Đề tài Những giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản

Các khách hàng Nhật Bản hầu nhưchỉbiết đến các sản phẩm hải sản, dệt may gia

công, mây tre đan và gốm sứcủa Việt Nam, mà hầu nhưnhiều năm nay không thay đổi.

Đểxuất khẩu bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam cần sản xuất nhiều loại hàng hóa,

thay đổi cơcấu, chủng loại, mẫu mã mới có thểcạnh tranh được với các đối thủkhác trên

thếgiới. Mặt khác, các mặt hàng có hàm lượng chất xám, giá trịcao nhưcác mặt hàng

điện tử, các mặt hàng công nghệ, ngoài việc thu hút đầu tưnước ngoài, phải sửdụng nhân

công trong nước, sản xuất các phụkiện, linh kiện thay vì nhập khẩu từcác nước lân cận

nhưhiện nay, có nhưvậy mới mong nâng cao giá trịxuất khẩu của hàng Việt Nam.

pdf44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2010 cũng được đánh giá là tăng so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy Nhật Bản đã hoạt động rất tốt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa. CƠ CẤU NHỮNG NHÓM HÀNG NHẬP KHẨU CHÍNH 2009 Sinh viên tổng hợp từ Cơ quan Ngoại thương Nhật Bản JETRO Số liệu thống kê cho thấy so với cùng kỳ năm 2009, các mặt hàng thiết yếu góp phần thúc đẩy kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm của Nhật Bản cũng tăng khá mạnh như là nguyên liệu khoáng với kim ngạch 111.3 tỷ USD, tăng 38.3%, trong đó kim ngạch nhập khẩu của dầu thô lên đến 61 tỷ USD, tăng 54.4%; tiếp đến là nhóm hàng chất hóa học đạt 34.3 tỷ USD, tăng 27.6%; thực phẩm đạt 33.1 tỷ USD, tăng 5.9%; sản phẩm chế tạo đạt 34.1 tỷ USD, tăng 34.5%. Nhật Bản có rất ít tài nguyên thiên nhiên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông. Các khoáng sản như quặng sắt, đồng đỏ, kẽm, chì và bạc, và các tài nguên năng lượng quan trọng như dầu mỏ và than đều phải nhập khẩu. Địa hình và khí hậu Nhật Bản khiến người nông dân gặp rất nhiều khó khăn, và vì quốc gia này chỉ trồng cấy được một số cây trồng như lúa gạo, nên khoảng một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt hàng này là điểm mạnh của Việt Nam so với các nước khác trên thế giới tuy -18- nhiên do Nhật Bản có khá nhiều điều kiện, đạo luật trong việc hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước nên cơ hội vẫn chưa thực sự đến với ta. Đối tác thương mại xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Nhật Bản trong 7 tháng 2010 cũng vẫn là Trung Quốc với 82.7 tỷ USD, tăng 23.9% so với cùng kỳ năm 2009; tiếp đến là Hoa kỳ: 38.4 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; Australia: 23.7 tỷ USD, tăng 16.3%; Saudi Arabia: 20.7 tỷ USD, tăng 43.8% so với cùng kỳ năm trước. -19- II. Hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản Liên quan đến trao đổi hàng hóa song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản, số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy trong 6 tháng 2010 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước là 8.1 tỷ USD, tăng 26.0% so với cùng kỳ năm 2009. BẢNG 16 : TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM VỚI THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TỪ 2001 ĐẾN 6/2010 ĐVT: triệu USD, % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 6 tháng 2010 Xuất khẩu 2509.8 2437.0 2908.6 3502.4 4411.0 5240 6090 8538 6291.8 4089.6 Tốc độ tăng Tuyệt đội -65.4 -72.8 471.6 593.8 907.6 829 850 2248 -2246.2 570.2 Tương đối -2.54 -2.90 19.35 20.42 25.95 19.0 16.2 40.2 -26.3 16.2 Nhập khẩu 2183.1 2504.7 2982.1 3552.6 4093.0 4702 6189 8240 7468.0 4051.7 Tốc độ tăng Tuyệt đội -117.8 321.6 477.4 570.5 540.4 609 1487 2051 -772 1111.4 Tương đối -5.12 14.73 19.06 19.13 15.21 14.9 31.6 31.3 -9.4 37.8 Cán cân TM 326.7 -67.7 -73.5 -50.2 318.2 1168 -99 298 -1176.2 37.9 Tổng kim ngạch 4692.9 4941.7 5890.7 7055.0 8504.0 9312 12279 16778 13759.8 8141.3 Sinh viên tổng hợp từ Tổng cục Thống kê Liên tục trong 10 năm qua Việt Nam chủ yếu nhập siêu từ Nhật Bản, đỉnh điểm là năm 2009 với hơn 1 tỷ USD. Tuy nhiên nửa năm đầu 2010, tình hình trở nên khả quan hơn khi Việt Nam là một trong số ít các thị trường xuất siêu sang Nhật Bản với cán cân thương mại 2 chiều đạt 37.9 triệu USD. Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang Nhật Bản vẫn là những sản phẩm mà ta có lợi thế so sánh như : dệt may, thủy sản… Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu máy móc, hóa chất, chất dẻo, sắt thép… những mặt hàng này phục vụ một phần cho đời sống và cho quá trình cải tiến, đổi mới công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. -20- 1. Nhập khẩu BẢNG 17 : KIM NGẠCH NHẬP KHẨU MỘT SỐ HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM TỪ NHẬT BẢN Mặt hàng chủ yếu ĐVT Năm 2009 Lượng Trị giá (USD) Hàng thủy sản USD 24,575,118 Nguyên phụ liệu thuốc lá USD 35,808,601 Sản phẩm khác từ dầu mỏ USD 25,387,889 Hóa chất USD 124,718,751 Sản phẩm hóa chất USD 155,511,321 Phân bón các loại Tấn 191,137 25,746,189 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu USD 22,376,411 Chất dẻo nguyên liệu Tấn 128,353 222,248,168 Sản phẩm từ chất dẻo USD 339,338,607 Cao su Tấn 18,794 39,712,218 Sản phẩm từ cao su USD 57,418,121 Giấy các loại Tấn 32,474 33,380,773 Sản phẩm từ giấy USD 55,053,899 Xơ, sợi dệt các loại Tấn 5,712 14,185,028 Vải các loại USD 333,711,425 Nguyên phụ liệu dệt may, da, giày USD 118,233,494 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm USD 42,241,412 Sắt thép các loại Tấn 1,460,371 839,368,216 Sản phẩm từ sắt thép USD 255,030,614 Kim loại thường khác Tấn 33,415 117,535,427 Sản phẩm từ kim loại thường khác USD 37,418,354 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện USD 839,376,209 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác USD 2,289,461,371 Dây điện và dây cáp điện USD 88,702,034 Ô tô nguyên chiếc các loại Chiếc 7,216 176,049,488 Linh kiện, phụ tùng ô tô USD 394,754,084 Linh kiện, phụ tùng xe máy USD 71,978,719 Phương tiện vận tải khác và phụ tùng USD 113,624,907 Sinh viên tổng hợp từ Tổng cục Hải Quan -21- Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Nhật Bản như là: Máy móc, trang thiết bị, đồ điện, điện tử, ôtô, chất dẻo… Đây là thị trường nhập khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam. Hàng hoá Nhật Bản nhập khẩu về Việt Nam trong tháng 3/2010 tăng 30,71% về kim ngạch so với tháng 2/2010 và tăng 26,95% so với tháng 3/2009, đạt mức 713,8 triệu USD; đưa tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Nhật trong cả quí I/2010 lên 1,84 tỷ USD, tăng 31,54% so với cùng kỳ năm 2009. Sản phẩm máy móc, thiết bị, phụ tùng đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Nhật, riêng tháng 3/2010 đạt 209,53 triệu USD, chiếm 29,35%, tăng 34,87% so với tháng 2/2010, tăng nhẹ 5,87% so với tháng 3/2009; tính chung cả quí I/2010 nhập khẩu 525,82 triệu USD, chiếm 28,57% tổng kim ngạch, tăng 4,45% so với cùng kỳ năm 2009. Về mặt hàng xe máy nguyên chiếc, kim ngạch nhập khẩu chỉ ở mức thấp (4 triệu USD) nguyên nhân do Việt Nam đã có nhiều nhà máy của nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc..) xây dựng nhà máy ở Việt Nam, đáp ứng đủ nhu cầu nội địa cũng như phục vụ cho xuất khẩu Đứng thứ 2 về kim ngạch nhập khẩu là mặt hàng sắt thép, tháng 3 đạt 104,3 triệu USD, cộng cả quí I/2010 là 252,02 triệu USD, chiếm 13,69% tổng kim ngạch; thứ 3 là sản phẩm máy vi tính, điện tử quí I/2010 đạt 189 triệu USD, chiếm 10,27%. Mặt hàng đáng chú ý nhất về mức tăng trưởng là phân bón, trong tháng 3/2010 nhập khẩu 22.608 tấn, trị giá 3,6 triệu USD, tăng rất mạnh tới 25.020% về lượng và tăng 10.895,53% về kim ngạch so với tháng 2/2010. Tính chung cả 3 tháng nhập khẩu 75.118 tấn phân bón, trị giá 11 triệu USD, tăng 244,58% về lượng và tăng 288,94% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. Mặt hàng nhập khẩu sụt giảm mạnh nhất là xe máy nguyên chiếc, tháng 3/2010 chỉ nhập 7 chiếc, trị giá 36.400 USD, giảm 30% về lượng, tăng 31,17% về kim ngạch so với tháng 2/2010, nhưng giảm mạnh 97,93% về lượng và giảm 95,7% về kim ngạch so với tháng 3/2009; tính chung cả quí I/2010 nhập 45 chiếc, trị gía 0,17 triệu USD, giảm 94,42% về lượng và giảm 90,59% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. -22- Quí I/2010 nhập khẩu các mặt hàng từ Nhật hầu hết đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009, đứng sau mặt hàng phân bón là mặt hàng cao su (+207,43%); tiếp đến Linh kiện phụ tùng ô tô (+165,93%); Sản phẩm khác từ dầu mỏ (+148,29%); Sắt thép (+131,76%); Kim loại thường (+130,75%); Chất dẻo nguyên liệu (+105,18%); Sản phẩm từ cao su (+98,2%); Sản phẩm từ kim loại thường (+90,54%); Đá quí, kim loại quí và sản phẩm (+88,16%); Dược phẩm (+80,59%); Sản phẩm hoá chất (+72,38%)… Tuy nhiên, ngoài mặt hàng xe máy nguyên chiếc, còn có một vài nhóm mặt hàng nhập khẩu bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ như: Phương tiện vận tải phụ tùng (-89,09%); Gỗ và sản phẩm gỗ (-38,69%); Ô tô nguyên chiếc (-19,77%); Nguyên phụ liệu dược phẩm (- 16,69%); Vải (-9,37%); Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày (-1,14%). Trong tháng 3/2010, ngoài mặt hàng phân bón, còn có 2 nhóm mặt hàng tăng trưởng mạnh trên 100% so với tháng 2/2010, đó là: Phương tiện vận tải phụ tùng (+293,67%); Dược phẩm (+222,86%). Chỉ có 3 mặt hàng giảm kim ngạch so với tháng 2/2010 là: Nguyên phụ liệu dược phẩm (-60,72%); Sản phẩm từ giấy (-21,14%); Gỗ và sản phẩm gỗ (-13,8%). -23- 2. Xuất khẩu BẢNG 18 : KIM NGẠCH VIỆT NAM XUẤT THEO NHẬT BẢN THEO MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU 2009 Mặt hảng chủ yếu ĐVT Năm 2009 Lượng Trị giá (USD) Hảng thủy sản USD 760,725,464 Hàng rau quả USD 31,878,215 Hạt điều Tấn 870 3,879,162 Cà phê Tấn 57,450 90,312,416 Hạt tiêu Tấn 1,876 8,371,386 Gạo Tấn 4,166 1,725,516 Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc USD 21,283,182 Than đá Tấn 1,375,122 145,558,775 Dầu thô Tấn 1,021,540 480,116,943 Xăng dầu các loại Tấn 70,621 24,031,905 Quặng và khoáng sản khác Tấn 44,360 6,092,795 Hóa chất USD 30,562,555 Chất dẻo nguyên liệu Tấn 22,920 37,214,810 Cao su Tấn 8,749 15,900,209 Sản phẩm từ cao su USD 29,530,719 Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù USD 64,935,154 Sản phẩm mây, tre, cói và thảm USD 26,227,912 Gỗ và sản phẩm gỗ USD 355,366,244 Giấy và các sản phẩm từ giấy USD 49,961,374 Hàng dệt may USD 954,075,543 Giày dép các loại USD 122,473,697 Sản phẩm gốm, sứ USD 34,005,216 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm USD 41,141,298 Sắt thép các loại Tấn 1,597 4,556,492 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện USD 380,970,568 Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác USD 599,945,096 Dây điện và dây cáp điện USD 639,502,471 Phương tiện vận tải và phụ tùng USD 238,328,522 Sinh viên tổng hợp từ Tổng cục Hải Quan -24- Năm 2009, Việt Nam đã xuất khẩu 33 mặt hàng sang thị trường Nhật Bản, trong đó có 7 mặt hàng giảm kim ngạch chiếm 21,21% trong tổng số mặt hàng. Các mặt hàng giảm về kim ngạch đó là: dầu thô giảm 55,04% về lượng và 69,80% về trị giá đạt 102,6 triệu USD với trên 169 nghìn tấn; cà phê giảm 18,38% về lượng và giảm 15% về trị giá đạt 54,8 triệu USD và 35,8 nghìn tấn; sản phẩm gốm sứ: giảm 1,70% đạt 19,3 triệu USD; đá quý và kim loại quý giảm 37,65% đạt 17,4 triệu USD; xăng dầu các loại giảm 39,28% về lượng và giảm 63,29% về trị giá đạt 23,3 nghìn tấn và 13,8 triệu USD; hạt tiêu giảm 16,95% về lượng và giảm 10,17% về trị giá với trên 1 nghìn tấn và 4,6 triệu USD; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 26,17% về lượng và giảm 51,11% về trị giá đạt 3,8 nghìn tấn và 1,3 triệu USD. Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản từ đầu năm tới nay vẫn là hàng dệt may, dây điện và dây cáp điện, máy móc thiết bị dụng cụ, hàng thủy sản, phương tiện vận tải và phụ tùng… Theo số liệu của Hải quan, 7 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản đạt 4.15 triệu USD, trong đó các mặt hàng có kim ngạch cao nhất là thủy sản: 459.04 triệu USD, bánh kẹo và các sản phẩm ngũ cốc: 146.88 triệu USD, hàng dệt may: 580.48 triệu USD, gỗ và các sản phẩm từ gỗ: 229.75 triệu USD… Trong số các mặt hàng thì hàng dệt may là loại hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật. Tháng 7/2010, Nhật Bản đã nhập khẩu trên 99 triệu USD hàng dệt may từ thị trường Việt Nam, tăng 24,69% so với tháng 6, nâng tổng kim ngạch 7 tháng đầu năm lên 580,4 triệu USD chiếm 13,98% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, tăng 13,17% so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ hai và chiếm 12,24% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này, dây điện và dây cáp điện đứng sau hàng dệt may, đạt 508,2 triệu USD, tăng 83,25% so với cùng kỳ năm 2009. Đáng chú ý, sản phẩm từ cao su tuy đứng thứ 19 trong bảng xếp hạng về kim ngạch, nhưng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản lại tăng -25- trưởng cao nhất trong số các mặt hàng trong 7 tháng đầu năm 2010, tăng 199,95% đạt 30,8 triệu USD. Mặc dù Nhật Bản là một trong những nước nhập khẩu hàng đầu hàng hóa của Việt Nam, nhưng số liệu thống kê cho thấy, mỗi năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng 330 triệu USD hàng hóa mỗi năm, nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản chỉ vào khoảng 6 triệu USD, chỉ chiếm khoảng 1.8% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản. Các khách hàng Nhật Bản hầu như chỉ biết đến các sản phẩm hải sản, dệt may gia công, mây tre đan và gốm sứ của Việt Nam, mà hầu như nhiều năm nay không thay đổi. Để xuất khẩu bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam cần sản xuất nhiều loại hàng hóa, thay đổi cơ cấu, chủng loại, mẫu mã mới có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thế giới. Mặt khác, các mặt hàng có hàm lượng chất xám, giá trị cao như các mặt hàng điện tử, các mặt hàng công nghệ, ngoài việc thu hút đầu tư nước ngoài, phải sử dụng nhân công trong nước, sản xuất các phụ kiện, linh kiện thay vì nhập khẩu từ các nước lân cận như hiện nay, có như vậy mới mong nâng cao giá trị xuất khẩu của hàng Việt Nam. -26- III. Những điểm nổi bật của thương mại Việt Nam với Nhật Bản 1. Thành công và thuận lợi 1.1. Thành công: - Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng 25,4% so với cùng kỳ. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật Bản 7 tháng đầu năm 2010 đạt 4,1 tỷ USD, chiếm 10,78% trong tổng kim ngạch, tăng 25,44% so với 7 tháng năm 2009. - Các mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản từ đầu năm tới nay vẫn là hàng dệt may, dây điện và dây cáp điện, máy móc thiết bị dụng cụ, hàng thủy sản, phương tiện vận tải và phụ tùng… - Trong số các mặt hàng thì hàng dệt may là loại hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật. Tháng 7/2010, Nhật Bản đã nhập khẩu trên 99 triệu USD hàng dệt may từ thị trường Việt Nam, tăng 24,69% so với tháng 6, nâng tổng kim ngạch 7 tháng đầu năm lên 580,4 triệu USD chiếm 13,98% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, tăng 13,17% so với cùng kỳ năm ngoái. - Đứng thứ hai và chiếm 12,24% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này, dây điện và dây cáp điện đứng sau hàng dệt may, đạt 508,2 triệu USD, tăng 83,25% so với cùng kỳ năm 2009. - Đáng chú ý, sản phẩm từ cao su tuy đứng thứ 19 trong bảng xếp hạng về kim ngạch, nhưng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản lại tăng trưởng cao nhất trong số các mặt hàng trong 7 tháng đầu năm 2010, tăng 199,95% đạt 30,8 triệu USD. 1.2. Thuận lợi: Trong những năm qua, quan hệ thương mại và đầu tư song phương Việt - Nhật đã phát triển tích cực do chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc thúc đẩy thương mại: 1.2.1 Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (JVEPA): -27- - Hiệp định VJEPA, được xây dựng dựa trên các chuẩn mực của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thể hiện sự cân bằng về lợi ích và phù hợp với trình độ và năng lực thực hiện của mỗi bên. Theo đó, 94,53% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 87,66% kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sẽ được miễn thuế nhập khẩu (theo số liệu năm 2006). - Hiệp định cũng quy định một số chương trình hợp tác song phương quan trọng như xây dựng Trung tâm vệ sinh, an toàn thực phẩm, hài hoà tiêu chuẩn kỹ thuật, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác về nâng cao năng lực trong các lĩnh vực du lịch, quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, giao thông vận tải, sở hữu trí tuệ...v.v. - Khi hiệp định có hiệu lực thì it nhất 86% hàng nông lâm thủy sản và 97% hàng công nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế. Bởi thế, các DN XK đang nỗ lực tìm mọi cách tận dụng những lợi thế này - Sẽ có trên 7.000 mặt hàng VN khi đi vào Nhật thuế suất bằng 0% và rất nhiều mặt hàng nông sản, thủy sản, đồ nội thất... có thể thâm nhập thị trường này mà không vướng hàng rào kỹ thuật. Điều này đã khiến các DN chớp thời cơ tìm kiếm đơn hàng và bán hàng mới để đẩy mạnh XK sang thị trường giàu tiềm năng này. + Với ngành nông- lâm- thủy sản, theo Hiệp định, sẽ có ít nhất 86% hàng của Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế, trong đó mặt hàng tôm sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 1 - 2% ngay khi hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng chế biến từ tôm cũng được giảm mức thuế nhập khẩu. mặt hàng mực, bạch tuộc sẽ được hưởng mức thuế 0% sau 5 năm. Đặc biệt, thị trường này đang là khách hàng tiêu thụ tôm đông lạnh lớn nhất của Việt Nam, chiếm xấp xỉ 30% giá trị XK mặt hàng này với kim ngạch ước đạt khoảng 400 triệu USD/năm. Vì thế, nhiều DN sản xuất thủy sản đã khá vui mừng lên kế hoạch đẩy mạnh XK sang Nhật. => Đây sẽ là điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam đẩy mạnh thậm nhập thị trường này trong thời gian tới. + Nhóm ngành gỗ chế biến cũng có cơ hội lớn, bởi đây là thị trường lớn thứ ba đối với sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Từ đầu năm 2009 đến nay, các DN Việt -28- Nam đã lấy lại được vị thế của mình tại thị trường này. Trong khi xuất khẩu sản phẩm gỗ, đặc biệt là đồ nội thất bằng gỗ sang hầu hết các thị trường giảm thì xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản lại có xu hướng tăng khá bền vững. Việc thay đổi xu hướng tiêu dùng từ đồ nội thất cao cấp sang đồ nội thất hạng trung là cơ hội tốt đối với xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam. 1.2.2 Hiệp định thương mại tự do (FTA) Nhật Bản- ASEAN - Từ 1/12/2008, Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Nhật Bản và ASEAN chính thức có hiệu lực với Việt Nam, Lào, Myanmar và Singapore vì 4 nước này đã hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước. - Theo hiệp định, Nhật Bản sẽ bãi bỏ các biểu thuế đánh vào 93% danh mục hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN trong vòng 10 năm kể từ khi FTA có hiệu lực. Và 4 thành viên còn lại là Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar sẽ bãi bỏ thuế theo một lộ trình chậm hơn. Việt Nam đã tham gia vào các hiệp định thương mại tự do khu vực (FTA) và đặc biệt là FTA Nhật Bản- ASEAN, nhưng tác động của các hiệp định này đối với Việt Nam sẽ sâu sắc hơn trong những năm tới. - Đối với một số hiệp định mậu dịch tự do, thuế suất cam kết cắt giảm trong lộ trình 2006-2010 thực ra cao hơn thuế suất thông thường MFN (mức thuế tối huệ quốc dành cho các nước tham gia WTO). Đến năm 2010 mức thuế cam kết cắt giảm này bằng với thuế MFN và từ năm 2010 trở đi sẽ bắt đầu lộ trình cắt giảm sâu hơn nữa.Theo lộ trình, đến năm 2017 sẽ cắt giảm thuế với Nhật Bản (hiệp định ASEAN – Nhật Bản). Do đó, tất cả tác động về thuế trong các hiệp định thương mại tự do sẽ phát huy mạnh từ năm 2010 trở về sau, trong đó biên độ cắt giảm thuế trung bình từ 12% xuống 3-4%. - Những mặt hàng chính bị tác động mạnh sẽ là hàng tiêu dùng, may mặc, đồ gỗ, sản phẩm sắt, thép, máy móc và thiết bị. Do đó, mức độ cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng trên sẽ tăng lên. -29- Tóm lại, Việt Nam là một trong những nước hưởng lợi khá tốt từ các FTA mà ASEAN đã ký kết. Cụ thể, 27,8% giá trị hàng xuất khẩu của ta sang Nhật Bản đã được hưởng thuế suất ưu đãi theo AJCEP. 1.2.3 Công cụ Thuế quan: Là công cụ chính trong chính sách thương mại Nhật Bản. Tuy nhiên, đa số hàng nhập khẩu của Nhật Bản được miễn thuế hoặc áp dụng mức thuế quan thấp. Năm 2008, tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng. Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN) giảm xuống còn 6,1%. Gần 99% dòng thuế quan có giới hạn và hầu hết tỉ lệ thuế quan áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc MFN đều xấp xỉ với tỉ lệ MFN cho phép. Đồng thời, việc không đánh thuế theo giá hàng (non ad valorem duties) được coi là đặc điểm quan trọng trong chính sách thuế quan của Nhật Bản, đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp Tỉ lệ thuế quan ưu đãi được áp dụng đối với 141 nước đang phát triển và 14 vùng lãnh thổ thuộc Hệ thống ưu đãi chung GSP (General System of Preference). Năm 2007 chính phủ Nhật Bản đã mở rộng thêm danh mục các hàng hóa được hưởng mức trợ cấp ưu đãi tới 49 quốc gia kém phát triển, từ mức 86% tăng lên 98% đối với tất cả các hạng mục thuế quan. Các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ GSP Nhật Bản là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippin và Việt Nam. Tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng đối với các nước trong hệ thống GPS là 4,9% và đối với các nước đang phát triển là 0,5% . Tỉ lệ thuế quan trung bình trong các Hiệp định thương mại tự do dao động từ 3,3% (đối với Malaysia) và 3,9% (đối với Brunei). 1.2.4 Xu hướng tiêu dùng - Theo ước tính, chi tiêu của mỗi người Nhật năm 2007 dành cho quần áo là 155.200 Yên, tăng 1,2% so với năm 2006. Là một nước có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và nhập khẩu dệt may hàng đầu, Nhật Bản có sức ảnh hưởng lớn đến nhu cầu hàng hoá và dịch vụ của thế giới. Cụ thể hơn, Nhật như là một nhà tiêu thụ quần áo chủ chốt và tầm ảnh hưởng của xu hướng thời trang tại quốc gia này không thể phủ nhận. Nhật Bản chỉ đứng sau Mỹ về chi tiêu cho quần áo và nhu cầu về bông. Một vài thập kỷ gần đây, -30- hàng nhập khẩu luôn chiếm phần lớn trong tổng doanh số bán lẻ và tiêu dùng hàng may mặc tại Nhật. Nhập khẩu quần áo tăng trung bình 7,5% mỗi năm trong 2 thập kỷ qua. Khi quần áo nhập khẩu chiếm phần lớn trong doanh thu bán lẻ quần áo ngày càng tăng của Nhật thì thị phần của quốc gia xuất khẩu quần áo trong đó có Việt Nam sẽ tăng theo thời gian - Hàng hóa giá rẻ lên ngôi, hàng hiệu gặp khó: Những mặt hàng xa xỉ từng được coi là tiêu thụ phổ biến khắp nước Nhật trong những năm trước đó. Thế nhưng mọi chuyện có vẻ diển ra ngược lại trong những năm gần đây, hiện tượng người dân nước Nhật tiết kiệm, thắt chặt chi tiêu, không quan tâm đến những thương hiệu nổi tiếng mà chuyển hướng đến những loại hàng hóa bình thường với giá cả phải chăng. Các nhà phân tích, nhà kinh tế và người tiêu dùng đều cho rằng sự thay đổi này không phải là hiện tượng nhất thời mà sẽ kéo dài. Ngày càng có nhiều người trẻ ở Nhật, dù yêu thích thời trang, không còn thèm muốn các thương hiệu hàng cao cấp mà quay ra xài quần áo mua ở các cửa hàng đồ cũ đang mọc lên như nấm trên khắp nước Nhật. => Do đó,Việt Nam với lợi thế nhân công giá rẻ, chất lượng sản phẩm tốt, giá cả phải chăng… đây là một thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam lấn sâu vào thị trường Nhật Bản khi xu hướng tiêu dùng tại thị trường này, ngày một thay đổi. 1.2.5 Nguồn vốn viện trợ ODA Kể từ khi nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam vào năm 1992 đến nay, Nhật Bản luôn là nhà tài trợ lớn nhất. Đến nay, nguồn vốn ODA của chính phủ Nhật dành cho Việt Nam đạt hơn 1.400 tỷ Yên, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị. Thời gian qua, tiến độ giải ngân vốn ODA đã tăng tốc. Đặc biệt, Nhật Bản cũng là nhà tài trợ ODA không hoàn lại lớn nhất cho Bộ Tài chính Việt Nam thông qua 2 kênh: hỗ trợ trực tiếp và ủy thác qua Ngân hàng Thế giới (WB). Các hỗ trợ của Nhật Bản chủ yếu liên quan tới các lĩnh vực: cải cách quản lý tài chính công, cải cách và hiện đại hóa ngành Thuế, Hải quan... Trong đó, Nhật Bản đã hỗ trợ Bộ Tài chính Việt Nam 5 dự án với tổng giá trị tài trợ 25,84 triệu USD. 2. Khó khăn và thách thức: -31- 2.1 Nhật Bản thi hành chính sách giảm giá đồng Yên để thúc đẩy xuất khẩu. Chính sách này vô hình chung làm cho hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ của ta phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Đồng yen hiện giảm 1,3% so với các tiền tệ chính khác. Cụ thể, so với USD, yen đang được giao dịch ở mức 84,42 yen (giá ngày 15/09/2010) so với mức tỷ giá kỷ lục 82,88 yen một USD của ngày 14/09/2010 2.2 Hàng rào phi thuế quan của Nhật Bản: - Nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời bảo vệ các ngành sản xuất và chế biến trong nước, Nhật Bản áp dụng Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Chống gây nhiễm và kiểm soát các loại dịch bệnh, Luật Ngoại thương và Ngoại hối, Luật Thương mại với những quy định chặt chẽ, chỉ cho phép nhập vào Nhật Bản những loại thực phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm không gây hại cho sức khỏe của con người. Trong đó quy định rõ những loại thực phẩm không được phép nhập vào Nhật Bản bao gồm: (1) các loại thực phẩm chứa các thành phần độc tố hoặc có hại, hoặc bị nghi vấn có chứa các thành phần độc tố; (2) các loại thực phẩm bị thối rữa hoặc bị hỏng; (3) các loại thực phẩm không đáp ứng được tiêu chuẩn và đặc điểm kỹ thuật trong quá trình chế biến, công thức chế biến hoặc nguyên liệu chế biến; (4) các loại thực phẩm sử dụng chất phụ gia quá mức cho phép; (5) các loại thực phẩm không kèm theo các chứng từ chứng minh. - Một số mặt hàng thực phẩm còn phải đáp ứng đầy đủ các quy định kiểm tra nghiêm ngặt khác mới được nhập khẩu vào Nhật Bản như: không chứa các côn trùng gây bệnh hoặc có hại tới sức khỏe con người có trong thịt và cá tươi, các sản phẩm thịt chế biến như hamberger, xúc xích... trái cây, rau quả hoặc ngũ cốc. Nhà Xuất khẩu các sản phẩm này cũng phải chứng minh được rằng chúng không gây hại tới toàn bộ thực vật và động vật của Nhật Bản. Nhật Bản còn quy định giấy phép nhập khẩu đối với một số loài cá đánh bắt tại các vùng duyên hải và rong biến ăn được. Ngoài ra, còn có một số ít các mặt hàng nằm trong diện quản lý nhập khẩu theo quy định cua Luật Ngoại thương và Ngoại hối yêu cầu quota nhập khẩu, phải được đồng ý trước cua Bộ trưởng phụ trách chuyên ngành. -32- + Đối với mặt hàng tôm nhập khẩu vào Nhật bản: k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThi truong NB.pdf
Tài liệu liên quan