Đề tài Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

A.Đặt vấn đề 1

B. Nội dung 2

I. Những lý luân chung về quan điểm toàn diện. 2

1. Cơ sở lý luận. 2

2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện. 3

3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện. 4

II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 4

1. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là gì? 4

2. Vai trò của kinh tế thị trường với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 15

III. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp. 18

1. Thực trạng. 18

2. Giải pháp. 20

Kết luận 24

Tài liệu tham khảo 25

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình, tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của Nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,..... Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng... Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích. Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch hoá, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trrên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước – là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý Nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém. Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng, định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. b. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Đối với nước ta, giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. chẳng hạn như: Thứ nhất, sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. Thứ hai, với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hoá được sử dụng như là một trong những công cụ lao động kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, kế hoạch hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng khác với kế hoạch hoá trước đây nếu trước đây kế hoạch hoá chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước, thì bây giờ kế hoạch hoá phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội v..v... Nhìn nhận kế hoạch hoá với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hoá. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã khẳng định: “Trong nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Thị trường vừa là một công cụ vừa là một đối tượng của kế hoạch hoá”. Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường thiên nhiên..v... vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hướng và kế hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ ba, thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà nước, của ngành, của địa phương... vậy xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng cao nhất. Nhìn nhận kế hoạch hoá thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, thì thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và cơ chế thị trường được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Đổi mới kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng; kế hoạch hoá là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch hoá từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo, kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tình huớng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích xã hội chủ nghĩa theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: một là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhân tố đóng vai trò “nhân tố trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế – xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp. Vì cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, do đó đặt ra cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà 3 vấn đề sau đây: một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phói qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia phải được thay thế bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Liên quan chặt chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mứcc, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong điều kiện “tinh” và “đóng cửa”, không tính được đầy đủ những biến động trên thị trường thế giới, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch theo những ngành mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông....), những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa khọc công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngnàh khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức định hướng, dự báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguòn ngân sách để đầu tư cho dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy hoạch để các thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực tham gia thực hiện. Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần phân cấp quản lý Nhà nước theo nguyên tắc “những hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng”. Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. kế hoạch phải căn cứ vào thực hiện, phân tích quan hệ cung cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước và quốc tế ) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự “trả giá”, hy sinh mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác. Việc chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến lược có thời gian 10-15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ, dự thảo chiến lược công bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến, chiến lược đựơc Bộ chính trị và Đại hội Đảng thông qua. Xây dựng kế hoạch phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hoá chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế phát triển theo định hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng. Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, của tiến bộ khoa khọc và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết. Hệ thống kế hoạch hằng năm ở tầm vĩ mô: kế hoạch vừa là bộ phận vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hằng năm chủ yếu chỉ mang nôi dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hằng năm không nên đưa ra mục tiêu mang tính tổng quát. Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không bao gòm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt, vì kế hoạch của những Tổng Công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông...). Bên cạnh đó, hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định cho nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc tính toán trong xây dựng và điều hành kế hoạch. Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở địa phương và ở các ngành. Nội dung kế hoạch của các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý Nhà nước về kinh tế. Kế hoạch của các ngành, địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành, địa phương cần hỗ trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp các thông tin, dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngnàh trong việc dự báo tình hình thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh giá thực trạng trong nước, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá. - Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các loại thông tin báo cáo cần thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo cáo, xác định hệ thống tổ chức bộ máy thu thập và xử lý thông tin. - Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. - Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. 2. Vai trò của kinh tế thị trường với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 1.2. Việt Nam phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Về mặt kinh tế, có thể coi đây là thời kỳ của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường còn nhiều xu hướng tự phát nhưng có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo theo hướng củng cố và phát triển chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, kết hợp đúng đắn giữa kế hoạch và thị trường, kết hợp kế hoạch phát triển kinh tế với kế hoạch xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giảm hẳn phần kế hoạch pháp lệnh và kế hoạch trực tiếp thay bằng kế hoạch định hướng, trong đó không chỉ chú ý đến những cân đối tổng hợp mà còn cả cân đối giá trị, nhằm giữ vững cân đối tổng thể, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế, và do kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có những yếu tố khách quan yêu cầu và bảo đảm cho sự thành công của nó. Đó là khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa làm nền tảng đã hình thành, Nhà nước nắm giữ những ngành, những lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế, chính quyền là của nhân dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có tiền lệ lịch sử chứ không phải là “công việc hoàn toàn mới” hay “chưa hề có ” như một số tác giả đã quan niệm. Tiền lệ đó là chính sách kinh tế mới (NEP) do Lê-nin đề xướng đã được vận dụng vào thực tiễn ở Liên xô trong những năm hai mươi. Nội dung cơ bản của chính sách đó là chuyển từ nền kinh tế mệnh lệnh, chỉ huy sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, biện pháp chủ yếu để bảo đảm thắng lợi của định hướng tư bản chủ nghĩa và ngăn chặn định hướng tư bản chủ nghĩa là sử dụng đúng đắn chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới nền chuyên chính vô sản. Qua mười năm đổi mới, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lê-nin vào đặc điểm và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chúng ta không tránh khỏi một số khuyết điểm, lệch lạc. Song về cơ bản chúng ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go và không những đã đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Với những điều trình bày ở trên chúng ta có thể khẳng định rằng, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là sự chuyển đổi hợp quy luật. Không thể coi đó là sự “từ bỏ lý tưởng” và “ngả sang chủ nghĩa tư bản”. 2.2. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đầy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc đang còn sơ khai như thị trường lao động thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa khọc công nghệ. Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện phần nào đã cản trở nên hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển theo bản chất mà nó, làm sai lệch đi những nội dung cần có của các yếu tố thị trường. Thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và hoàn chỉnh một cách toàn diện các yếu tố thị trường cụ thể như sau. - Phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ: thị trường hàng hoá dịch vụ là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy việc phát triển nền kinh tế thị trường lao động cần được quan tâm đúng mức. Việc mở rộng thị trường lao động trong nước cần có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học nghề mới. - Phát triển thị trường vốn: phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và tập trung là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển và có tăng trưởng cao. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức vận hành thị trường chứng khoán an toàn hiệu quả, Ngân hàng ..... - Ngoài các thị trường chủ yếu trên còn phải phát triển thị trường bất động sản thị trường nhà ở, thị trường đất đai và một số thị trường khác. Như vậy việc vận dụng quan điểm toàn diện đồng bộ các yếu tố thị trường các loại thị trường là yếu tố thị trường cần được định hướng theo định hướng của Nhà nước bằng hàng loạt các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. b. Hoàn chỉnh động bồ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tiến hành quản lý kinh tế Nhà nước phải sử dụng để tác động cho nền kinh tế nhằm đạt được mong muốn của mình. Văn kiện đại hội VIII của Đảng chỉ rõ “Nhà nước quản lý kinh tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch hoá, cơ chế chính sách bằng các đòn bẩy kinh tế và nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước”. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khác quan trong của cơ chế thị trường, tạo điều kiện để phát huy mặt tích cực, đông thời khắc phục hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường. Do vậy quan điểm toàn diện trong việc xây dựng các công cụ quản lý là hết sức quan trọng các công cụ đó cụ thể là: Công cụ pháp luật Công cụ kế hoạch Công cụ khác (các nguồn lực của kinh tế Nhà nước ) Tóm lại kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là rất còn thiết. Nó đã hạn chế rất nhiều tiêu cực, thúc đẩy phát triển mạnh hơn nữa những mặt tích cực dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã đi vào ổn định tạo tiền đề cho sự phát triển chủ nghĩa xã hội sau này. III. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp. Thực trạng. 1.1. Giai đoạn trước năm 1986. Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Cách mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nền do chiến tranh lâu dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách thống nhất. Chúng ta đã có nhiều cố gằng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nền từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp. Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm, tham nhũng nhiều, tệ nạn xã hội phát triển. Trên thực tế nền ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50736.doc
Tài liệu liên quan