Đề tài Nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ( 1960-1973 )

Mục lục

Phần mở đầu.

1.Lí do chọn đề tài.

2.Mục đích nghiên cứu.

3. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu.

4. Phương pháp nghiên cứu.

5. Bố cục.

Phần nội dung:

Chương 1: Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới 2 (1945-1960).

1.1 Đôi nét về đất nước con người Nhật Bản.

1.2 Hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi kinh tế (1945-1960).

Chương 2: Đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản (1960-1973).

2.1 Sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản (1960-1973).

2.2 Những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.

2.2.1 Tính cách con người Nhật Bản.

2.2.2 Vai trò quản lí và chính sách mở cửa của Nhà Nước.

2.2.3 Cải cách kinh tế.

2.2.4 Đổi mới và phát triển khoa học kĩ thuật.

2.2.5 Ổn định chính trị xã hội.

2.2.6 Chi phí quốc phòng ít.

2.2.7 Các công ti, các nhà kinh doanh năng động tích cực.

2.2.8 Sự hợp tác chủ thợ và lực lượng lao động ưu tú.

2.2.9 Tỉ lệ tiết kiệm cao và ngân hàng cho vay tích cực.

2.2.10 Cơ cấu hai tầng và tư tưởng trong tăng trưởng kinh tế.

2.2.11 Sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch.

2.2.12 Môi trường quốc tế hòa bình.

2.2.13 Cải cách giáo dục.

Chương 3: Ý nghĩa của sự phát triển thần kì.

Phần kết luận.

Phụ lục ảnh.

pdf43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7961 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên nhân phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ( 1960-1973 ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối nội, đối ngoại của Nhật Bản sau chiến tranh cụ thể như sau: + Đối nội: Chuyển từ chế độ chuyên chế sang chế độ dân chủ. Các đảng phái được hoạt động công khai. Đảng Dân chủ Tự Do (LDP) Liên tục cầm quyền. + Đối ngoại: Kí hiệp ước An ninh Mĩ- Nhật (9/1951): Nhật lệ thuộc vào Mĩ, được che chở và bảo vệ dưới chiếc “ô hạt nhân” của Mĩ. Chỉ dành 1% tổng sản phẩm quốc dân cho chi phí quân sự, còn tập trung phát triển kinh tế. Nhà nước và chính phủ Nhật Bản biết nắm bắt các thời cơ và lựa chọn các chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với thực tiễn và thực hiện các cải cách dân chủ sau chiến tranh và quản lí kinh tế ở mức vĩ mô. 2.2.3. Cải cách kinh tế. Trong quá trình cải cách, việc chế định 3 luật: Luật cải cách ruộng đất, Luật giải tán các tài phiệt và luật lao động là quan trọng nhất. GHP( bộ tư lệnh quân Đồng minh sau chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản) đã đưa ra rất nhiều quy định buộc chính phủ Nhật Bản phải tiến hành cải cách triệt để mà không có cách nào trốn tránh. *Cải cách ruộng đất. Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau khi chiến tranh kết thúc đã có tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản. Cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong các cuộc cải cách kinh tế. Với mục tiêu là: “ xóa bỏ những trở ngại kinh tế nhằm khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đọa đầy người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỉ áp bức phong kiến”. Đạo luật cải cách ruộng đất được ban hành ngày 11/10/2946. Nội dung cơ bản của cuộc cải cách ruộng đất là chuyển quyền sở hữu ruộng đất phát canh cho những tá điền đã từng trồng trọt trên mảnh đất đó, nhà nước mua tất cả ruộng đất phát canh cả các địa chủ vắng mặt và trong trường hợp các địa chủ còn sống ở nông thôn thì mua lại một số ruộng. Sau đó phát lại cho các tá điền khác, việc chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho những nông dân trực tiếp canh tác đã kích thích mạnh tính tích cực sản xuất của nông dân. Họ đã tiến hành cải tạo ruộng đất, kết hợp với việc áp dụng những kỹ thuật canh tác mới để nâng cao năng suất nông nghiệp, thu nhập nông dân tăng lên đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ năm 1946 đến năm 1950 dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của lực lượng chiếm đóng. Đến năm 1948, số lượng đất chính phủ mua lên đến 163 000 ha. Diện tích phát canh tính đến tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt đã bị xóa bỏ, 80 đến 90% đất của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền. Khoảng 70 đến 80% số ruộng đất cho thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân. Nhiều nhà chính trị và nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá cao những thành tựu của chương trình cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách ruộng đất có tác động rất lớn đối với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn Nhật Bản đã bị xóa bỏ, xóa bỏ luôn tàn dư phong kiến của nền nông nghiệp và từ đó làm tan rã chế độ đẳng cấp ở nông thôn, làm thay đổi trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng hơn. Sauk hi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng nông dân đã tiến hành cải tạo ruộng đất gieo trồng, tích cực áp dụng kĩ thuật canh tác mới, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Những tiến bộ kĩ thuật trong việc trồng lúa và thu nhập đáng kể của nông dân cũng đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước. Cải cách ruộng đất còn gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều hướng phát triển của làng xã Nhật Bản. *Giải tán các tập đoàn tài phiệt(Zaibatsu). Ở Mĩ, phần lớn người ta coi tài phiệt là thủ phạm làm cho Nhật Bản lao vào cuộc chiến tranh đế quốc theo chỉ thị của GHQ(bộ tư lệnh quân Đồng minh sau chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản ), chính phủ Nhật Bản đã tiến hành giải tán các tập đoàn tài phiệt vào tháng 10 năm 1945. Sự tập trung công nghiệp vào một số Zaibatsu gây ra quan hệ nửa phong kiến giữa chủ, thợ và kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn. Nhằm thực hiện giải thể Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Ngoài 4 tập đoàn tài phiệt lớn như Mitsu, Mitsubisi, Sunitomo, Yasuda bị giải tán, có 2500 người trong hội đồng quản trị có 1600 xí nghiệp có quan hệ với tài phiệt đã buộc phải rời khỏi chức vụ của mìn, 57 gia đình Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và bán cổ phần này cho nhiều công ty, hiệp hội. Các cổ phần thuộc quyền sở hữu của các công ty tài phiệt và các gia đình tài phiệt đã bị xử lí dưới hình thức đem ra bán ở thị trường cổ phần. Vì thế đã loại trừ được sự chi phối của các cá nhân và của chủ cổ phần. Việc giải thể phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật như thép, đóng tàu … đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ công nghiệp của Nhật Bản. Nhiều nhà kinh tế đã đánh giá việc giải thể các Zaibatsu góp phần vào việc xóa bỏ tình trạng tập trung kinh tế, thiết lập một khuôn khổ cạnh tranh và giúp cho nền kinh tế Nhật phát triển mạnh. Việc thanh lọc kinh tế đã loại bỏ trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty có tư tưởng quân phiệt hiếu chiến, tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo. Do đó, nền kinh tế Nhật có điều kiện lấy lại sức sống và phát triển. Công ty bị chia nhỏ thành những công ty nhỏ với những người lãnh đạo trẻ tuổi( được gọi là giới lãnh đạo cấp 3). Nhiều người lo ngại rằng liệu toàn người lãnh đạo cấp 3 như thế có thể gánh vác nổi nền kinh tế Nhật Bản hay không nhưng ngược lại lớp trẻ đã phát huy tốt tinh thần của các nhà kinh tế do đó nền kinh tế Nhật Bản đã lấy lại được sức sống của nó. Việc giải thể các tập đoàn tài phiệt được tiến hành theo luật thủ tiêu tình trạng tập trung cao độ kinh tế. Có thể nghĩ đó là ý đồ của Mĩ dùng pháp luật để làm yếu nền kinh tế Nhật. Nhưng mặt khác nó đã làm tăng sức cạnh tranh, giúp cho nền kinh tế Nhật tăng trưởng mạnh. Giải thể các công ty lung đoạn Zaibatsu cũng là một nội dung quan trọng của cải cách kinh tế và tác động lớn đến sự phát triển thần kì Nhật Bản. Việc giải thể này nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc mang tính phong kiến. *Chế định ba luật về lao động. Cùng với các cải cách dân chủ khác là việc thực hiện ngay cuộc cải cách lao động sau chiến tranh. Chính sách quan trọng của Mỹ là khuyến khích hoạt động công đoàn. Đó là bảo đảm ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân phiệt và hành vi xâm lược và được coi là biện pháp đề cao tự do và nâng cao đời sống vật chất của nhân dân Nhật Bản. Luật công đoàn được đề ra vào tháng 12 năm 1945 và bắt đầu được thực hiện vào đầu tháng 3 năm 1946, luật công đoàn quy định công nhân có quyền đoàn kết, quyền thương lượng tập thể, quyền bãi công. Luật điều chính quan hệ lao động được đề ra vào tháng 7 năm 1947. Luật tiêu chuẩn lao động được đề ra vào tháng 4 năm 1947. Vì vậy lực lượng công đoàn phát triển nhanh chóng. Trong những năm 1945-1951 các cuộc cải cách lao động thể hiện chủ yếu dưới hình thức đòi cải thiện quan hệ chủ, thợ trong xí nghiệp, công ty. Đề cao tự do, dân chủ, nâng cao đời sống vật chất cho công nhân, tạo nên mối quan hệ mới có lợi cho sự phục hồi và phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó phong trào công nhân phát triển nhanh chóng, số lượng đoàn viên tăng mạnh mẽ. Cải cách công đoàn và nhiều nội dung thể hiện trong cải cách tăng cường quan hệ hợp tác chủ thợ góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh vào cuối thập kỉ 50 và các giai đoạn sau đó. Phong trào công đoàn thời kỳ đầu sau chiến tranh mang tính chiến đấu rất rõ rệt. Bởi vì lúc đó bối cảnh về mặt tư tưởng công nhân có nguy cơ bị tư bản tước đoạt quyền lợi của mình. Một nguyên nhân nữa là đời song công nhân trong thời kỳ đó vô cùng khổ cực nếu không đấu tranh đòi tăng lương thì không sống nổi. Vì thế mà phong trào công đoàn đã dương cao nhiều mục tiêu để tập hợp công nhân đấu tranh như: truy cứu trách nhiệm chiến tranh, phản đối cuộc giãn thợ, bảo vệ đời sống về quyền của công nhân, thì ngoài quyền bãi công ra công nhân đòi quyền tham gia dưới hình thức quản lí. Những cuộc bãi công, đấu tranh lớn của công nhân sau chiến tranh có thể kể đến như: cuộc bãi công của công nhân viên báo Yomiuri năm 1945, cuộc bãi công của nhà máy đóng tàu Tsurumi thuộc tập đoàn sắt thép Nihon Kokan. Các tổ chức công đoàn đã tiến hành các cuộc bãi công kéo dài đe dọa đến quản lí sản xuất như manh nha đòi phải có sự giám sát của dân trong kinh tế, đe dọa sự tồn tại của xí nghiệp. Sau đó qua nhiều cuộc đấu tranh khác nữa, hoạt động của công đoàn trở nên thực dụng hơn, chuyển sang các nội dung chủ yếu là về kinh tế ôn hòa hơn và trở thành một cơ sở quan trọng giúp cho nền kinh tế Nhật Bản đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Như vậy, công cuộc cải cách ruộng đất sau chiến tranh đã mang lại ruộng đất cho nông dân, và các quyền lợi cơ bản về lao động đã được công nhận. Những điều này cũng góp phần nâng cao được sự nhiệt tình lao động của người lao động. Việc giải tán các tập đoàn tài phiệt và chế định Luật cấm lũng đoạn đã khuyến khích cạnh tranh giữa các xí nghiệp. Việc giải thể “chế độ gia đình” và công nhận quyền lợi cá nhân đã trở thành cơ sở thúc đẩy mở rộng tiêu dùng. Những cải cách dân chủ hóa kinh tế này có tác dụng nâng cao vị trí của tư bản công nghiệp, khuyến khích tinh thần kinh doanh và đầu tư. 2.2.4. Đổi mới và phát triển khoa học kĩ thuật. Con người muốn tranh thủ được nguồn tài nguyên thiên nhiên phải dựa vào kĩ thuật. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành điện tử, hóa dầu, sử dụng năng lượng nguyên tử, hóa học cao phân tử, đã phát triển với tốc độ cực kì nhanh chóng. Sự phát triển như vũ bão đó được gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật. Nguồn gốc của cuộc cách mạng kĩ thuật từ các nước Châu Âu. Các kĩ thuật tiên tiến nhanh chóng được đưa vào Nhật Bản, những mặt hàng mới lần đầu tiên xuất hiện ở thị trường Nhật Bản như nilon, sợi polieste, nguyên tử năng , bán dẫn, vô tuyến truyền hình, máy tính. Có những mặt hàng được sản xuất từ trước nhưng nay nhờ có kĩ thuật mới mà phương pháp , chất lượng thay đổi hẳn. Nhật Bản đã du nhập phương thức sản xuất sắt thép liên hoàn, phương pháp phân giải dầu mỏ, phương thức đóng tàu theo khối lớn, phương thức sản xuất xe hơi hàng loạt Sau chiến tranh, nước Mĩ đã đạt được những tiến bộ khoa học kĩ thuật rất lớn. Nhờ những kĩ thuật tiên tiến, những phát minh kì diệu ở nước Mĩ trước và sau chiến tranh được đưa vào Nhật Bản trong thập kỉ 50 mà tốc độ tiến bộ kĩ thuật ở Nhật Bản cũng nhanh đến mức chưa từng có. Bước vào thập niên 60 của thế kỉ XX, tiến bộ kĩ thuật diễn ra dưới hình thức kết hợp với những kĩ thuật đã có. Có nhiều quan điểm về sự kết hợp này các nhà khoa học tự nhiên thì cho rằng sự kết hợp đókhông hẳn là cách mạng kĩ thuật còn các nhà kinh tế họcthì cho rằng chính sự kết hợp khoa học kĩ thuật mới với kĩ thuật sẵn có là cách mạng kĩ thuật có ý nghĩa về mặt kinh tế. Những đổi mới về mặt kĩ thuật mang tính chất kết hợp này là phổ biến trong thập kỉ 60 và cũng chính trong thời gian này xuất hiện các liên hiệp hóa dầu, liên hiệp gang thép, phương thức bán hang tự động tại các siêu thị. Sự tiếp nhận các tri thức, thành tựu khoa học kĩ thuật phương Tây được phân tích kĩ lưỡng, thận trọng và có chọn lọc. Các tri thức này đem lại kết quả thiết thực cho sự phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Những tri thức du nhập này được vận dụng sáng tạo trong điều kiện kinh tế -xã hội Nhật Bản. Sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất nhờ tiến hành cách mạng kĩ thuật. Đặc biệt, trong các lĩnh vực hóa dầu, công nghiệp điện tử, sắt thép… đã du nhập được các kĩ thuật tiên tiến nhất từ các nước phương Tây, kết hợp với sự cải tiến cho phù hợp với đặc điểm của Nhật Bản, đã trang bị cho các ngành công nghiệp những kĩ thuật tiên tiến. Kĩ thuật tiên tiến đã cùng với lực lượng lao động cần cù, có tay nghề cao, làm hạ giá thành của hàng hóa và trở thành sức mạnh cho hàng hóa Nhật Bản thâm nhập vào thị trường thế giới. Một điều quan trọng nữa là Nhật Bản đã xác lập quy trình kĩ thuật quản lí chất lượng sản phẩm , chính vì vậy hàng hóa Nhật Bản được đánh giá cao. Nhật Bản biết lợi dụng sự đầu tư của Mĩ để tạo dựng cho Nhật Bản phục hồi. Sau đó Nhật Bản đã tận dụng sự phát triển của khoa học vào sự phát triển kinh tế như mua bằng sáng chế của nước ngoài, sử dụng chất xám vào phát triển khoa học kĩ thuật. Chuyển từ phát triển kinh tế chiều rộng sang phát triển kinh tế chiều sâu. Mặt khác, sự ganh đua cũng là một kênh khác mà qua đó thương mại có thể thúc đẩy tăng năng suất trong cả ngành xuất khẩu lẫn thay thế nhập khẩu. Cạnh tranh và sự cọ xát với các doanh nghiệp nước ngoài lớn cũng sẽ đẩy mạnh việc mua sắm công nghệ, và do đó dẫn đến những thay đổi công nghệ nhanh hơn. Vì việc sao chép hay tiếp thu công nghệ dễ dàng hơn việc tự phát minh, nhất là với điều kiện của Nhật Bản lúc đó thì việc mua các phát minh là lựa chọn tối ưu nhất. Nhật Bản có sức thu hút vốn từ bên ngoài và có khả năng cạnh tranh cao, khả năng len lách vào các thị trường quốc tế. Luôn áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại vào sản xuất, không ngừng nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã. 2.2.5.Ổn định chính trị-xã hội. Sau chiến tranh thế giới 2, Nhật Bản bị đặt dưới sự chiếm đóng của Mĩ. Tháng 12-1945, Hội đồng thường trực về Nhật Bản được thành lập gồm đại diện 4 nước: Mĩ, Anh , Xô, Trung. Đây là cơ quan tư vấn của Bộ Tư Lệnh tối cao các lực lượng đồng minh. Các cuộc cải cách chính trị: thanh trừng phạm tội phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động các đảng phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy chính trị, chuyển toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, và đã thổi một làn gió tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho Nhật Bản bước vào kỉ nguyên tăng trưởng kinh tế. Cải cách chính trị quan trọng nhất ở Nhật Bản sau chiến tranh là cải cách Hiến Pháp. Tình trạng hỗn độn sau chiến tranh đã được thừa nhận trong dự thảo sửa đổi Hiến Pháp được công bố vào thời kì đó. Tháng 10-1945, sau khi Bộ Tư Lệnh của Mc Aithur bày tỏ ý định cần phải sửa đổi Hiến Pháp, nhiều bản dự thảo Hiến pháp được công bố. Nội dung chính của Hiến Pháp mới do Đảng Cộng sản tuyên bố chủ trương bãi bỏ chế độ Thiên Hoàng là điều tất nhiên nếu xét về tính chất của Đảng. Sự thất bại của chiến tranh đã mang lại cho Nhật Bản một Hiến pháp hòa bình. Hiến pháp của Nhật Bản được công bố vào ngày 3/11/1946 và có hiệu lực kể từ ngày 3/5/1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyền trung thành với các lí tưởng hòa bình và trật tự dân chủ. Hiến pháp quy định chế độ 2 viện: Hạ viện gồm những đại diện được lựa chọn qua bầu cử của quần chúng để tránh quyền chính trị tập trung vào nghị viện; và viện quý tộc bao gồm các nghị sĩ đại diện cho tầng lớp quý tộc và theo chế độ bổ nhiệm. Để ngăn chặn sự lộng hành của Hạ nghị viện, Hiến pháp còn quy định thành lập Viện cơ mật bao gồm những cố vấn nắm cã vấn đề cơ mật, độc lập với nghị viện để xem xét các vấn đề tronhj yếu của đất nước. Thiên Hoàng có quyền hết sức rộng rãi; được ra những sắc dụ ngoài các luật do nnghij viện thông qua. Trong trường hợp không thông qua được ngân sách, Chính phủ có quyền thông qua ngân sách bằng mức của năm tài khóa trước. Do đó, quyền thảo luận về ngân sách của nghị viện là rất hạn chế. Ngày 15-8-1945, Chính phủ Nhật Bản đã chấp nhận tuyên ngôn Posdam, thông báo cho quốc dân đồng bào về việc Nhật Bản đã đầu hàng đồng minh gồm có Anh, Mĩ, Xô, Trung…Tuyên ngôn Posdam yêu cầu Nhật Bản cần có Hiến pháp mới, trong đó quy định dân chủ hóa nền Chính trị đất nước, bảo đảm nhân quyền cơ bản, thành lập chính phủ mới. Khi đã chấp nhận tuyên ngôn này, Nhật Bản phải sửa đổi Hiến pháp dưới một hình thức nào đó.Ban đầu, Chính phủ Nhật có thái độ rất tiêu cực đối với việc sửa đổi Hiến pháp. Nhưng Chính phủ Nhật Bản buộc phải sửa đổi Hiến pháp vì đã chấp nhậ tuyên ngôn Posdam và hứa thực hiện dân chủ hóa. Vì vậy, tháng 10 năm 1945, nội các đã lập ra “ ủy ban điều tra vấn đề Hiến pháp” và bắt tay vào việc soạn thảo nội dung Hiến pháp . Uỷ ban này đã tiến hành các cuộc thảo luận cho đến đầu năm 1946. Ngày 8-2, ủy ban đã chuyển dự thảo cho Bộ trưởng tư lệnh lien quân. Nhưng bản dự thảo này còn nhiều nội dung rất bảo thủ, chỉ sửa đổi nhỏ so với Hiến pháp Minh Trị. Khi đó các chính đảng và tổ chức tư nhân được phục hồi sau chiến tranh đã đưa ra các dự thảo về đề cương cho việc sửa đổi Hiến pháp. Sauk hi trao đổi đề cương dự thỏa Hiến pháp cho Chính phủ Nhật Bản, Bộ tổng tư lệnh liên quân tiến hành các cuộc trao đổi giữa 2 bên. Ngày 6-3, đề cương đó được công bố làm nhiều người Nhật ngạc nhiên và rất phấn khởi trước nội dung dân chủ, tiến bộ tự do. Vì vậy nó được tuyệt đại đa số nhân dân ủng hộ. Nội dung cơ bản trong Hiến pháp Nhật Bản: Hiến pháp Nhật Bản hiện hành đã thay đổi một cách căn bản Hiến pháp Minh Trị, xác lập 3 nội dung cơ bản là : nguyên tắc chủ quyền cho nhân dân, bảo đảm nhân quyền cơ bản và tinh thần hòa bình.Hiến pháp Nhật Bản đã sửa đổi đoạn nói về chủ quyền thuộc Thiên Hoàng ;đồng thời bãi bỏ tất cả các quyền chính trị của Thiên Hoàng, nêu rõ nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân theo nguyên tắc của các Hiến pháp hiện đại. Hiến pháp quy định các loại quyền tham gia hoạt động chính trị như nhân dân có quyền tham gia chính trị, quyền hạn của Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất và là vị trí tượng trưng của Thiên Hoàng. Hiến pháp Nhật Bản được xây dựng trên cơ sở phủ định khuynh hướng quân phiệt và xâm lược của Nhật Bản trong quá khứ, xét đến những bài học kinh nghiệm nhục nhã về thảm họa của chiến tranh để quán triệt nguyên tắc hòa bình. Hiến Pháp là sự thỏa thuận giữa hai loại quan điểm và nó đã được ban hành ngày 7-10-1946 dưới hình thức chế độ Thiên Hoàng là tượng trưng cho chủ quyền thuộc về nhân dân. Xã hội Nhật Bảnđảm bảo dưới sự ổn định nhờ Hiến Pháp này mang tính chất tiến bộ lẫn bảo thủ. Trong suốt hơn 40 năm sau chiến tranh, có những sự kiện đôi lúc đã gây ra sự chia rẽ trong xã hội. Nhưng nhìn chung đã nhanh chóng được giải quyết. Một xã hội mà trong đó một số đông nhân dân coi mình thuộc tầng lớp trung lưu đã được hình thành .Trên chính trường, trừ thời gian nội các Katayama của Đảng Xã Hội tồn tại được khoảng 7 tháng kể từ tháng 6-1947, còn hầu hết thời gian sau chiến tranh Chính phủ do Đảng Bảo Thủ nắm giữ. Tình hình trên đây đã có ưu điểm là mang lại sự ổn định xã hội, duy trì được tính nhất quán của cuộc sống. Chính sách của Đảng Bảo Thủ không phải cố giữ thể chế đã lỗi thời mà đã có không ít mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi. Có thể đó là một lí do Đảng Bảo Thủ ở Nhật Bản duy trì được chisng quyền trong một thời gian dài. Kể từ sau khi thực hiện các cuộc cải cách dân chủ đến khi Nhật bước vào giai đoạn phát triển thần kì kinh tế, vào cuối những năm 1970 xã hội Nhật Bản có những sự kiện đôi lúc gây chia rẽ trong xã hội. Phong trào tổng bãi công của công nhân có thái độ đối đầu với chính phủ vào năm 1946, 1947. Năm 1960 dư luận đã bị chia rẽ mạnh mẽ khi sửa đổi kéo dài Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật.Các đảng phái, tổ chức sinh viên, công đoàn, cơ quan ngôn luận đã phản đối mạnh mẽ sự sửa đổi này … . Chính phủ Nhật đã tăng cường các biện pháp cưỡng chế và nhiều lí do khác đã làm cho các phong tào bãi công dịu đi và được giải quyết ổn thỏa. Xã hội Nhật được coi là xã hội ổn định là một trong những nguyên nhân tạo ra sự tăng trưởng thần kì của Nhật. Đó là hiệu quả tác động trực tiếp do các cuộc cải cách Nhật Bản mang lại. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp bách sau chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ, cho phép thành lập các công đoàn, hiệp hội và thực hiện một lọat các biện pháp cứu đói, khuyến khích sản xuất để tạo nên sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản. Những thành quả của cuộc cải cách lao động đã tạo nên một mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa chủ - thợ trong quá trình lao động. Cải cách giáo dục cũng tạo nên một thế hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư tưởng hòa bình và phát triển kinh tế. Các cuộc cải góp phần vào việc xây dựng, củng cố một nền chính trị ổn định. 2.2.6. Chi phí quốc phòng ít. Theo Hiến Pháp mới của Nhật Bản được ban hành năm 1946, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chiến tranh. Quy định từ bỏ chiến tranh được ghi trong Hiến Pháp đã hạn chế đến mức thấp nhất chi tiêu cho phòng thủ ở Nhật Bản và sử dụng quốc lực vào mục đích phát triển kinh tế. Trong chiến tranh không chỉ riêng tiền bạc, nhân tài cũng được tổng động viên vào các binh chủng lục, hải không quân. Trong thời bình được động viên và các ngành kinh tế. Điều đó cũng được coi là sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế. Tỉ lệ cho ngân sách phòng thủ trong tổng sản phẩm quốc dân từ 3,3%năm 1950 xuống còn 1% năm 1960. Sau đó, việc có nên duy trì ngân sách phòng thủ ở mức 1% tổng sản phẩm hay không luôn là vấn đề tranh cãi về chính trị. Cho đến năm 1988, chi phí cho phòng thủ trên thực tế vẫn duy trì trong khoảng 1% tổng sản phẩm quốc dân. Sau chiến tranh thế giới 2 thì Nhật Bản hoàn toàn lệ thuộc vào Mĩ về chính trị quân sự. Ngày 8-9-1951, Hiệp ước an ninh Nhật- Mĩ được kí kết, đặt nền tảng mới cho quan hệ Mĩ –Nhật. Theo đó Nhật Bản chấp nhận ô bảo vệ hạt nhân của Mĩ và để cho Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật. Hướng phát triển quân đội Nhật Bản chủ yếu tập trung vào giảm số lượng nhưng tăng chất lượng, trang thiết bị, tăng khả năng cơ động, mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Tăng cường hợp tác với Mĩ, đồng thời đẩy nhanh các biện pháp củng cố an ninh, phòng ngừa, công khai về quốc phòng qua các hoạt động, diễn đàn chung về an ninh, giải trừ quân bị. Trao đổi quân sự với các nước trong và ngoài khu vực. Vào đầu những năm 50, Mĩ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương nên đã dặt hàng quân sự và vũ khí chiến tranh tại Nhật. Những đơn đặt hàng ấy được coi như những ngọn gió thần thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản phát triển. Nhật biết tận dụng những yếu tố bên ngoài nhất là các nguồn viện trợ của Mĩ sau chiến tranh, dựa vào Mĩ về mặt quân sự để chi phí cho giảm quốc phòng để khôi phục và phát triển kinh tế. 2.2.7.Các công ti,các nhà kinh doanh năng động tích cực. Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh rất năng động và tích cực của mình. Điều này được hình thành mạnh mẽ nhất trong các cuộc cải cách: thanh trừng chính trị, giải thể các Zaibatsu, thanh lọc kinh tế, qua đó đã tạo ra lực lượng nhà kinh doanh có tư tưởng năng động, sang tạo, táo bạo, tích cực trong kinh doanh là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sauk hi lấy lại tinh thần do chiến tranh mang lại dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế các tổ chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thành lập khắp nơi với quyết tâm phát triển kinh tế, tổ chức lại các hoạt động kinh tế làm cho cỗ máy kinh tế vận hành. Tháng 4- 1946, Hội đồng hữu kinh tế được thành lập với quyết tâm của những nhà kinh doanh dưới 50 tuổi như: Kanichi Mori, Otsuka,…. Họ đã phê phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hóa chiến tranh. Những người kinh doanh xí nghiệp ở Nhật Bản sau chiến tranh có thể phân thành 3 loại: -Loại 1: Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt với tư cách là người thay thế các nhà lãnh đạo các xí nghiệp hàng đầu đã bị buộc phải rời khỏi chức vụ theo luật giải tán các tập đoàn quân phiệt. Tiêu biểu là ông Chikara Kurata( hang chế tạo Hitachi), Kikuo Ssyama( hãng Toyo Rayon). -Loại 2: Những nhà kinh doanh lập nghiệp sau chiến tranh tức là trước chiến tranh chỉ là các xí nghiệp trung tiểu, sau chiến tranh phát triển nhảy vọt. Tiêu biểu là Konosuka Masta( công ty điện Masta Shita), Sazo Idemitsu( Idemitsu Hunsan). -Loại 3: Các nhà doanh nghiệp nổi lên sau chiến tranh. Đại diện là Ohibaka, Akio Morita( Sony) Shoi Chira Honda( hãng nghiên cứu kỹ thuật Honda). Sau chiến tranh thế giới 2 dưới sự tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực đã tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh tích cực thử sức mình. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể và bầu không khí tự do sau chiến tranh là mảnh đất tốt cho sự ra đời các nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đã làm là mạnh dạn chuyển đổi các ngành công nghiệp phù hợp, hòa bình và phục hồi đời sống, xây dựng kinh tế cho nhân dân. Họ có tinh thần đi tiên phong đổi mới kĩ thuật chủ yếu từ Mĩ và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfS7921 phamp225t tri7875n th7847n kamp236 c7911a kinh t7871 Nh7853t B7843n 1.pdf
Tài liệu liên quan