Đề tài Nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế

MỤC LỤC

Trang

A- Lời mở đầu 1

B- Nội dung 2

I- Sở hữu và cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ lên XHCN 2

1- Sở hữu và tầm quan trọng của sở hữu về tư liệu sản xuất 2

1.1. Sở hữu 2

1.2. Tầm quan trọng của sở hữu về liệu sản xuất trong đời sống kinh tế- xã hội 3

2. Cơ cấu sở hữu nước ta hiện nay 4

2.1. Sở hữu Nhà nước. 4

2.2. Sở hữu tập thể 5

2.3. Sở hữu tư bản tư nhân. 6

3.4. Sở hữu cá thể tiểu chủ. 6

2.5. Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. 7

2.6. Sở hữu hỗn hợp 7

II- Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 9

1. Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 9

1.1. Khái niệm thành phần kinh tế 9

1.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam 9

2.3. Tính tất yếu khách quan có nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta 10

2. Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta 11

2.1. Kinh tế Nhà nước 12

2.2. Kinh tế hợp tác 12

2.3. Kinh tế tư bản Nhà nước 13

2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ 13

2.5. Kinh tế tư bản tư nhân 13

2.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 14

3. Thực tiễn giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta vừa qua 14

3.1. Những thành công chúng ta đã đạt được 14

3.2. Những hạn chế 16

3.1. Nguyên nhân 17

III- Một số giải pháp 17

1. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước 17

2. Mở rộng và phát triển kinh tế tập thể trong đó hợp tác xã là nòng cốt 18

3. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa phát triển trong các ngành nghề hiện nay không cấm. 19

4. Phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhất là kinh tế trang trại 20

5. Phát triển các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước 20

6. Mở rộng và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài 21

C- Kết luận 22

D- Tài liệu tham khảo 23

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu phạm trù sở hữu, mối quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triẻn trong cơ chế thị trường. “Hợp tác xã đã tổ chức trên cơ sở đống góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta. 2.3. Sở hữu tư bản tư nhân. Hiện nay ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển. Đây la thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân bao gồm cả các doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế, mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại thêu lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được “bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp:. 3.4. Sở hữu cá thể tiểu chủ. Đa dạng hoá các lực lượng sản xuất là một trong những cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, vì sở hữu biểu hiện quan hệ của con người không chỉ đối với tư liệu sản xuất nói riêng, mà còn đối với toàn bộ lực lượng sản xuất nói chung. Nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trước đây kinh tế cá thể, tiểu chủ có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay nó đang được khuyến khích phát triển, và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm các đơn vị kinh tế và những hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân là chủ yếu và đang chiếm một vị trí quan trọng ở nhiều ngành nghề nông thôn, cũng như ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã chỉ rõ “kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ giúp giải quyết khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trương tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hay hợp tác xã”. Chúng ta đều biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ về thực chất, là thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân, cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu đó không tạo ra quan hệ sản xuất , vì nó không phải là một chế độ sở hữu độc lập mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó. Thành phần kinh tế này luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh doanh và luôn chịu phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động, hướng dẫn và định hướng nó theo định hướng nó theo XHCN. 2.5. Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ tổng kết thực tiễn lần nay trong văn kiện của Đảng đã có một bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy về nhận định các thành phần kinh tế. Bằng cách đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nướn ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế nước ta. Đay là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài về tư liệu sản xuất. Nó được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào kết quả sản xuất, kinh doanh vào hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dưng các co sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nó đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, khi kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 2.6. Sở hữu hỗn hợp Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất .Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian ,có tính chất đan xen giãu thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa .Trong điều kiện hiện nay thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau .Đó là sự kết hợp ,liên kết giữa các chủ thể :Nhà nước tập thể và tư nhân để tạo nên dạng sở hữu sinh động như :Nhà nước và nhân dân nhà nước và tập thể ,Nhà nước ,tập thể và tư nhân,tập thể,tư nhân v.v.Thực chất, đây cũng là các xí nghiệp (hoặc công ty) cổ phần, chỉ có sự khác biệt là ở chổ các chủ thể không đồng nhất về tính chất. Đó là các hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào-hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng công ty , xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên doanh hai bên, ở trong nước và nước ngoài. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước ,hay hình thức kinh tế tư bản Nhà nước làm phương tiện và cứu cánh để phát triển .Bởi chủ nghĩa tư bản Nhà nước, theo V.I.Lênin ,là một hình thưc phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự tồn tại của nó thực sự cần thiết .Đây là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó có phần tham dự của Nhà nước và tư nhân với nhiều hình thức cụ thể ,trên mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông , dịch vụ ,tín dụng … ở nước ta hiện nay, “kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài” .Nó có ưu thế mạnh hơn so với tư bản tư nhân ở chổ, nó đã kết hợp được sức mạnh tổng hợp của cả hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá độ. Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nước ta là cái có khả năng thực hiện tập trung hoá ,chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong và ngoài nước Điều kiện, môi trường làm việc thủ tục hành chính đơn giản là các điều kiện để cho “chủ nghĩa tư bản Nhà nước” có những đóng góp thật sự cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, chúng ta đang chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, đó chính là giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư bản Nhà nước ,đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tuy nhiên vấn đề cổ phần hoá còn mới mẻ , cần phải nhận thức một cách đầy đủ , áp dụng từng bước. Trong hình thức sở hữu hỗn hợp mà nòng cốt là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân tư cấp tự túc, kinh tế tiểu chủ trong các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội tại và tác động qua lại lẫn nhau , nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II- Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 1. Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 1.1. Khái niệm thành phần kinh tế Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở chế độ về tư hữu tư liệu sản xuất. Chính sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một hiện tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất mới ngày càng phát triển,dẩn dắt,chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới 1.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam Từ hội nghị lần thứ III ban chấp hành TW khoá 5 (Tháng 7-1984) đã nêu vấn đề vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng phê phán sự nóng vội muốn xoá bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN; Khẳng định sự tồn tại lâu dài của cơ cấu kinh tế nhièu thành phần ở nước ta. Xen thành phần kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, thàng phần này giữ chi phối trong nền kinh tễ quốc dân.Đại hội VI cũng khẳng định sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta như sau: Kinh tế XHCN :bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác, gồm kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước, mà hình thức cao nhất là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ (1991) xem nước ta còn tồn tại: kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể; tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển nhưng khong phải là thành phần kinh tế độc lập. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ lần thứ VII (Tháng1-1994) đã cho rằng ở nước ta còn tồn tại các thành phần kinh tế sau: khu vực doanh nghiệp Nhà nước; kinh tế hợp tác xã; kinh tế hộ xã viên; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Tiếp tục nhấn mạnh vai trò chủ đạo của quốc doanh Cho đến Đại hội IX cúa Đảng đả đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế nước ta. Hiện nay nước ta có các thành phần kinh tế sau:kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế hợp tác mà nong cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản Nhà nước; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 2.3. Tính tất yếu khách quan có nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta là vì: Khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, điểm xuất phát về lực lượg sản xuất , về phần công lao động xã hội, năng xuất lao đọng và trình đọ phát triển kinh tế rất thấp và không đồng đều giữa các xí nghiệp, các nghành, các vùng kinh tế . trong điều kiện đó , xã hội cũ để lạikhông ít các thành phần kinh tế và không thể bổng chốc cải tiến nhanh được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng nhiều quan hệ sản xuất mới, xuất hiệh thêm mội sốd thành phần kinh tế mới (kinh tế Nhà nước , kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước…). Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan, xoắn xít với nhau cấu thành đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Xây dựng và quản lý vĩ mô của Nhà nước thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nằm xây dưng cơ sở vật chất cho CNXH, vốn là những nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện thu nhập quốc dân còn thấp và ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước sẻ không, hoặc chậm thực hiện các nhiệm vụ nói trên. Để thực hiện có hiệu quả và với tốc độ nhanh các nhiệm vụ trên, phải giãi phóng mọi tiềm lực bị kìm hãm từ trước đến nay khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn và công nghệ, kinh nghiệm quản lí,nhất sức lao động kỹ nghệ, kinh nghiệm quản lý, sức lao động nhất là nguồn lao động trí tuệ…Mục đích đó chỉ có thể thực hiện được khi sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Nước ta thuộc loại nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào. Nhưng tỷ lệ người lao động chưa có việc làm đang chiếm một tỷ lệ lớn, tạo nên sức ép đối với nền kinh tế. Trong khi đó khả năng thu hút sức lao động không nhiều vì thiếu vốn, đặc biệt là ngoại tập tệ mạnh. Trong điều kiện đó, khai thác vận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong nhẽng khả năng tốt nhất để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Cũng cần ý thức rằng, vấn đề thất nghiệp là vấn đề chung của nền kinh tế hàng hoá, chứ không phải chỉ riêng có trong xã hội tư bản. Hơn nữa, trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần mà nhận thức kại khái niệm: có việc làm hay không có việc làm. Từ đó khắc phục những mặc cảm không đúng trước đây, cho rằng chỉ khi nào làm việc trong các xí nghiệp hoặc cơ quan Nhà nước thì mới có việc làm. rõ ràng sự tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là yêu cầu khách quan đối với việc tạo việc làm cho người lao động, một yêu cầu cần phải kết hợp chiến lược kinh tế và xã hội cần được coi trọng. Nó cho phép có điều kiện thuận lợi khai thác các hiệu quả nhất các tiềm năng hiện có hoặc đang tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ, hợp tác bên ngoài để có rhể phát triển nền kinh tế nước ta hướng vào tăng trưởng nhanh và hiện đại hoá. Chỉ có nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, hiệu quả quản lý. Chúng ta đang tồn tại điều kiện quốc tế mới, thời đại mới, thời đại sản xuất quốc tế hoá. Chúng ta đã khắc phục sự hạn chế của tư tưởng “khép kín” với thế giới bên ngoài Rõ ràng, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước và ssặc điểm thời đại. Chủ trương đó khẳng định sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. 2. Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về phương thức tổ chức quản lý và do đó khác nhau về cả cánh thức thu nhập. Tuy nhiên, tất cả thành phần kinh tế này đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan cảu nền kinh tế và xã hội nước ta. Vì vậy mỗi thành phần kinh tế đều là bộ phận cảu nề kinh tế quốc dân. Chúng có vai trò vị trí nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của nhà nước. 2.1. Kinh tế Nhà nước Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như: đất đai, khoáng sản… Kể cả phần vốn mà Nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta lần đầu đưa ra thành phần kinh tế Nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước đây. Thực tiễn 5 năm thực hiện đường lối đã giải quyết cơ bản vấn đề xã hội; nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, đảm bảo quốc phòng an ninh; làm trọng điểm đầu tư để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế… Để làm tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước văn kiện đại hội IX còn nhấn mạnh đến đầu tư vào những ngành sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, ngành công nghiệp, công nghệ cao, xây dựng các công ty đủ mạnh để làm nồng cốt trong các tập đoàn kinh tế mạnh tham gia cạnh tranh 2.2. Kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã. Hiện nay, một thực tế đặt ra là nếu không phát triển và củng cố hình thức kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là rất khó khăn. Vì vậy đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi, quản lý dân chủ. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ cuối những năm 50, nó đóng góp hết sức quan trọng trong việc chống Mỹ cứu nước. Những hợp tác xã với mô hình cũ, khi chuyển qua cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đổi mới kinh tế hợp tác xã nông nghiệp theo định hướng XHCN, Nhà nước ta đã có chủ trương mới theo chỉ thi 100 của Ban bí thư, và nghị quyết 10 của Bộ chính trị, tiến hành khoán khâu đến khoán hộ. Thay đổi đó có ý nghĩa hết sức to lớn đối với phát triển nông nghiệp, song mặt khác lại có tình trạng kinh tế tập thể yếu dần đi, thậm chí không còn tác dụng nữa. Đại hội VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã với hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết vấn đề của sản xuất kinh doanh. Như vậy kinh tế hợp tác xã phải với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Cái mới hơn trước đây của hợp tác xã nông nghiệp là: “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đống góp cổ phần. Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Như vậy, vị trí, vai trò của hợp tác xã mà nồng cốt là hợp tác xã đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhất là kinh tế nông nghiệp. 2.3. Kinh tế tư bản Nhà nước Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tư bản Nhà nước có vị trí quan trọng và phổ biến; là hình thức tốt nhất thu hút vốn lỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý tiên tiến: là hình thức kinh tế quá độ, trung gian để đưa nước ta đi lên CNXH. Cần mở rộng việc vận dụng hình thức kinh tế này ở nước ta trong thời gian tới. 2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ Thành phần kinh tế này có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Nhà nước cần giúp đỡ họ giải quyết các khó khăn để nâng cao hơn nữa hiệu quả king doanh của họ. Xu hướng vận động của thành phần kinh tế này là từng bước đi vào con đường kinh tế hợp tác theo nguyên tắc tự nguyện, hoặc có thể làm vệ tinh cho kinh tế Nhà nước nếu họ thấy có lợi. 2.5. Kinh tế tư bản tư nhân Nhà nước đánh giá cao vai trò tích cực của thành phần kinh tế này qua 10 năm đổi mới. Bên cạnh vai trò tích cực, thành phần kinh tế này cũng nảy sinh các tiêu cực, hạn chế như: làm hàng giả, trốn thuế, đầu cơ , buôn lậu… Nhà nước một mặt cần tăng cường vai trò và hiệu quả quản lý vic mô nhằm hạn chế mặt tiêu cực của nó. Mặt khác Nhà nước cần có chính sách khuyến khích hộ đầu tư, bỏ vốn vào nông nghiệp, áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Không nên có sự phân biệt đối xử với chủ đầu tư người nước ngoài và người trong nước. Có thể cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với chủ đầu tư là người Việt Nam 2.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Từ tổng kết thực tiễn, lần này trong văn kiện Đại hội IX của Đảng đã có một bước tiến quan trọng trong đổii mới tư duy về phân định các thành phần kinh tế. Băng việc khái quát và đưa thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào danh mục các thành phần kinh tế đa dạng cuả nước ta, lần đầu tiên việc phân định các thành phần kinh tế hoàn toàn không phụ thuộc vào công thức đã được định trước mà đã dựa vào nhu cầu thực tiễn khách quan. Vì đây là một thành phần kinh tế không hoàn toàn giống như thành phần kinh tế tư bản Nhà nước cả về nội dung và hình thức, mối quan hệ và vai trò cảu nó trong nền kinh tế quốc dân nhất là trong bối cảnh chúng ta vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa chủ động hội nhập vài thị trường khu vực và quốc tế với cả thời cơ và nguy cơ, vận hội và thách thức. Nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả nguồn lực bên ngoài thì việc phân định các thành phần kinh tế để có chính sách phát triển phù hợp là vấn đề vừa cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược. Mặc dù một số năm gần đây tốc độ đầu tư nước ngoài vào nước ta có bị giảm sút, nhưng chỉ tính 10 năm từ 1990- 2000 vốn FDI ở nước ta cũng đã chiếm hơn 28% tổng vốn đầu tư xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài càng phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế và thành công của công cuộc đổi mới. 3. Thực tiễn giải quyết quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta vừa qua 3.1. Những thành công chúng ta đã đạt được Nhờ việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, công cuộc đổi mới cảu chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 70% lao động và 80% dân số, nơi khai sinh sự nghiệp đổi mới bằng “khoán 10”, “chỉ thị 100”, từ chổ thiếu đói đã đưa nước ta lên hàng thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân là lĩnh vực phát triển mạnh thứ hai cho đến nay chúng ta đã có 22000 doanh nghiệp tư nhân gấp hai lần doanh nghiệp Nhà nước có hiện nay.Trong đó có doanh nghiệp sử dụng tới 10000 lao động. Khu vực ngoài quốc doanh chiếm tới hai phần ba tổng sản phẩm trong nước về hiệu quả kinh tế , củng như tất ca các nước có nền kinh tế thị trường, ở khu vực ngoài quốc doanh hiẹu quả trên mọt đồng vốn cao hơn doanh nghiệp Nhà nước, đời sống của khu vực này củng cao hơn. Cơ cấu thành phần kinh tế củng có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước , phát huy tiềm năng khu vực ngoài quốc doanh. Đến năm 2000 tỷ trọng kinh tế Nhà nước trong GDP vào khoảng 39%; khu vực kinh tế tập thể là 8,5% ; khu vực kinh tế tư nhân là ,3%; khu vực kinh tế cá thể 32%; khu vực kinh tế hổn hợp 3,9%; và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 13,3% Các công ty cổ phần được hình thành thông qua hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với tư nhân tư bản trong nước và nước ngoài. Cho đến nay đã có rất nhiều công ty Nhà nước góp vốn với tư nhân trong nước. Các công ty liên doanh này phát triển ngày càng nhiều rất cần thiết nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng nhanh sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài trên thị trường trong và ngoài nước. Tháng 12/1996 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên được công bố và sau đó được sửa đổi bổ sung. Cho đến tháng 6/1997 đã có 1719 dự án đầu tư của nước ngoài hợp tác liên doanh với nước ta, với tổng số vốn đăng ký là 20,45 tỷ USD với số vốn đầu tư đã thực hiện hưon 6 tỷ USD, bằng 30% tổng số vốn đăng ký. Phần còn lại trong các doanh nghiệp này Việt Nam tham gia góp vốn trung bình từ 25-30%, chủ yếu bằng giá trị đất đai, nhà xưởng… Có cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, cơ sở kết cấu hạ tầng tăng từ 62% lên 85% vào năm 2000. Đầu tư nước ngoài thuộc liên minh Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng thương mại, dịch vụ liên quan, góp phần nâng cao vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã mở rộng đầu tư ra nước ngoài, đến nay đã có trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ. Các thành phần kinh tế bắt đầu thể hiện được vai trò và vị trí của mình trong nền kinh tế, mỗi năm tạo thêm được 1,2 triệu việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo từ 30% giảm xuống còn 10%. Vai trò chủ đạo cảu kinh tế Nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; doanh nghiệp Nhà nước được đổi mới, phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt có hiệu quả 3.2. Những hạn chế Mặc dù vừa qua chúng ta đã đạt được nhiều thành công… tuy vậy cũng còn rất nhiều hạn chế tồn tại. Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bọ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế còn thấp, nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chưa đủ sức cạnh tranh. Tốc độ cổ phần hóa và hình thành các khu chế xuất còn chậm, các doanh nghiệp Nhà nước, có một số họat động kém hiệu quả, nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp hơn mức dự kiến 3.1. Nguyên nhân Sự tồn tại yếu kém và những mặt hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Công tác chỉ đạo điều hành của chính phủ, các bộ ngành ở TW và địa phương còn nhiều bất cập, thiếu ráo riết thiếu kiểm tra, đôn đốc, chưa có sự phối hợp thường xuyên chặt chẽ nên hiệu quả chưa cao. Các giải pháp đề ra thường thực hiện quá chậm, công tác quản lý sản xuất kinh doanh ở cấp cơ sở thiếu chủ động, nhạy bén. Một số nghị quyết của Đảng chưa được các nghành, các cấp nhận thức thống nhất và chấp hành đầy đủ, chậm trễ trong việc làm rõ và cụ thể hoá một số chủ trương quan trọng như sắp sếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài… Một số cơ chế, chính sách có xu hướng trở lại bao cấp như khoanh nợ, xoá nợ, giảm thuế, miễn thuế, bù lãi suất đã làm cho một số cơ sở kinh doanh th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35255.doc
Tài liệu liên quan