Đề tài Nghiên cứu thị trường với sự phát triển của doanh nghiệp công nghiệp - Thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I - LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP . 2

I-Các khái niệm về thị trường 2

 1.Khái niệm marketing 2

 2.Khái niệm về thị trường 2

II-Đặc điểm của thị trường với doanh nghiệp công nghiệp 3

 1. Đặc điểm chung của thị trường 3

 2.Hình thức phát triển của hàng hoá công nghiệp . 4

 3.Các phương pháp nghiên cứu thị trường 5

 4.Chọn nhãn hiệu trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp công nghiệp 9

 III-Các bộ phận cấu thành thị trường : 10

 1.Cung 10

 2.Cầu 11

 3.Gía cả 11

 4.Cạnh tranh 12

 5.Mối quan hệ cung- cầu và giá cả 12

 PHẦN II -THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN QUA 13

 I-Thực trạng thị trường và công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp công nghiệp . 13

 1.Thực trạng thị trường 13

 

doc29 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 658 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thị trường với sự phát triển của doanh nghiệp công nghiệp - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa phân đoạn. Định mục tiêu thị trường lựa chọn các phân đoạn trọng điểm. hoạch định vị thế sản phẩm đoạn thị trường trọng điểm. Định vị thế sản phẩm phát triển marketing -mix cho mỗi đoạn trọng điểm e.Các tiêu thức để phân đoạn thị trường Các tiêu thức được lựa chọn khác nhau để phân đoạn thị trường .Đối với mỗi loại hàng phải lựa chọn các tiêu thức khác nhau cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của từng nhóm hàng về lý thuyết, bất kỳ đặc tính nào của tập khách hàng tiềm năng trên thị trường đều có thể dùng làm tiêu thức để phân đoạn thị trường đó .Song những tiêu thức thường đựơc sử dụng là tập tính và thái độ đối với sản phẩm, thu thập, giới tính, lứa tuổi, vùng địa lí, dân số, thể chất của cá nhân, trình độ văn hoá. Các tiêu thức được lựa chọn để phân đoạn thị trường tư liệu sản xuất và hang công nghiệp cũng rất khác nhau .Đối với tất cả loại hàng trên cũng phải lựa chọn các tiêu thức khác nhau cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của từng nhóm hàng . Về phương pháp luận, tồn tại quan điểm chọn biến phân đoạn: Là bằng cách quan sát các đặc tính của khách hàng và bằng cách quan sát ứng xử của khách hàng đối với một mặt hàng riêng biệt. Sau đây là một số biến cơ bản phổ biến được vận dụng trong phân đoạn thị trường: -Phân đoạn địa cư. -Phân đoạn theo nhân khẩu học . -Phân đoạn theo phác đồ tâm lý. -Phân đoạn theo đặc tính sản phẩm công nghiệp . Ví dụ : Một thị trường gồm 6 khách hàng, mỗi khách hàng là một thị trường riêng biệt vì nhu cầu và ý muốn độc lập. Người bán xác định các tầng lớp khách hàng có khác biệt từ đó thiết kế một sản phẩm riêng biệt và có một chương trình tiếp thị cho mỗi khách hàng.Thu đoạn mục tiêu phải đảm bảo vô hại và có thiện cảm với các đoạn thị trường kề cận, phù hợp với ngân sách marketing của doanh nghiệp công nghiệp đối với đoạn thị trường mục tiêu. f. Lựa chọn thị trường trọng điểm. Sau khi phân khúc thị trường, người bán hay nhà sản xuất phải quyết định lựa chọn một hay một vài phần thị trường có lợi nhất đối với mình để đảm nhiệm. Để thực hiện được điểm này, người sản xuất phải đánh giá lợi ích và hiệu quả của phân khúc thị trường đó là chức năng chính của phân khúc tầm cỡ và phát triển tính hấp dẫn cơ cấu phân khúc và mục tiêu của doanh nghiệp cùng nguồn lực, tức là nhà sản xuất có thể tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của doanh nghiệp, mức độ đồng nhất của sản phẩm và thị trường ,giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hoá và chiến lược marketing của các đối thủ cạnh tranh mà lựa chọn cách đáp ứng thị trường . - Doanh nghiệp có thể bỏ qua sự khác biệt giữa các khu vực, phân khúc thị trường và theo đuổi cả thị trường .Doanh nghiệp trông cậy vào kiểu phân phối hàng loạt, quảng cáo lan tràn với ý đồ tạo cho mặt hàng của mình 1 mô hình trong ý nghĩa công chúng. Đây là cách tiếp thị của hầu hết các doanh nghiệp hiện nay. Phương pháp này thường tiết kiệm chi phí marketing nhưng không có hiệu quả của thị trường cạnh tranh . - Doanh nghiệp có quyền quyết định hoạt động trong nhiều đoạn thị trường và tung ra ở mỗi đoạn thị trường những nỗ lực khác nhau. Phương pháp này đưa lại doanh số cao hơn tiếp thị không phân biệt. Tuy nhiên nó làm tăng nhiều loại chi phí: Chi phí cải tiến sản phẩm, chi phí điều hành, phân phối, kiểm kê tồn kho, quảng cáo. 4. Chọn nhãn hiệu trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp công nghiệp. a. Khái niệm nhãn hiệu. - Nhãn hiệu là một tên gọi, thuật ngữ dấu hiệu, biểu tượng hình vẽ hay sự phân phối của chúng có công dụng để xác định nhận hàng hoá của mình để phân biệt. - Tên nhãn hiệu là một bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể đọc được. Ví dụ : TOYOTA. Dấu hiệu của nhãn hiệu: là một phần của nhãn hiệu có thể nhận ra được nhưng không thể phát âm được chẳng hạn như :biểu tượng, hình vẽ, màu sắc hay kiểu chữ đặc thù. - Dấu hiệu thương mại là một bộ phận của nhãn hiệu được bảo vệ về mặt pháp luật .Dấu hiệu hàng hoá bảo vệ thuộc quyền tuyệt đối của người bán trong việc sử dụng tên nhãn hiệu hay dấu hiệu nhãn hiệu. b. Quyết định chọn nhãn hiệu trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp công nghiệp. Nhà sản xuất ra sản phẩm dưới dạng hàng hoá đặc hiệu sẽ còn phải thông qua một số quyết định nữa, sẽ phải soạn thảo chính sách, nhãn hiệu hàng hoá cụ thể để dựa vào đó vận dụng cho các đơn vị hàng hoá, thành phần chủng loại hàng hoá của mình để người tiêu dùng biết và chấp nhận hàng hoá đó mới được tiêu thụ. Về phía người tiêu dùng, họ cảm nhận nhãn hiệu có thể tăng thêm giá trị của sản phẩm. Vì vậy quyết định chọn nhãn hiệu là một mặt quan trọng của marketing. III. Các bộ phận cấu thành thị trường : Đó là cung, cầu, giá cả ,cạnh tranh. 1/ Cung Số lượng cung của một hàng hoá là khối lượng mà người bán sẵn sàng bán trong 1 chu kỳ nào đó.Số lượng cung phụ thuộc vào giá cả hàng hoá và phụ thuộc vào các yếu tố khác, trước hết là giá cả các yếu tố đầu vào và kỹ thuật sản xuất hiện có. Số lượng cung thường tăng hay giảm theo giá cả của hàng hoá nếu xét trong 1 chu kỳ đủ dài. Gía bán 1 loại hàng hoá nào đó càng cao thì lượng cung của hàng hoá đó càng lớn vì khi đó nhà sản xuất sẽ thu được nhiều lợi nhuận . Ngược lại, khi giá hạ người sản xuất sẽ sản xuất cầm chừng, giảm bớt số lượng, có thể chuyển sang sản xuất hàng hoá khác . Số lượng cung của thị trường là tổng lượng cung của từng doanh nghiệp. Sự thay đổi của số lượng cung 1 hàng hoá tuỳ thuộc vào sự biến đổi giá cả của hàng hoá đó, trong khi các yếu tố khác không đổi tạo nên một hàm gọi là hàm cung Qx=Fpx. Hàm cung là quy luật cung ứng trên thị trường thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa số lượng cung và giá cả về 1 hàng hoá nhất định trên 1 thị trường xác định và trong 1 thời điểm nhất định . 2/ Cầu Nhu cầu là một phạm trù dùng để mô phỏng hành vi của người mua đối với một mặt hàng nào đó .Số lượng cầu của một hàng hoá là khối lượng hàng hoá người mua muốn mua và có khả năng mua trong một thời gian nhất định và ở một mức giá nhất định . Quy luật về cầu là : Số lượng cầu sẽ tăng nếu giá giảm và ngược lại trong điều kiện các nhân tố khác không đổi .Quy luật về cầu được giải thích bằng chi phí cơ hội hoặc chi phí lựa chọn . Sự thay đổi của lượng cầu tuỳ thuộc vào sự biến đổi của giá cả nếu các yếu tố khác giữ nguyên tạo nên một hàm số gọi là hàm cầu. Qx = a - bp Qx : lượng cầu ứng với giá p. p: giá hàng hoá . a,b các hệ số . Mức độ thay đổi của các số lượng cầu theo sự biến đổi của giá cả hàng hoá gọi là độ co giãn của cầu.Nếu số lượng cầu tăng nhanh hơn tốc độ giảm giá thi cầu có độ co giãn và ngược lại.Nếu chúng bằng nhau thì gọi là sự co giãn đồng nhất. 3/ Giá cả Là một bộ phận không thể thiếu của thị trường. Giá cả đóng vai trò quết dịnh trong việc mua hay không mua hàng của người tiêu thụ. Giá cả và thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Thi trường không những chi phối đến sự cấu tạo vá mức độ hình thành giá cả mà ngay cũng gây nên sự biến động gắt gao cả về hình thức và cường độ đối với thị trường. Đối với các doanh nghiệp giá cả được xem như những tín hiệu đáng tin cậy, phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả các doanh nghiệp có thể bắt được sư tồn tại, sức chịu đựng cũng như khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trên thị trường tuy người sản xuất và tiêu dùng đối lập nhau trong việc thực hiện các chức năng riêng biệt của mình,nhưng trong quan hệ trao đổi mua bán ho vừa có quan hệ hợp tác và đấu tranh với nhau về giá, để cuối cùng các bên đều đi đến chấp nhận hình thành nên một mức giá nào đó gọi là giá trị thị trường. 4. Cạnh tranh: Cạnh tranh là bất khả kháng, linh hồn sống của cơ chế thị trường. Cạnh tranh là động lự cđể phát triển kinh doanh. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua không đích giữa các nhà sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại cả ba trạng thái cạnh tranh: Cạnh tranh giữa những người bán với nhau ,cạnh tranh giữa những người mua với những người bán . Đồng thời với cạnh tranh về giá các doanh nghiệp còn cạnh tranh nhau bằng chất lượng sản phẩm,bằng các phương thức thanh toán . Khi đó các doanh nghiệp nào không đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ bị đào thải khỏi thị trường .Mọi doanh nghiệp phải chịu sức ép không ngừng hoàn thiện giá trị sử dụng, tăng cường các hình thức dịch vụ. Do vậy cạnh tranh kinh tế là phương thức vận động để phát triển nền kinh tế thị trường, bảo đảm mục tiêu lợi nhuận tối đa của doanh nghiệp qua đó lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội cũng được đảm bảo hơn. 5/ Mối quan hệ cung cầu và giá cả. Các bộ phận cấu thành thị trường :cung cầu, giá cả và cạnh tranh không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà chúng luôn tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một thể thống nhất :thị trường. Trên thị trường mỗi hàng hoá đều có một hàm cung và một hàm cầu tuân theo quy luật cung và quy luật cầu. Kết hợp hai quy luật cung,cầu thì ta có quy luật cung cầu. Theo quy luật cung cầu thì một hàng hoá sẽ được bán theo giá vừa phối hợp với cung lại phù hợp với cầu tức là ở đó cung và cầu gặp nhau. Tại mức giá thấp hơn mưc giá cân bằng cầu sẽ lớn hơn cung khi đó giá cả sẽ tăng lên để đạt điểm cân bằng. Ngược lại,khi giá cả ở mức trên giá cân bằng cung sẽ lớn hơn cầu khi đó có sự dư thừa hàng hoá. Người bán muốn bán được hàng phải giảm giá cho đến khi mức giá cân bằng. phần ii Thực trạng thị trường và phương pháp nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp công nghiệp trong thời gian qua I/Thực trạng công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp công nghiệp : 1.Thực trạng thị trường Tình hình thị trường qua những năm đổi mới : - chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu Chuyển thị trường từ trạng thái" tự cấp, tự túc" sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia về vốn ,kỹ thuật và lưu thông hàng hoá làm cho thị trường trong nước phát triển sống động, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội tăng nhanh. - Thị trường ngoài nứơc được mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại . - Quản lý nhà nước và thị trường, hoạt động thương mại có tiến bộ về tổ chức hệ thống, hoạch định chính xác vĩ mô, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. * Hạn chế cần khắc phục: -Thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng nặng tính tự phát. Nền thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán mạnh buôn bán theo kiểu"chụp giật"qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước bị chèn ép ở thị trường nước ngoài . Chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa cơ sở sản xuầt với nhà buôn và giữa các nhà buôn để hình thành những kênh lưu không ổn định tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng, xây dựng thị trường cung ừng và tiêu thụ vững chắc đặc biệt trên lĩnh vực bán vật tư nông nghiệp, mua nông sản thực phẩm. -Kỷ cương pháp luật bị vi phạm, trật tự thị trường chưa được xác lập .Nạn buôn lậu, buôn bán hàng giả diễn ra nghiêm trọng tác động xấu đến sản xuất và đời sống. a/ Tình hình thị trường trong nước. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội tăng lên hàng năm .Năm 1990 đạt 19.031 tỷ đồng, năm 1991 đạt 33.404 tỷ đồng, năm 1992 đạt 51.215 tỷ đồng, năm 1996 đạt 145.874 tỷ đồng năm 1997 đạt 158.000 tỷ đồng, năm 1998 đạt 181.000 tỷ đồng. Đầu năm 2000, tổng sản phẩm nội địa (GDP)tăng 8,9%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,6%; giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng 4,5%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng 6,4% . Về thị trường nông thôn miền núi năm 1998 có tiến bộ tăng trưởng tổng mức bán lẻ từ 6%-->15% so với1997. Về giá cả trên thị trường năm 1998 : Gía các loại vật tư, vật liệu xây dựng và hàng tiêu dùng tương đối ổn định. Việc thực hiện dán tem một số mặt hàng nhập khẩu đã tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng trong nước phát triển tốt, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống hàng lậu và gian lận thương mại. b/Về tình hình nước ngoài. Từ khi thực hiện đường lối mở cửa giao lưu buôn bán với nước ngoài kim ngạch xuất khẩu của việt nam không ngừng được tăng lên. Điều đó được thể hiện: năm 1998 kim ngạch xuất khẩu luôn luôn tăng tuy tốc độ tăng không đều. Giai đoạn 1993--->1997 kim ngạch xuất khẩu gia tăng với tốc độ thần kì 30% một năm . Năm 1998 và đầu năm 1999 kim ngạch xuất khẩu tăng chậm . Nguyên nhân khách quan do thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ: Do yếu kém của ngành ngoại thương. Từ tháng 1-1999 đến nay kim ngạch xuất khẩu đã tăng trở lại. 7 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 1166 triệu USD tăng 12% so với cùng kì năm ngoái . Nguyên nhân khách quan do 1 số nước châu á đã qua cơn khủng hoảng, đang tăng nhu cầu nhập khẩu như Nhật, Hàn Quốc, thị trường EU cũng dành cho Việt Nam 1 số thuận lợi. Nguyên nhân chủ quan: các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của chính phủ bắt đầu phát huy tác dụng đặc biệt là nghị định về mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp và qui chế xuất khẩu. Cộng với nỗ lực của các doanh nghiệp đã tạo nên sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trong mấy tháng gần đây. Thị trường xuất khẩu ở Việt Nam ngày càng được mở rộng. Các thị trường lớn ở Việt Nam là: Nhật, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Đức, Mĩ, Thái lan, Thuỵ Sĩ , Anh, Iđônêxia, Pháp, Nga, Italia , Malaysia. Tỉ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này trong những năm qua gia tăng nhanh từ 58,7% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1994 lên 87,2 % năm 1998. Ngoài các thị trường lớn nêu trên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 1 số thị trường mới như Nam Phi, Trung cận đông cũng tănng mạnh trong thời gian gần đây. Nghiên cứu 1 số thị trường chính : * Thị trường asean : Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN quan hệ buôn bán giữa Việt Nam với các nước trong khối ngày càng phát triển và có những bước tăng trưởng vượt bậc. Đến giữa nănm 1999 thị trường ASEAN chiến 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và khoảng 32% tổng kim ngạch nhập khẩu.Việt Nam xuất sang các nước ASEAN gạo , giầy dép , hàng dệt may.... và nhập xăng, dầu, sắt thép, xe máy. Do các nước ASEAN có cùng chung lợi thế với Việt nam lại có trình độ phát triển cao hơn chúng ta nên hàng Việt Nam khó cạnh tranh, mức nhập siêu ngày càng tăng, mỗi năm trung bình lên tới 7,2 tỉ USD. Điều này đòi hỏi nhà nước và các doanh nghiệp công ngiệp khẩn trương tìm ra giải pháp nâng cao tính cạnh trannh của hàng Việt Nam . * Thị trường Nhật Bản : Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam kim ngạch xứt nhập khẩu năm 1998 đạt gần 3 tỉ USD. Ngày 26-5-1999 chính phủ Nhật Bản đã cấp tối huệ quốc cho Việt Nam tạo cơ hội mới để phát triển quan hệ thưoưng mại giữa 2 nước. Mục tiêu đặt ra: Đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Nhật đạt hơn 5 tỉUSD. Để biến hi vọng thành hiện thực các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam cần : Tăng cường công tác quản lí chất lượng sản phẩm: Nghiên cứu các kênh phân phối, tìm hiểu cá tính của các doanh nhân Nhật Bản để có khả năng thích ứng. * Thị trường Mĩ : Đây là thị trường rộng lớn tiềm năng, mạnh về khả năng thanh toán , khả năng cạnh tranh cũng rất khốc liệt. Bốn năm qua từ khi Mĩ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam quan hệ buôn bán giữa 2 nước phát triển theo chiều hướng tốt. Đến nay kim ngạch xuất nhập giữa Việt Nam - Mĩ đạt gần 1 tỉ USD/năm. Việt Nam xuất khẩu sang Mĩ : cà phê, hải sản, hàng may mặc ... và nhập từ Mĩ: thiết bị máy móc, nguyên vật liệu. Sắp tới hiệp định thương mại Việt Nam - Mĩ được kí kết sẽ mở ra triển vọng mới trong quan hệ thương mại giữa 2 nước. Để đón nhậnn cơ hội mới này các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực phấn đấu nâng cao tính cạnh tranh các hàng Việt Nam thì mới có thể thâm nhập và trụ vững trên thị trường rộng lớn này . Nghiên cứu các thị trường khác như EU, Nga, Trung Quốc .. ta có nhận định chung : tính cạnh tranh của hàng Việt Nam còn rất yếu. Muốn mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, bắt buộc phải nâng tính cạnh tranh của hàng Việt Nam. 2/ Thực trạng và những đặc điểm tổ chức doanh nghiệp công nghiệp theo cơ chế thị trường : Chuyển sang cơ chế thị trường ,các doanh nghiệp phải tự hoạch toán và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sự tồn tại hay diệt vong của doanh nghiệp do thị trường quyết định vì vậy hiện nay các doanh nghiệp đã rút ra kết luận "phải bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có ". Để nắm bắt được nhu cầu và tình hình thị trường các doanh nghiệp đã tiến hành các công tác nghiên cứu thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp hiện nay không còn là hình thức mà nó được coi là một công việc, được tiến hành 1cách thường xuyên. Việc nghiên cứu thị trường được tiến hành ở 2 cấp độ: Nghiên cứu khái quát thị trường :nghiên cứu tổng cung, tổng cầu giá cả hàng hoá. Nghiên cứu chi tiết thị trường: nhu cầu khách hàng, số lượng Phương pháp nghiên cứu thông tin thị trường được sử dụng là 2 phương pháp: nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường . Việc tiến hành công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp đã bước đầu cho phép các doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị trường, dự báo tình hình thị trường, đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.Tuy nhiên mức độ đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp còn thấp chưa có cán bộ chuyên trách và công tác nghiên cứu thị trường có trình độ chuyên môn cao, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với một số tổ chức chính phủ. Trong những năm vừa qua hoạt động nghiên cứu thị trường ở các công ty được tiến hành như sau : *Về phương pháp thu thập thông tin về thị trường :Cũng được tiến hành theo 2 cách nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường . -Nghiên cứu tại bàn: theo cách này công ty có được các thông tin về thị trường chủ yếu thông qua các báo cáo về tình hình thị trường, tình hình thực hiện kế hoạch thương mại mỗi năm . - Nghiên cứu tại hiện trường: theo cách này để có được các thông tin về thị trường .Ngoài ra công ty cũng tổ chức các đoàn cán bộ đi khảo sát thị trường, thu thập các thông tin phản hồi trực tiếp của khách hàng ... qua đó nắm bắt được các nhu câu khách hàng cũng như khả năng tiêu thụ từng loại hàng hoá trên từng khu vực. Tuy nhiên: Nhìn chung trong những năm qua các hoạt động nghiên cứu không được thực hiện 1 cách chuyên môn mà hầu như chỉ dừng ở việc nghiên cứu khái quát thị trường như nghiên cứu tổng cung, tổng cầu chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết thị trường, điều này thể hiện ở việc chưa xác định tỷ trọng thị trường mà mình đạt được, không có được các thông tin chi tiết về đối thủ cạnh tranh ... Nguyên nhân là do: *Về chủng loại mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng do đó sẽ rất tốn kém và khó khăn để có thể tiến hành nghiên cứu chi tiết cho từng mặt hàng . Bên cạnh đó doanh nghiệp lại bao gồm rất nhiều đơn vị trực thuộc mà mỗi đơn vị này lại hoạt động gần như độc lập và cùng kinh doanh nhiều mặt hàng do đó nếu tiến hành nghiên cứu thị trường thì có thể nghiên cứu một cách khái quát nhằm đi đến các quyết định mang tính chỉ đạo chung. *Ví dụ về công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài ở tổng công ty dệt may Việt Nam: Tổng công ty dệt may Việt Nam là một tổng công ty có vai trò rất lớn trong việc quản lý và định hướng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam .Một trong những cơ hội và cũng là một khó khăn cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam đó là việc tham gia vào thị trường dệt may thế giói trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường là rất lớn.Để có thể tồn tại và phát triển được trong thị trường đó việc cần làm trước hết đối với tổng công ty là nghiên cứu thị trường. Về việc nghiên cứu khái quát thị trường :tổng công ty luôn chú ý tới việc nghiên cứu các nhân tố mang tính chất toàn cầu vì nó chính là tiền đề cho sự phát triển trong tương lai của tổng công ty. Điều này được thực hiện khá rõ trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam tới năm 2010. trong chiến lược này tổng công ty đã đưa ra một bản dự thảo về thị trường cho hoạt động của mình trong những năm tới, đánh giá được những mặt thuận lợi cũng như những khó khăn hạn chế mà ngành dệt may Việt Nam sẽ gặp phải khi thâm nhập vào thị trường thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ, các hiệp định về thuế của AFTA, APEC được thực hiện đối với Việt Nam và khi Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Hoạt động nghiên cứu thị trường cũng quan tâm đến những yếu tố về kinh tế chính trị, pháp luật của các nước, các vùng kinh tế mà tổng công ty thực hiện hoạt động xuất khẩu đây là điều kiện ban đầu quyết định tới việc tổng công ty có thể xuất khẩu sang thị trường các nước này hay không. Trước kia hoạt động nghiên cứu thị trường của tổng công ty thường không quan tâm nhiều tới các yếu tố về môi trường văn hoá của các vùng thị trường. Về nghiên cứu chi tiết thị trường: Tổng công ty thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo về các thị trường xuất khẩu hàng may mặc. Giữa tổng công ty và các đơn vị thành viên đề cập nhật những thông tin về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, tình hình biến động trên thị trường thế giới ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của toàn công ty, từ đó rút ra những nhận xét và đưa ra các giải pháp tốt nhất trong việc mở rộng và thâm nhập thị trường nước ngoài . Trong thời gian qua tổng công ty đã cử nhiều đoàn cán bộ đi tham gia các hội chợ triển lãm, tham quan khảo sát một số nước Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, EU.Để tìm hiểu về thị trường tổng công ty cũng thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua một số văn phòng đại diện của tổng công ty trên các thị trường Nga, Nhật, Đông Âu hoạt động nghiên cứu thị trường trong thời gian qua của tổng công ty cũng đã thu được một số kết quả nhất định: Tổng công ty đã đưa ra nhiều mẫu mã quần áo và phát triển thêm một số sản phẩm mới cho phù hợp vơí nhu cầu thị trường. Đặc biệt, tỷ trọng hàng xuất khẩu trực tiếp của tổng công ty trong những năm qua đã tăng lên đáng kể . Điều đó chứng tỏ tổng công ty đã từng bước tiếp cận được với thị trường thế giới. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu thị trường của tổng công ty còn rất hạn chế do sự eo hẹp về tài chính cho hoạt động này. Việc nghiên cứu thị trường diễn ra không liên tục, đều đặn và những thông tin thu được thường không đầy đủ và có độ chính xác chưa cao. Do đó các chính sách đề ra chưa đạt hiệu quả cao, chưa nhanh nhạy với sự biến động của thị trường quốc tế, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua thị trường phi hạn ngạch của tổng công ty đã bị suy giảm đáng kể . Phần lớn việc nghiên cứu được thực hiện gián tiếp thông qua tài liệu của các tổ chức trong và ngoài nước thông qua báo chí . Phương pháp này có ưu điểm là chi phí thấp và có tác dụng tốt trong việc nghiên cứu thị trừơng một cách khái quát tuy nhiên nó không cho biết chính xác về nhu cầu chi tiết của thị trường . Từ ví dụ trên công tác nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài cho thấy : các doanh nghiệp đã có sự quan tâm, chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường. Song có thể do nguyên nhân chủ quan là : Ban lãnh đạo chưa thực sự thấy hết được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường hoặc do nguyên nhân khách quan là khả năng về tài chính, nhân lực không cho phép mà công tác nghiên cứu thị trường vẫn chưa được đầu tư một cách đúng mực. II / Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường và hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường ở các doanh nghiệp công nghiệp: 1.Về phát triển thị trường: a/Phát triển thị trường nội địa . Từ đầu năm 1998 đến nay do tác động xấu của khủng hoảng kinh tế và thiên tai, sức mua trong dân giảm sút hàng hoá vì thế tồn đọng lớn, nên việc kích cầu đang được đặt ra một cách cấp bách. Phát triển thị trường nội địa cần thực hiện một số giải pháp sau : Thứ nhất: Tăng sức mua của dân cư đặc biệt dân cư nông thôn .Sức mua của nông dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tổng sản lượng, giá cả hợp lý, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Sức mua của công nhân viên chức phụ thuộc vào tiền lương mà sau cải tiến đến nay giá đã tăng lên 50% . Thứ hai: Tăng đầu tư xây dựng và cơ sở vật chất cho xã hội. Tăng tỷ lệ vốn đầu tư của nhà nước. Trong lúc này là một biện pháp quan trọng để tăng sức mua, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Thứ ba: Về tiền tệ và tín dụng: Cần theo dõi trực tiếp chặt chẽ diễn biến trên thị trường trong nước và nước ngoài, lãi suất huy động và lãi cho vay cũng cần được đối chiếu với tốc độ tăng giá tiêu dùng để góp phần tăng trưởng kinh tế tránh lạm phát. Trong một chừng mực nào đó có thể giảm thuế để tăng sức mua. Thứ tư: Tổ chức hoạt động thị trường thông suốt, hàng hoá đổi mới đa dạng hợp túi tiền nhân dân, áp dụng các phương pháp bán trả góp . b. Phát triển thị trường xuất khẩu : Mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay . Một là: Nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Đây là biện pháp rất quan trọng để mở rộng thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV156.doc
Tài liệu liên quan