng mới xâm nhập vào cơ thể ký chủ, hoặc khi sán còn chưa đạt đến giai đoạn trưởng thành, chưa có đốt sán già thải ra ngoài nên chưa có khả năng phát tán mầm bệnh ra môi trường (Trịnh Văn Thịnh, 1963, 1978; Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Soulsby, 1982; Hansen, 1994; Urquhart, 1996; Kaufmann, 1996…) Ngoài ra còn có các phương pháp tấn công ký sinh trùng ở từng giai đoạn: - Chống giai đoạn thứ nhất: Ký sinh trùng trưởng thành đẻ trứng ở ký chủ cuối cùng. Có thể tiêu diệt chúng bằng hai phương pháp: + Dùng thuốc đặc hiệu để diệt ký sinh trùng. + Tiêu diệt ký sinh trùng bằng cách giết tất cả những vật mắc bệnh (phương pháp này triệt để nhưng tốn kém). - Chống giai đoạn thứ hai - trứng: + Tiêu diệt hầu hết trứng bằng cách thu nhặt phân đem chôn. + Có thể ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học, đối với gia súc chăn thả phải ngăn không cho trứng lên đồng cỏ phát triển bằng cách làm cho đồng cỏ luôn khô ráo. - Chống giai đoạn thứ ba và thứ tư (phôi thai và ấu trùng): Diệt toàn bộ phôi thai và ấu trùng tự do ngoài đồng cỏ và ao tù bằng vôi bột, sunfat sắt, sunfat đồng với lượng 400kg vôi bột/ha đồng cỏ và 5 kg vôi bột/100 m³ nước ao. Không cho phôi thai hay ấu trùng xâm nhập vào cơ thể ký chủ. Hàng ngày, dọn sạch phân chuồng và ủ, dùng sức nóng khi ủ diệt trứng sán. Theo dõi sức khỏe gà, nếu thấy có triệu chứng nghi ngờ cần kịp thời tẩy sán. Trong thời gian tẩy nhốt gà lại 2-3 ngày, thu hết phân thải vì trong phân có nhiều đốt chứa trứng sán. 2.2 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các loài giun sán. Việc nghiên cứu sán dây ở Việt Nam đã được bắt đầu hơn một thế kỷ nay, do các bác sỹ y học, thú y học người Pháp thực hiện. Năm 1870, Cande.J lần đầu tiên mô tả loài sán dây Diphyllobothrium tìm thấy ở người Nam Bộ (Việt Nam). Sau 10 năm mới xuất hiện các công trình nghiên cứu lẻ tẻ về một vài loài sán ký sinh ở người. Từ đó, việc nghiên cứu về thành phần sán dây ở người được chú ý hơn, rồi mở rộng phạm vi nghiên cứu sang một số động vật nuôi và động vật hoang dã. Năm 1927, Joyeux và Houdemer đã xuất bản công trình nghiên cứu khu hệ giun sán ở Đông Dương, các tác giả đã phát hiện được ở động vật Việt Nam 13 loài sán dây, trong đó có 8 loài được tìm thấy lần đầu tiên: R. tetrragona, R.frayi, R. echinobothrida, Amoebotania cuneata. Năm 1963, Trịnh Văn Thịnh đã tổng hợp những kết quả nghiên cứu trước đây, trong đó có thêm 23 loài nữa, ở gà nhà có các loài: Cotugnia, digonopora, C. cuneata, R. cesticillus, Hymenolepis carioca, Davainea proglottina. Năm 1969, Bùi Lập và CS phát hiện được gà ở Hà Bắc nhiễm 4 loài sán dây: C. digonopora, R. tetragona, R. cesticillus và R. echinobothrida. Năm 1972, Oschmarin và CS nghiên cứu mẫu sán dây thu được ở một số động vật sống hoang dại tại ven biển Vịnh Bắc Bộ đã phát hiện được 57 loài sán dây, trong đó có 26 loài lần đầu gặp ở Việt Nam: R. penetrans norva, R. penetrans, R. peradenica, R. georgiensis… Năm 1978, Nguyễn Thị Kỳ và CS đã xem xét lại toàn bộ mẫu thu được ở gà rừng và gà nhà Việt Nam từ năm 1962 tại Viện Động vật học Petersburg đã phát hiện được 9 loài sán dây, trong đó R.(paroniella) tinguiana được phát hiện lần đầu. Đến năm 1994 và 1995 trên cơ sở mẫu, tư liệu và tài liệu thu thập được tử năm 1962, Nguyễn Thị Kỳ đã đi sâu vào nghiên cứu khu hệ sán dây ở động vật Việt Nam, thống kê và phát hiện được 148 loài, sắp xếp chúng vào hệ thống phân loại (Đặng Ngọc Thanh và CS, tập 13, 2003) [17]. Phạm Sỹ Lăng và CS (2002) [8] cho biết: Gà ở các lứa tuổi đều bị nhiễm sán dây Raillietina spp. Nhưng gà con bị nhiễm sán với tỷ lệ và cường độ cao, phát bệnh ở thể cấp tính và chết nhiều, nhất là gà từ 1 - 3 tháng tuổi. Gà trưởng thành nhiễm sán đôi khi không thể hiện rõ triệu chứng lâm sàng chỉ thấy gà gầy dần, tăng trọng giảm, giảm đẻ trứng (đối với gà mái). Các giống gà thịt và gà hướng trứng cao sản nhập nội chưa thích nghi với điều kiện sinh thái nước ta nên bị nhiễm sán nặng hơn các giống gà nội. Đỗ Hồng Cường và CS (1999) [2] khi mổ khám 511 gà (trong đó có 305 gà Ri và 206 gà Lơgo) cho biết, thành phần các lớp giun sán ký sinh ở đàn gà nuôi tại các hộ gia đình thuộc thành phố Hà Nội gồm 3 loài sán dây là: R. tetragona, R. cesticillus và R. echinobothrida. Tỷ lệ nhiễm ở gà Ri cao hơn gà Lơgo, cường độ cảm nhiễm của 2 giống gà này gần tương tự nhau. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây có sự biến động theo lứa tuổi: gà Ri dưới 2 tháng tuổi nhiễm 36,11%; 5,46 sán/gà; trên 6 tháng tuổi nhiễm 71,08%; 11,02 sán/gà. Gà Lơgo dưới 2 tháng nhiễm 8,47%; 5,2 sán/gà và trên 6 tháng là 27,45%; 9 sán/gà. Mức độ cảm nhiễm sán dây xảy ra từ những tháng đầu, gà càng lớn thì mức độ cảm nhiễm càng cao, do có điều kiện tiếp xúc với ký chủ trung gian. Theo Lê Hồng Mận và CS (2001) [13], sán dây ký sinh ở gà thường gặp 5 loài chủ yếu là: R. tetragona, R. cesticillus và R. echinobothrida, R. botini, Davainea proglottina. Sán bám vào ruột non nhờ giác bám gây tổn thương thành ruột tạo điều kiện cho nhiễm trùng thứ phát (E.coli, Salmonella…) có thể gây xuất huyết và viêm ruột, tiêu chảy, phân thải ra kèm theo dịch nhày. Nhiều trường hợp niêm mạc ruột non bị bọc bởi màng nhày màu vàng, đôi khi thấy sán nằm trong đó. Ở nước ta, trung bình 68,8% gà bị nhiễm sán dây thường thấy các loài sau: R. cesticillus, R. echinobothrida, R. symondsii, Spiocrynacei, Cotugnia digonopora, Fimbriaria fasciolasis, Dilipisdoides bauchei, Diorchis americana, Davainea proglottina (Phan Lục, 1996) [12]. Theo Dương Công Thuận (2003) [24] Ở Việt Nam, qua điều tra thấy gà nhiễm nhiều loài thuộc các giống Raillietina, Hymenolepis, Cotugnia, Amoebotaenia. Tỷ lệ nhiễm từ 30 - 70% tuỳ từng loài. Cũng tuỳ loài sán mức độ gây bệnh có khác nhau. Bệnh do Davainea, Raillietina thường nặng hơn, Amoebotaenia thường gây bệnh nhẹ hơn. Đặng Ngọc Thanh và CS (2008) [17] cho biết, khi tiến hành mổ khám 703 gà thì có 629 con nhiễm sán dây chiếm tỷ lệ 89,47%. Tỷ lệ nhiễm sán dây của gà nhà 93,40%; gà rừng là 83% và phát hiện được 19 loài sán dây, trong đó có 12 loài thuộc họ Davanieidea, 5 loài thuộc họ Hymenolepdidae, 2 loài thuộc họ Dilepididae. Riêng gà nhà đã phát hiện được 19 loài sán dây, còn gà rừng là 10 loài, có 4 loài rất phổ biến và chung giữa gà nhà và gà rừng. Loài Dileppidoides bauchei là loài đặc trưng của gà nhà ở Việt Nam. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và CS (1999) [6], gà ở miền núi nhiễm sán dây nhiều hơn vùng trung du và đồng bằng. Theo tổng hợp của tác giả: Nghĩa Lộ nhiễm 80,7%; Quảng Ninh 85%; Hà Bắc 73,8%; Hà Nam 69,4%. Gà ở các lứa tuổi đều nhiễm sán dây: gà dưới 3 tháng tuổi nhiễm 41,1%; 3 - 5 tháng tuổi nhiễm 57,1%; trên 5 tháng tuổi là 69,9%. Nguyễn Thị Kim Thành và CS (2000) [18], khi nghiên cứu ảnh hưởng của bệnh sán dây tới một số chỉ tiêu huyết học của gà tại ba huyện Thanh Trì, Từ Liêm và Đông Anh - Hà Nội, tác giả cho biết: - Các chỉ tiêu huyết học (hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố) của gà ở khu vực Hà Nội có sự thay đổi theo giống và tính biệt. - Số lượng hồng cầu và hàm lượng hemoglobin của gà bị nhiễm sán dây giảm đi rõ rệt nhưng số lượng bạch cầu lại tăng. Sự biến đổi này cũng xảy ra tương tự đối với nhóm gà bị nhiễm sán dây ở 2 lứa tuổi khác nhau. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Cũng như ở Việt Nam, bệnh sán dây gà gây tổn hại lớn cho ngành chăn nuôi ở các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước thuộc khu vực nhiệt đới. Vì vậy, trong nhiều năm qua các nhà khoa học đã nghiên cứu về bệnh sán dây và đã thu được những kết quả có ý nghĩa đối với ngành chăn nuôi gia cầm trong đó có chăn nuôi gà. Khi nghiên cứu về tình hình nhiễm giun sán ở 300 gà trưởng thành tại ba làng thuộc quận Gharb - Morocco từ năm 2002 - 2005, Hassouni T. và CS (2006) [31] cho biết đã tìm thấy các loài giun sán: Notocotylus gallinarum (0,7%); Hymenolepis carioca (3,7%); R. echinobothrida (5,7%); Hymenolepis contaniana (7%); R. tetragona (9,3%); R. cesticillus (12%); Capillaria obsignata (6%); Subulura brumpti (15,3%); Ascaridia galli (9%); Heterakis gallinarum (10%); Cheilospirura hamulosa (2,7%); Dispharynx nasuta (5,3%) và Tetrameres sp (3,3%). Mpoame và CS (1989) [35] kiểm tra trên 315 gà mua tại chợ Dschang (phía tây Camaroon), kết quả tìm thấy 10 loài giun sán. Trong đó gà nhiễm R.tetragona với tỷ lệ 14,5%; không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa gà trống và gà mái. Gà thường nhiễm nặng vào mùa mưa (tháng 4 đến tháng 10). Permin A. và CS (1997) [40] đã nghiên cứu tình hình nhiễm giun sán theo mùa và khí hậu tại 6 làng trong vùng Morogoro (Tanzania) trên 600 gà được lựa chọn ngẫu nhiên, kết quả là: Tất cả các gà đều nhiễm giun sán với mức độ trung bình là 4,8 loài giun sán/gà ở mùa mưa và 5,1 loài giun sán/gà ở mùa khô. Tỷ lệ nhiễm các loài ở mùa mưa là: R. echinobothrida (41,3%), R. tetragona (25,3%), R. cesticillus (8,7%), ở mùa khô tương ứng là 46,3% và 2,7%. Như vậy tỷ lệ nhiễm theo mùa phụ thuộc vào loài sán dây. Một nghiên cứu khác, Permin A. và CS (2002) [39] cho biết: Khi tiến hành nghiên cứu trên 50 gà con và 50 gà trưởng thành ở quận Gorromonzi thuộc Zimbabwe thấy, tỷ lệ nhiễm sán dây ở gà con và gà trưởng thành có sự khác biệt tuỳ loài. Đối với loài R. echinobothrida gà con nhiễm 66%, gà trưởng thành nhiễm 34%; đối với loài R. tetragona gà con nhiễm tới 94%, gà trưởng thành nhiễm 100%. Theo Abdelgder A. và CS (2008) [29], tỷ lệ nhiễm các loài giun sán ở gà trống và gà mái trưởng thành tại miền bắc Jordan có sự khác nhau tuỳ loài giun sán. Tỷ lệ nhiễm Ascaridia galli ở gà trống là 43%, gà mái là 28%; R. cesticillus ở gà trống là 11%, gà mái là 5%; tính chung cả gà trống và mái: Davainea proglottina 1,4%; R. echinobothrida 16% và R. tetragona 18%. Số lượng ký sinh trung bình là 7 giun sán (biến động từ 1 - 168 giun sán/gà) Magwisha H.B và CS (2002) [33] đã tiến hành khảo sát trên 100 gà tại vùng nông thôn ở Morogoro (Tanzania) thấy gà nhiễm 18 loài Nematoda, 8 loài Cestoda, không nhiễm Trematoda. Tất cả các gà đều nhiễm ít nhất ba loài giun sán khác nhau. Gà đang tăng trưởng có từ 4 - 14 giun sán/cá thể, gà trưởng thành có từ 3 - 12 giun sán/cá thể. Gà nhiễm cao ở mùa mưa. Tỷ lệ nhiễm hai loài sán dây Davainea proglottina; R. tetragona ở gà đang tăng trưởng là 9%, 36% và gà trưởng thành là 2%, 21% (P <0,05). Tại Kenya, theo kết quả nghiên cứu trên 360 gà được chọn ngẫu nhiên từ vùng Yathui - Machakos của Mugube E.O và CS (2008) [36], tỷ lệ nhiễm giun sán là 93,3%. Trong đó tỷ lệ nhiễm Nematoda là 74,4%; tỷ lệ nhiễm Cestoda là 68,1%; hai loài Cestoda nhiễm nặng nhất là R. echinobothrida (33,3%) và Davainea proglottina (19,4%), gà trống nhiễm nặng hơn gà mái. Theo Eshetu Y và CS (2001) [30]: Khi kiểm tra 267 gà thả vườn tại 4 huyện của vùng Amhara - Ethiopia từ tháng 10 năm 1998 đến tháng 8 năm 1999 đã tìm thấy các loài sán dây với tỷ lệ nhiễm khác nhau: R. echinobothrida (25,84%); R. tetragona (45,69%); R. cesticillus (5,62%); Davainea proglottina (1,12%). Kurt M. và CS (2008) [32], trong một cuộc khảo sát được thực hiện để xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm giun sán ở 185 con gà từ 9 quận, huyện trong khu vực Samsun, miền Bắc Thổ Nhĩ Kỳ vào giữa tháng 7 năm 1999 và tháng 6 năm 2000 đã cho biết: Tổng cộng có 16 loài giun sán khác nhau đã được phát hiện. Các giun sán được tìm thấy là: Davainea proglottina (23%), Raillietina echinobothrida (13%), Raillietina cesticillus (12%), Hymenolepis Carioca (10%), Raillietina tetragona (6%), Choanotaenia infundibulum (2%), Amoebotaenia cuneata (2%), Echinoparyhium recurvatum (1%), Echinostoma revolutum (1%), Heterakis gallinarum (29%), Ascaridia galli (16%), Capillaria caudinflata (12%), Capillaria retusa (6%), Capillaria bursata (4%), Capillaria annulata (1%) và Syngamus trachea (2%). Theo Poulsen J và CS (2003) [42], khi tiến hành một nghiên cứu để xác định tỷ lệ nhiễm các loài của giun sán của 100 gà ở Ghana, Tây Phi. Tất cả các con gà được kiểm tra (100%) đã bị nhiễm giun sán tiêu hóa; tổng số 18 loài được phát hiện. Các loài phổ biến là: Acuaria hamulosa (25%), Allodapa suctoria (20%), Ascaridia Galli (24%), Capillaria spp. (60%), Choanotaenia infundibulum (13%), Gongylonema ingluvicola (62%), Heterakis gallinarum (31%), H. isolonche (16%), Hymenolepis spp. (66%), Raillietina cesticillus (12%), R. echinobothrida (81%), R. tetragona (59%), Strongyloides avium (2%), Subulura strongylina (10%), Tetrameres fissispina (58%), Trichostronygylus tenuis (2%), cuối cùng là một loài Acanthocephalan (giun đầu gai) không xác định (1%) và một loài sán lá không xác định (1%). Mohammed OB và CS (1988) [33] vai trò của một số loài kiến như vật chủ trung gian của sán dây ở gia cầm, tại Sudan tác giả đã tiến hành nghiên cứu tìm kiếm ấu trùng sán dây trong các mẫu chuồng gà tại các khu vực khác nhau của vùng. Pachycondyla sennaarensis, Messor galla và Acantholepis sp. là các loài thu thập được từ các khu vực khảo sát. Tất cả các loài kiến đã được kiểm tra ấu trùng sán dây nhưng chỉ có P. sennaarensis mang ấu trùng (cysticercoid). Chúng giống với các nang sán của Raillietina tetragona. Orlov. F.M và CS (1975) [28] cho biết gà bị nhiễm sán dây nặng thường thấy vào mùa mưa nhiều, ẩm độ cao, trời nóng chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 11, đây là thời điểm thích hợp cho ký chủ trung gian phát triển. Từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau nhiệt độ xuống thấp hơn, trời rét, khô hạn nên tỷ lệ nhiễm thấp hơn. Theo Nurelhuda I.E và CS (1989) [37]: Khi sử dụng Oxfendazole tẩy R. tetragona trên gà với liều 20; 10; 7,5; 5 và 2,5 mg/kgTT cho uống. Hiệu quả điều trị sán non là 100% ở liều 10mg/kgTT và 7,5 mg/kg TT đối với sán trưởng thành. Nếu sử dụng gấp đôi (20 mg/kg TT) gà cũng không có phản ứng lâm sàng. Sử dụng Praziquantel điều trị cho gà nhiễm sán dây Raillietina spp. ở Sudan, kết quả cho thấy: Liều duy nhất với các mức 10; 7,5 và 5 mg/kg TT cho gà 7 ngày tuổi hiệu quả tẩy sán 100%, sử dụng liều 10; 5 và 2,5 mg/kg TT cho gà 17 ngày tuổi hiệu quả tẩy sán lần lượt là 100%; 97,1% và 95%. Thuốc không gây phản ứng với các liều lượng đã sử dụng để tẩy sán dây cho gà (Nurelhuda I.E và CS,1989) [38]. Rajendran M. và CS (1998) [43], cho biết kết quả nghiên cứu sử dụng Praziquantel điều trị cho gà nhiễm sán dây Raillietina spp: Khi sử dụng liều duy nhất 10 mg/kg TT với thuốc ở dạng viên và 0,15 ml/ kg TT ở dạng lỏng có hiệu quả điều trị cao. Praziquantel ở dạng lỏng tiêm vào bắp có hiệu quả điều trị tốt hơn, thuốc rất an toàn cho gà, hiệu quả điều trị cao với tất cả gà ở các lứa tuổi. PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU * Đối tượng nghiên cứu gà thả vườn nuôi tại nông hộ, trại chăn nuôi gia đình ở TP. Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên. * Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2010 * Địa điểm nghiên cứu: - Đề tài được thực hiện tại các nông hộ, các trại chăn nuôi gia đình với quy mô khác nhau ở 3 phường: Quan Triều, Tân Long, Thịnh Đán và xã Đồng Bẩm của thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên * Địa điểm xét nghiệm mẫu: + Bộ môn Bệnh động vật - Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. + Bộ môn Vi sinh vật - Bệnh lý - Truyền nhiễm, Khoa Thú y, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội. 3.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU - Mẫu phân gà, mẫu đất ở xung quanh chuồng và vườn thả gà. - Gà ở các lứa tuổi - Các phần ruột non ruột già, máu gà bị bệnh sán dây và gà khoẻ. - Kinh hiển vi quang học, kính lúp, máy ly tâm, hoá chất và các dụng cụ thí nghiệm khác. 3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán dây ở gà thả vườn tại TP Thái Nguyên - Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây gà ở các địa phương trong TP. Thái Nguyên. - Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây theo tuổi của gà. - Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây theo mùa vụ. - Sự phát tán đốt và trứng sán dây ở nền chuồng, xung quanh chuồng, vườn thả gà. 3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý sán dây ở gà thả vườn tại thành phố Thái Nguyên - Tỉnh Thái Nguyên - Sự thải đốt sán hàng ngày của gà bị bệnh - Tỷ lệ và triệu chứng lâm sàng của gà bị bệnh - Sự thay đổi một số chỉ số huyết học của gà bệnh so với gà khoẻ - Bệnh tích đại thể và số lượng sán dây ký sinh ở gà bị bệnh - Bệnh tích vi thể ruột non, ruột già do sán gây ra. 3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.4.1. Phương pháp lấy mẫu, xét nghiệm và đánh giá cường độ nhiễm sán dây Bố trí lấy mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc. Việc thu thập mẫu được tiến hành ngẫu nhiên tại các nông hộ và các trại chăn nuôi gà thả vườn. Số gà lấy mẫu phân bố ở các phường Tân Long, Quan Triều, Thịnh Đán và xã Đồng Bẩm của thành phố Thái Nguyên. Các mẫu được xét nghiệm ngay trong ngày hoặc bảo quản theo quy trình bảo quản mẫu trong các nghiên cứu ký sinh trùng học. 3.4.1.1. Phương pháp thu thập mẫu - Mẫu phân: Lấy mẫu phân mới thải, còn nguyên của gà các lứa tuổi. Để riêng mỗi mẫu phân vào một túi nilon nhỏ và mỗi túi đều có ghi rõ: Thời gian (ngày, tháng, năm), địa điểm, tuổi, giống, trạng thái phân và các biểu hiện lâm sàng của gà (nếu có). - Khu vực xung quanh chuồng gà: Lấy mẫu đất tương tự như cách lấy mẫu nền chuồng (80 - 100gam/mẫu). - Mẫu đất bề mặt ở khu vực chăn thả: Tại mỗi khu vực chăn thả, lấy mẫu đất. Mỗi mẫu được để riêng trong túi nilon có nhãn ghi rõ địa điểm và thời gian lấy mẫu (80 - 100gam đất bề mặt/mẫu). Các mẫu đựơc xét nghiệm ngay trong ngày hoặc xét nghiệm sau khi bảo quản sau khi bảo quản theo quy trình bảo quản mẫu trong nghiên cứu ký sinh trùng học. 3.4.1.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu nghiên cứu * Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm sán dây Xét nghiệm đốt sán do gà thải ra trong phân: Lấy từng mẫu phân cho vào cốc thủy tinh, thêm 5 - 10 lần nước, khuấy tan rồi để yên 15 - 20 phút cho lắng xuống, gạn nước trên đi, lại cho nước vào, rửa đi rửa lại nhiều lần đến khi nước trong suốt thì được. Sau cùng gạn nước đi cho cặn vào đĩa Petri đặt trong tờ giấy màu đen để quan sát bằng mặt thường và kính lúp tìm đốt sán. Nếu có thì dùng bút lông hoặc lông gà để khời ra (Theo Phan Lục và CS, 1996) [12]. Những mẫu tìm thấy đốt sán dây được xác định là có nhiễm, ngược lại là không nhiễm. * Phương pháp xác định cường độ nhiễm sán dây: Cường độ nhiễm sán dây được xác định bằng số lượng đốt sán/lần thải phân bằng phương pháp soi kính lúp, đếm tất cả những đốt sán có trong mẫu. Căn cứ vào kết quả xét nghiệm và biểu hiện lâm sàng của gà, cường độ nhiễm được quy định như sau: - Cường độ nhiễm nhẹ : ≤ 10 đốt/ lần thải phân - Cường độ nhiễm trung bình : 11 - 20 đốt/lần thải phân. - Cường độ nhiễm nặng : 21 - 40 đốt/lần thải phân - Cường độ nhiễm rất nặng : > 40 đốt/lần thải phân 3.4.2. Phương pháp xét nghiệm đốt và trứng sán dây ở mẫu đất bề mặt nền chuồng và khu vực chăn thả Mẫu đất được xét nghiệm ngay trong ngày, những mẫu chưa xét nghiệm ngay được bảo quản ở nhiệt độ 2 - 4º C, không quá 3 ngày. Xét nghiệm đốt sán dây bằng phương pháp lắng cặn Benedek và xét nghiệm trứng sán dây bằng phương pháp Fulleborn. 3.4.3. Phương pháp mổ khám, thu thập bệnh phẩm làm tiêu bản vi thể - Mổ khám theo phương pháp mổ khám không toàn diện cơ quan tiêu hoá. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và CS (2008) [7]: Để tìm sán dây ký sinh trong đường tiêu hoá, tiến hành mổ khám gà theo phương pháp mổ khám không toàn diện cơ quan tiêu hoá, thu thập mẫu sán dây ký sinh ở ruột non và ruột già của gà. Cách mổ khám: Dùng kéo nhọn, sắc cắt dọc theo chiều dài của rột và gạt toàn bộ chất chứa vào cốc thuỷ tinh dung tích 300ml có chứa nước sạch. Dùng phương pháp lắng cặn để tìm sán. - Lấy các đoạn ruột non, ruột già của những gà bị nhiễm sán dây nặng, cố định trong dung dịch Formol 10 % để làm tiêu bản vi thể. 3.4.4. Quy định một số yếu tố liên quan đến các chỉ tiêu nghiên cứu dịch tễ bệnh sán dây ở gà thả vườn 3.4.4.1. Lứa tuổi gà Tuổi gà được phân ra theo 3 lứa tuổi: 3 tháng tuổi > 3 - 6 tháng tuổi ≥ 6 tháng tuổi Trong quá trình lấy mẫu, loại trừ những mẫu không xác định được tuổi. Số mẫu xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán dây theo tuổi gà được phân bổ như sau: Tuổi gà ≤ 3 tháng tuổi > 3-6 tháng tuổi > 6 tháng tuổi Không xác định được Số lượng mẫu 124 175 238 131 3.4.4.2. Mùa vụ trong năm Theo dõi trong 2 mùa - Mùa Xuân - Mùa Hè 3.4.5. Phương pháp nghiên cứu bệnh lý, lâm sàng của bệnh sán dây gà Quan sát triệu chứng lâm sàng của những gà nhiễm sán dây (có kết quả xét nghiệm phân dương tính). Mổ khám gà để đếm số lượng sán ký sinh ở đường tiêu hoá và kiểm tra bệnh tích đại thể. Cắt đoạn ruột chứa nhiều sán, cố định trong dung dịch Formol 10% để làm tiêu bản vi thể. Lấy máu của những gà bị nhiễm sán nặng để xét nghiệm các chỉ số huyết học. 3.4.5.1. Phương pháp xác định sự thải đốt sán dây hàng ngày của gà bị bệnh Theo dõi gà đã xác định có nhiễm sán dây tại các hộ dân ở TP Thái Nguyên trong 5 ngày, xét nghiệm phân 3 lần/ngày (sáng, chiều, tối). Thí nghiệm được bố trí trong mùa Xuân và mùa Hè 3.4.5.2. Phương pháp xét nghiệm máu để xác định các chỉ số huyết học của gà bị bệnh sán dây và gà khoẻ * Phương pháp lấy mẫu: Lấy mẫu máu ở tĩnh mạch cánh gà bị bệnh sán dây và gà khoẻ. Mỗi gà lấy 1ml máu vào ống nghiệm có nút cao su chứa 0,1 ml chất chống đông vô trùng, cho ống nghiệm chứa máu vào bình lạnh để bảo quản và đưa đi xét nghiệm trong ngày. * Phương pháp xét nghiệm: Các chỉ số huyết học: Số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu, hàm lượng huyết sắc tố, công thức bạch cầu của gà bị bệnh và gà khoẻ được xác định trên máy Osmetech OPTI - CCA/Bloodgas Analyzen. 3.4.5.3. Phương pháp xác định bệnh tích đại thể và vi thể ở cơ quan tiêu hoá do sán dây gây ra * Phương pháp xác định những biến đổi bệnh tích đại thể: Trong quá trình mổ khám, những gà có biểu hiện lâm sàng và nhiễm sán dây cường độ nặng (có số lượng sán dây ký sinh rất nhiều), được quan sát tỉ mỉ bằng mắt thường và kính lúp phần ruột non, ruột già. Chụp ảnh vùng có bệnh tích điển hình. * Phương pháp xác định những biến đổi bệnh lý vi thể: Nghiên cứu biến đổi bệnh lý vi thể bằng phương pháp làm tiêu bản tổ chức học theo quy trình tẩm đúc parafin, nhuộm Hematoxilin - Eosin. Mỗi đoạn ruột đúc 4 block và mỗi block chọn 5 tiêu bản cắt mỏng. Đọc kết quả dưới kính hiển vi quang học Labophot - 2 và chụp ảnh bằng máy ảnh gắn trên kính hiển vi. Phương pháp làm tiêu bản vi thể được tiến hành như sau: + Lấy bệnh phẩm: Cắt phần bệnh phẩm có nhiều tổn thương do sán dây gây ra (ruột non, ruột già). + Cố định bệnh phẩm bằng dung d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_hue_5_9_2010_9173.doc