Đề tài Những biện pháp cơ bản nâng cao vai trò của lao động trong đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam

PHẦN I: MỞ ĐẦU 1

PHẦN II: NỘI DUNG 2

I-/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: 2

A-/ CƠ SỞ LÝ LUẬN: 2

1-/ Nguồn lao động và các yếu tố ảnh hưởng

đến chất lượng nguồn lao động: 2

2-/ Các mô hình kinh tế đề cao vai trò của lao động

với tăng trưởng và phát triển kinh tế: 7

2.1 Mô hình của C.Marx 7

2.2 Mô hình cổ điển - Adam Smith 9

2.3 Quan điểm của Fisher 11

2.4 Hàm sản xuất của Ricardo 12

B-/ CƠ SỞ THỰC TIỄN: 13

1-/ Vai trò của lao động trong quá trình phát triển

vừa qua của các nước Nics: 13

2-/ Vai trò quan trọng của lao động trong quá trình

phát triển vừa qua của Việt Nam: 15

II-/ THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM: 16

1-/ SỐ LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG: 16

2-/ CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG: 18

3-/ THỪA LAO ĐỘNG GIẢN ĐƠN, THIẾU LAO ĐỘNG

KỸ THUẬT - MỘT NGHỊC LÝ ĐANG TỒN TẠI: 20

III-/ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG: 21

1-/ MỤC TIÊU CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC: 21

2-/ CÁC GIẢI PHÁP: 22

PHẦN III 24

KẾT LUẬN 24

Tài liệu tham khảo 25

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1123 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp cơ bản nâng cao vai trò của lao động trong đường lối phát triển kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình sản xuất TBCN, là hình thái TBCN của nền sản xuất hàng hoá". Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng: + Người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất, chịu nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. + Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân. Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Theo Marx sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt. Cũng như các hàng hoá khác, nó được các nhà tư bản mua trên thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng trong quá trình sản xuất, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động không giống với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác. Nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Marx cho rằng trong suốt thời gian lao động của công nhân thì chỉ dành 2/3 số giờ lao động để tạo ra giá trị sức lao động còn 1/2 số giờ còn lại người công nhân dành để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Trong xã hội TBCN do thường xuyên có đội hậu bị quân công nghiệp nên tiền công của công nhân luôn ở mức tối thiểu, đủ sống. Marx đưa ra quan hệ tỷ lệ m/v phản ánh sự phân phối thời gian lao động của công nhân: một phần làm việc cho bản thân (v), một phần sáng tạo ra (m) cho nhà tư bản và địa chủ. Như vậy, siêu lợi nhuận của nhà tư bản trong quá trình sản xuất là do lao động của nhân công tạo nên. Nó phản ánh vai trò to lớn của lao động trong quá trình tạo ra sản phẩm cho toàn xã hội. Nhưng đồng thời, nó cũng phản ánh sự bóc lột rất trắng trợn, dã man của chủ nghĩa tư bản đối với từng lớp người lao động nói chung và đối với giai cấp công nhân nói riêng. Marx đã đề cập rất lớn đến vai trò của lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư nhưng marx cũng đồng thời vạnh trần tội ác của chủ nghĩa tư bản mà trước đây nó được che đậy dưới cái ô của lợi nhuận, của giá trị thặng dư. Siêu lợi nhuận đó không phải do sự tài tình, khôn khéo của các nhà sản xuất tư bản tạo ra mà đó là do lao động của những người công nhân tạo ra. Đáng lý ra giá trị thặng dư đó là thuộc quyền sở hữu của người lao động nhưng đã bị các nhà tư bản chiếm đoạt, phản ánh sự bóc lột con người lao động của chủ nghĩa tư bản. Từ phân tích của Marx chúng ta nhận thấy được vai trò rất quan trọng của lao động trong quá trình tạo ra thu nhập của xã hội, cũng như trong quá trình cải cách và phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Con người là yếu tố quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững và dài hạn của Việt nam. Trong công cuộc cải cách kinh tế và lựa chọn con đười phát triển cho riêng mình, các nước Châu á đã tận dụng tối đa những lợi thế so sánh của mình, đặc biệt là về nguồn lực lao động dồi dào và rẻ đảm bảo cho quá trình tích luỹ vốn cho sự phát triển tiếp theo bằng cách tăng cường phát triển các mặt hàng xuất khẩu có hàm lượng lao động lớn. Đó là các tiền đề, là cái máng hay còn gọi là xuát phát điểm rất vững chắc của các nước Châu á trong công cuộc cải cách và phát triển kinh tế. Sở dĩ có sự xuất hiện của "hiện tượng Nhật Bản", sự vươn vai của các nước Nics - hay còn gọi là "con rồng Châu á" là bắt nguồn từ việc phát huy tối đa lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên của các nước này. Đánh dấu cho sự phát triển không ngừng của các nền kinh tế Châu á, được xuất phát từ lao động đến vốn và vốn kết hợp với công nghệ cao. 2.2. Mô hình cổ điển - Adam Smith: Adam Smith (1723-1790), tác phẩm nổi tiếng của ông là "của cải của các dân tộc" xuất bản ngày 9-3-1976 giới kinh tế học coi đây là điểm mốc đánh dấu sự ra đời của khoa học - kinh tế học. Vì vậy, Adam Smith được xem là cha đẻ của kinh tế học. Trong thuyết về "giá trị lao động", Adam Smith cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước, lao động hàng năm của mỗi dân tộc là quỹ vốn mà trước hết cung cấp cho dân tộc đó tất cả những vận dụng cần thiết và những tiện nghi trong cuộc sống mà dân tộc đó tiêu dùng hàng năm. Quỹ vốn bao gồm các sản phẩm trực tiếp của lao động đó hoặc những thứ mua được của các dân tộc khác nhờ có các sản phẩm đó. Bởi vì, Smith cho rằng, người làm ra một mặt hàng phải lao động khổ sở nên phải được đền bù bằng một thứ gì khác có ích cho mình, thường là một thứ gì mà người khác cũng đã phải lao động để tạo ra, cho nên việc dành được thứ đó có nghĩa là tiết kiệm công sức của mình. Mặc dù anh ta không muốn dùng cái mà anh ta đã mua, nó vẫn là một lượng lao động mà anh ta có thể đổi lấy một cái gì khác mà anh ta muốn. "Vậy lao động là thước đo thực tế đối với giá trị trao đổi của mọi thứ hàng hoá". Cách diễn giải đó chủ yếu được áp dụng dưới thời nguyên thuỷ. Nhưng theo Smith ở một xã hội phát triển tất yếu xuất hiện những yếu tố khác nữa. Tuỳ theo mức độ các sản phẩm trực tiếp của lao động này (hoặc các thứ mua được nhờ có các sản phẩm này) chiếm một tỷ lệ nhiều hay ít so với số người tiêu dùng, mà dân tộc đó được hưởng thụ nhiều hay ít những vật dụng cần thiết và những tiện nghi mà họ muốn có. Nhưng tỷ lệ này được điều tiết ở mỗi dân tộc bởi hai yếu tố: + Bởi kỹ năng, sự khéo léo và phương pháp phán đoán trong quá trình lao động. + Bởi tỷ lệ giữa số người được sử dụng vào lao động có ích với số người phi sản xuất. Dù cho đất đai, khí hậu hoặc qui mô lãnh thổ của một dân tộc như thế nào chăng nữa, thì sự dồi dào hay khan hiếm về các vật dụng cung cấp hàng năm trong tình hình như thế tuỳ thuộc vào hai yếu tố nêu trên. Sự dồi dào hay khan hiếm hàng cung ứng này hình như tuỳ thuộc vào yếu tố thứ nhất nhiều hơn là yếu tố thứ hai. Khi các dân tộc đang ở trong thời kỳ hoang dã gồm những người săn bắt thú vật và đánh cá, thì mỗi cá nhân có khả năng làm việc ít nhiều đều phải tiến hành các hoạt động lao động có ích và cố gắng hết sức để cung cấp những thứ cần dùng trong đời sống cho bản thân mình, cho những người trong gia đình hay là bộ tộc mà đã già yếu hay còn ít tuổi, hoặc bị tàn tật không thể săn bắt và đánh cá được. Tuy nhiên, do họ sinh sống trong cảnh thiếu đói như vậy, cho nên đôi khi họ buộc phải để cho người già, trẻ em và người tàn tật phải sống vất vưởng và chết đói. Ngược lại trong xã hội văn minh và phồn vinh, thì có nhiều người chẳng lao động gì cả nhưng họ lại tiêu thụ sản phẩm gấp mười lần, gấp trăm lần so với nhân dân lao động. Thế nhưng, số lượng sản phẩm do lao động của toàn xã hội tạo ra nhiều đến mức có thể cung cấp đầy đủ cho mọi người. Một người lao động chăm chỉ và biết tiết kiệm thì có thể được hưởng những thứ cần thiết cho đời sống của anh ta hơn rất nhiều lần so với bất kỳ một người nào trong xã hội còn hoang dã. Ngoài ra Smith cũng cho rằng, sự phân công lao động và hoạt động của thị trường trở thành những nguyên nhân chính tạo nên của cải của các dân tộc. Cả hai đều là quá trình tự nhiên, không dự kiến trước. Và tốt hơn hết là nên để tự nó vận hành không có sự can thiệp của chính trị. Sự xuất hiện của Học thuyết "bàn tay vô hình" lại càng khẳng định hơn nữa vai trò của lao động và thị trường trong tăng trưởng kinh tế. Chỉ có người lao động mới hiểu được sẽ rõ cái gì có lợi cho họ và cái gì không có lợi cho họ. Và họ sản xuất theo sự nhận biết của mình và đi theo tiếng gọi của lợi nhuận. Như vậy, lao động tạo ra của cải cho xã hội và thị trường tạo ra lợi nhuận cho người lao động. Nhưng thực tế lại không dễ dàng như vậy, bởi vì dưới chủ nghĩa tư bản, tư liệu sản xuất thường được tập trung phần lớn trong tay các nhà tư bản. Do vậy, mọi hoạt động lao động của người lao động đều phải chọn dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. Sức lao động của công nhân trở thành hàng hoá đặc biệt đối với nhà tư bản. Nó cũng được mua sắm và đưa vào sản xuất như các loại hàng hoá khác. Điều đó, đã dẫn đến các mâu thuẫn dưới chủ nghĩa tư bản, sực bóc lột của nhà tư bản đối với người lao động được che đậy dưới giá trị thặng dư ngày càng mãnh liệt tạo nên một sức ép quá lớn cho giai cấp công nhân. Tất yếu nó sẽ được bùng nổ. Kéo theo nó là sự sụp đổ của chế độ bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với giai cấp công nhân nhưng nó có triệt để dập tắt hay không thì không thể trả lời chắc chắn được bởi trong xã hội hiện nay vẫn còn ít nhiều về sự quá thấp của mức lương cho người lao động ở các doanh nghiệp. Các công ty liên doanh hay thậm chí trong các doanh nghiệp tư bản nhà nước. Tất nhiên mọi vấn đề đều ở một chừng mực nào đó mà thôi. 2.3. Quan điểm của A-Fisher: Theo A. Fisher các nước có thể phân loại theo tỷ lệ phân phối tổng số lao động của từng nước vào 3 khu vực: + Khu vực 1: sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp và khai mỏ. + Khu vực 2: công nghiệp chế biến và xây dựng. + Khu vực 3: vận tải, thông tin, thương nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. A. Fisher cho rằng, tiến bộ của kỹ thuật đã có tác động đến sự thay đổi phân bố lao động vào 3 khu vực này. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là để đảm bảo lượng lương thực cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như cũ. Và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Ngược lại tỷ lệ lao động được thu hút vào trong khu vực 2 và khu vực 3 ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của 2 khu vực này và khả năng hạn chế hơn của việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực 3. Như vậy, A. Fisher chỉ chú trọng đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu của lao động khi có sự tiến bộ của kỹ thuật, chúng ta cũng có thể rút ra rằng khi kỹ thuật có bước tiến bộ, nhu cầu về lao động kỹ thuật, lao động có trình độ chuyên môn để tiếp nhận và làm chủ những kỹ thuật mới đó là tăng lên. Như vậy, năng suất lao động trong sản xuất mới tăng lên được, hiệu quả kinh tế mới đảm bảo. Vậy, vấn đề đặt ra cho mỗi đất nước trên con đường phát triển của mình cần phải tập trung một phần nguồn lực cho đầu tư phát triển nguồn lực con người nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ người lao động. 2.4. Hàm sản xuất nông nghiệp của Ricardo. Q0 L0 L4 L3 L2 L1 Q4 Q3 Q2 Q1 + Sự tăng lên của lao động từ L1 đ L2 dẫn đến sự tăng lên của sản lượng từ Q1 đ Q2. + Sự tăng lên từ L2 đ L3 với DL2 = DL3 dẫn đến sự tăng lên ít hơn của đầu ra từ Q2 - Q3 với DQ3 < DQ2. Cứ tiếp tục như vậy, sự tăng lên như nhau của lượng lao động sẽ dẫn đến sự tăng lên giảm dần của lượng đầu ra Q cho đến điểm L0 thì sự tăng lên của lượng lao động như nhau sẽ không dẫn đến sự tăng lên của dầu ra Q. Ngoài L0 sẽ dẫn đến nguy cơ giảm sản lượng đầu ra Q. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, Ricardo không chuyển đến chất lượng của lao động mà chỉ đơn thuần chú ý đến số lượng của lao động trong sản xuất nông nghiệp. Vậy, phải khắc phục tình trạng như thế nào? Để lượng đầu ra Q luôn tăng lên với một lượng DQ ngày càng tăng thì cần phải nâng cao chất lượng của nguồn lao động được tăng thêm bằng kỹ năng, kỹ xảo, sực khéo léo và trình độ chuyên môn của mình. Người lao động có khả năng nâng cao năng suất lao động của họ trong sản xuất, làm cho lượng đầu ra Q liên tục tăng lên với lượng tăng lên sau cao hơn lượng tăng lên trước. Như vậy, đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, muốn tăng sản lượng trong nông nghiệp cần phải nâng cao chất lượng của lao động trong khu vực nông nghiệp, Chính phủ phải đầu tư hơn nữa một phần nguồn lực cho giáo dục - đào tạo và dạy nghề. B-/ Cơ sở thực tiễn: Lý thuyết và kinh nghiệm tăng trưởng của nhiều nước đã cho thấy có nhiều yếu tố quyết định tăng trưởng. Các yếu tố đó bao gồm các yếu tố vật chất và các yếu tố phi vật chất. Các yếu tố vật chất đảm bảo cho tăng trưởng là vốn, lao động, công nghệ và tài nguyên. Trong các yếu tố nói trên, lao động là yếu tố luôn có sẵn và có tiềm năng vô cùng to lớn, nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất đối với sự phát triển nhanh, bền vững của các nước Châu á nói chung và của Việt Nam nói riêng. Quá trình phát triển và chuyển hướng nền kinh tế vừa qua. Các nước Nics Châu á, các nước ASEAN đã đặc biệt chú trọng đến vai trò của lao động với phát triển kinh tế. Nó là nhân tố cơ bản nhằm tích luỹ vốn ban đầu cho quá trình phát triển tiếp theo ở các nước: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapho,... Như vậy, đối với các nước, nguồn lực lao động đó là vốn quý, là nguồn lực quyết định nhất trong tất cả các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1-/ Vai trò của lao động trong quá trình phát triển vừa qua của các nước Nics: Những thành tựu của các nền kinh tế mới công nghiệp hoá (Newly Industrialised Countries, NIC) được cả thế giới thừa nhận chỉ trong một thời gian ngắn 30 năm không những các nước này đã thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu mà vươn lên trở thành những con rồng Châu á - những nước công nghiệp mới. Thu nhập hàng năm của các nước này là trên 10.000 USD/người. Một điểm chung của các nước này là họ đều xuất phát từ vai trò của lao động trong quá trình sản xuất. Lao động là yếu tố làm nên những con rồng Châu á. 1.1. Hàn Quốc: Hàn quốc bắt đầu thực sự đi lên từ giai đoạn 1962-1971, được gọi là giai đoạn cho cuộc cất cánh nền kinh tế. Chiến lược phát triển là chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, tạo điều kiện tăng dần dương lượng thị trường nội địa, nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả năng sử dụng nhiều sức lao động nhưng cần ít vốn đã được ưu đãi phát triển như chế biến lương thực, dệt, may, giày dép. Hàn Quốc đã sử dụng tối đa nguồn lao động để phát triển các ngành này, không những sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước mà còn tạo nên những sản phẩm xuất khẩu có khả năng cạnh tranh tốt, do giá nhân công rẻ, đã tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu từ 41 triệu USD năm 1961 lên 250 triệu USD năm 1966. Bênh cạnh đó, Hàn Quốc đẩy mạnh phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn cho xuất khẩu như: ngành sợi hoá chất,... đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh lến đến 1.066 triệu USD năm 1971, tốc độ tăng trưởng bình quân là 9%, tốc độ tăng trưởng công nghiệp đạt 19,5% bình quân hàng năm giai đoạn 1966-1971. Tận dụng được lợi thế về lao động, Hàn Quốc đã tạo được một nguồn vốn tích luỹ ban đầu từ xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động cao, từ tiết kiệm ngoại tệ do không nhập khẩu hàng tiêu dùng, tạo tiền đề tốt cho sự phát triển tiếp theo của Hàn Quốc. 1.2. Đài Loan: Chiến lược phát triển của Đài Loan là chiến lược phát triển nông nghiệp gắn liền với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Đài Loan tập trung vào những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, nhằm sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước và tập trung vào xuất khẩu thu ngoại tệ cho đầu tư phát triển kinh tế. Sau này khác hơn Hàn Quốc một chút, Đài Loan tập trung phát triển nông nghiệp trong từng giai đoạn. Nông nghiệp cũng là một khu vực sử dụng rất nhiều lao động. Sự chú trọng này vừa tăng sản phẩm nông nghiệp góp phần vào phát triển kinh tế và giải quyết việc làm. Kết quả đạt được của thời kỳ phát triển kinh tế rất khả quan: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 8,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 10.000 USD, dự trữ ngoại tệ rất cao, trên 70 tỷ USD, góp phần ổn định nền kinh tế. 1.3. Hồng Công: Ngay từ quá trình công nghiệp hoá của Hồng Công là hướng về xuất khẩu với việc phát triển các ngành công nghiệp nhẹ dùng nhiều lao động, trong đó hàng dệt may mặc chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Hai ngành này thường tạo ra 44% việc làm, đóng góp 40% trị giá gia tăng trong công nghiệp chế tác. Cùng với việc tận dụng nguồn lao động dồi dào. Hồng Công chú trọng vào các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có quy mô nhỏ và vừa, tận dụng được phương thức sản xuất linh hoạt. Nhờ chiến lược phát triển kinh tế thích hợp tỷ trọng công nghiệp của Hồng Công tăng nhanh lên 40% GDP, sản phẩm công nghiệp đã chiếm tới 80% giá trị xuất khẩu năm 1976 và gần đây vẫn chiếm tới 35-40% trị giá xuất khẩu chính. Vì vậy mà Hồng Công đã trở thành một lãnh thổ thể công nghiệp hoá mới. 2-/ Vai trò quan trọng của lao động trong quá trình phát triển vừa qua của Việt Nam: Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực thành thì. Nhưng phát triển nông nghiệp góp phần tăng thu nhập cho xã hội và giải quyết việc làm trong nôn thôn. Nhận thức được điều đó, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã xác định "Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu..." trong công cuộc cải cách và phát triển kinh tế. Do lợi thế về lao động và nguồn tài nguyên thời gian qua Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong phát triển kinh tế. Sản phẩm xuất khẩu gia tăng, đặc biệt là: gạo, cà phê, hạt điều,... đưa kim ngạch xuất khẩu lên trên 10 tỷ USD hàng năm. Bênh cạnh đó, do lợi thế về lao động, Việt Nam đã chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động nhưng ít vốn như: da giày, may mặc, dệt,... Sản phẩm xuất khẩu của các ngành này đã được tiêu thụ trên thị trường ASEAN và sang thị trường các nước Đông Âu và Tây Âu. Đặc biệt, trong ngành da giày, công ty bóng Động Lực, đã đáp ứng tốt nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sản phẩm sang các nước trong khu vực ASEAN và đặc biệt là sang Trung Quốc. Như vậy, nguồn lao động đã phát huy tốt và đứng vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế vừa qua của Việt Nam. Kết luận: trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về lao động, chúng ta nhận thấy được vai trò rất quan trọng của nguồn lực lao động trong quá trình cải cách và phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Nguồn lực lao động là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững và lâu dài của các nước đang phát triển. Vì vậy, vấn đề đặt ra là Chính phủ các nước cần phải đầu tư hơn nữa cho công cuộc phát huy tốt nguồn lực con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động cho phát triển kinh tế. II-/ Thực trạng lao động ở việt nam: Nước ta có nguồn lao động dồi dào, năm 1995 có trên 40 triệu người, đó là một tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Trong những năm qua, tuy chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ phát triển kinh tế khá cao, tỷ lệ tăng GDP bình quân 8,2% năm trong giai đoạn 1991-1995. Sản lượng lương thực đạt trên 29 triệu tấn (năm 1996). Song nhìn chung nguồn lao động chưa được sử dụng đầy đủ và có hiệu quả, bởi lẽ năng suất lao động xã hội còn thấp, tình trạng lao động nông thôn thiếu việc làm đang còn là phổ biến, đặc biệt là tỷ lệ lao động không có việc làm ở thành thị còn quá cao, khoảng 6,08% (năm 1994) đang là vấn đề bức xúc của xã hội. Do vậy, đi vào đánh giá trạng nguồn lao động của xã hội để có phương hướng và các giải pháp hợp lý nhằm sử dụng tốt nguồn tiềm năng to lớn này trong thời gian tới là một vấn đề hết sức cấp bách. 1-/ Số lượng nguồn lao động: Xuất phát từ đặc điểm dân số nước ta có cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ tăng tự nhiên còn cao, đặc biệt là tỷ lệ sinh con ở những năm 60-70 trước đây dẫn đến tình trạng số người bước vào tuổi lao động hàng năm khá cao và sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Trong giai đoạn 1981-1985, tỷ lệ tăng nguồn lao động của cả nước bình quân 2,87%, giai đoạn 1986-1990 là 3,06% và giai đoạn 1991-1995 tuy tốc độ tăng nguồn lao động đã giảm đi so với 10 năm trước đây những vẫn còn ở mức khá cao khoảng 2,78%, trong đó riêng khu vực thành thị tăng 3,47% năm. Đến năm 1995, nguồn lao động của cả nước có trên 40 triệu người trong đó nguồn lao động khu vực thành thị có trên 8,8 triệu người chiếm 22%, nguồn lao động khu vực nông thôn là 31,3 triệu người chiếm 78%. Trong giai đoạn 1991-1995, bình quân mỗi năm nguồn lao động tăng 1,05 triệu người. Trong đó riêng khu vực thành thị tăng 28,6 vạn người và ở khu vực nông thôn tăng trên 77 vạn người. Bên cạnh đó, nguồn lao động khu vực đô thị phân bố khá chênh lệch giữa các vùng và đặc biệt nguồn lao động tập trung với số lượng và tỷ lệ khá lớn tại 4 thành phố là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Năm 1994, riêng các thành phố này có khoảng 3.241,32 nghìn người chiếm xấp xỉ 40%, còn lại các thành phố, thị xác khác chiếm 60% nguồn lao động đô thị của toàn quốc. Nguồn lực lượng lao động tại chỗ, hàng năm có một lực lượng lao động đáng kể từ các vùng nông thôn vào các khu vực công nghiệp. Các đô thị tìm kiếm việc làm, đặc biệt từ khi chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường. Người lao động nông thôn và đô thị tìm việc và làm việc với nhiều dạng khác nhau và có xu hướng tăng nhanh. Một số vào theo mùa vụ nông nhân nông nghiệp, một số khác vào tìm và làm việc thường xuyên trong năm,... Đối với những lao động trẻ thì đa số họ mong muốn làm việc và định cư lâu dài tại các thành phố và các khu công nghiệp. Đến năm 1995, ước tính đã có hàng chục vạn người vào các đô thị tìm việc và làm việc, đó là một lực lượng đáng kể bổ sung vào nguồn lao động của khu vực đô thị. Trong đó, số lượng đáng kể nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh vào thời điểm cao nhất đã có khoảng 50 vạn, ở Hà Nội 13 vạn, Đà Nẵng, Hải Phòng khoảng 2 vạn người,... Vấn đề đặt ra là cần phải có các giải pháp để sử dụng tốt lực lượng lao động này vào việc phát triển kinh tế - xã hội của các đô thị và các khu công nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Theo kết quả dự báo dân số và nguồn lao động có 46,3 triệu người. Trong đó khu vực thành thị có 11,6 triệu và khu vực nông thôn có hơn 34,7 triệu người. Dự báo dân số và nguồn lao động giai đoạn 1996-2000 Đơn vị: nghìn người Khu vực 1996 1997 1998 1999 29000 Dân số cả nước 75.602,00 71.190,00 78.789,00 80.420,00 82.078,00 Tổng dân số trong tuổi lao động 41.253,00 42.478,21 43.739,88 45.068,88 46.376,53 % so với dân số 54,56 55,03 55,51 56,00 56,50 - Chia theo Nam, Nữ + Nam 20.444,98 21.064,94 21.703,69 22.361,80 23.044,49 % so với tổng số 49,56 49,59 49,12 49,65 49,69 + Nữ 20.808,02 21.413,27 22.036,12 22.677,08 23.392,04 % so với tổng số 50,44 50,41 50,38 50,35 50,31 - Chia theo thành thị, nông thôn + Thành thị 9.282,00 9.282,00 10.374,24 10.967,65 11.595,00 % so với tổng số 22,50 22,50 23,72 24,35 25,00 + Nông thôn 31.971,00 31.971,00 33.365,57 34.071,23 34.781,53 % so với tổng số 67,50 76,90 76,28 75,65 75,00 Trong giai đoạn 1996-2000, nguồn lao động của cả nước mỗi năm tăng 1,24 triệu người. Trong đó khu vực thành thị tăng 55 vạn, khu vực nông thôn tăng 69 vạn người. Với tiềm năng to lớn đó của nguồn lao động cần được sử dụng tốt để đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho dân cư cả khu vực thành thị lẫn nông thôn. 2-/ Chất lượng nguồn lao động: Chất lượng của nguồn lao động là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực - sức khoẻ, trí học, kỹ năng - chuyên môn kỹ thuật, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần. Người lao động Việt Nam có tính cần cù chịu khó thông minh sáng tạo, khả năng vận dụng và thích ứng nhanh. Đó là ưu thế nổi trội của nguồn lực Việt Nam những phẩm chất này thể hiện trình độ, năng lực trí tuệ của con người lao động Việt Nam rất phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý, công nhân nước ta có khả năng làm chủ được các loại hình công nghệ từ đơn giản đến phức tạp và hiện đại nhất. Theo đánh giá của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, lao động Việt Nam nhanh nhạy hơn nhiều nước khác trong khu vực. Tuy nhiên thực tế hiện nay chất lượng và trình độ tay nghề của người lao động nước ta còn hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nguyên nhân chính là đại bộ phận lao động Việt Nam chưa được đào tạo đầy đủ. Theo kết quả điều tra cho thấy công nhân có trình độ văn hoá cấp III chiếm 48,5%, trung cấp chuyên nghiệp chiếm 16,6%, đại học chiếm 5,7%, cao học chiếm 0,6%, trên đại học là 0,1% theo tỷ lệ người được hỏi, còn trong nông nghiệp chỉ có 7% trong số 75% lao động được đào tạo cơ bản. Trình độ học vấn của nước ta hiện nay đang là mối lo ngại. Hiện nay ở nước ta 88% dân số biết chữ, nhưng đang diễn ra quá trình tái mù chữ, nhất là các tỉnh miền núi (có số người mù chữ chiếm trên 70%), trong số đó trẻ em đến tuổi đi học chỉ có 45% trẻ em học hoàn chỉnh Cấp I. Nhiều năm qua tốc độ nâng cao dân trí ở nước ta hết sức chậm chạp. Năm 1979 số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên là 4,4, năm 1989 - sau 10 năm, con số đó mới chỉ nhích lên đến 4,5. Cùng với mặt bằng dân trí còn thấp, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như người có học vấn đại học và sau đại học đều đang còn ít. ở nước ta cứ một vạn dân thì có 20 người học đại học trong khi đó ở các nước trong khu vực con số này là 60 hoặc 80. Trong số cán bộ giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học, tỷ lệ người có học vấn phó tiến sỹ trở lên còn thấp, mới chỉ khoảng 12% so với tỷ lệ cần đạt là 30%. Điều đó có nghĩa là phải có quyết tâm rất cao, có chính sách đầu tư thật hữu hiệu mới sớm nâng cao được mặt bằng dân trí lẫn đỉnh cao dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0160.doc
Tài liệu liên quan