Đề tài Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong thời gian tới

Tuy nhiên kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007 thì các DNBH nhà nước phải tiến hành cổ phần hóa do đó không còn nhận được sự bảo hộ của Nhà nước và trong kinh doanh bảo hiểm, cũng sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa DNBH trong nước và DNBH nước ngoài vì khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chính phủ nhiều nước cùng với DNBH của họ cũng gây sức ép với Việt Nam để được hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là những DNBH nước ngoài đáp ứng đầy đủ mọi điều kiện được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Do đó gần đây, thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Các công ty này chiếm khoảng hơn 80% thị phần hàng xuất khẩu, và khoảng 50% kim ngạch hàng nhập khẩu. Còn lại là thị phần của công ty liên doanh và trong nước như đã nói ở trên. Đi đầu có thể kể đến: Công ty TNHH Bảo hiểm ACE; Công ty TNHH Bảo hiểm Phi nhân thọ AIG, Công ty Bảo hiểm Liberty; Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA

Với khả năng tài chính mạnh, các DNBH nước ngoài sẽ tìm mọi cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mãi, khuếch trương sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra họ còn có nhiều lợi thế như: có kinh nghiệm và uy tín lâu năm, dịch vụ chuyên nghiệp với các gói bảo hiểm toàn phần giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí, công tác giám định và bồi thường cũng được thực hiện nhanh chóng và mau lẹ từ đó chiếm được lòng tin của khách hàng và thị phần của họ ngày càng được mở rộng.

 

doc15 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm tra của nhà nước đối với thị trường bảo hiểm được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và qui định chính xác. Đối với bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng vậy, nó cũng phải tuân theo một hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành về kinh doanh bảo hiểm nhằm điều chỉnh các mối quan hệ đảm bảo cho thị trường bảo hiểm được vận hành một cách tốt đẹp nhất. Hơn thế nữa, phạm vi hoạt động giao nhận hàng xuất nhập khẩu bằng đường biển liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Nên môi trường luật pháp ở đây cần được hiểu là môi trường luật pháp không chỉ của quốc gia hàng hoá được gửi đi mà còn của quốc gia hàng hoá đi qua, quốc gia hàng hoá được gửi đến và luật pháp quốc tế. Chính sách thuế của nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Nếu nhà nước có chính sách thuế khuyến khích các hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp sẽ tham gia mạnh mẽ hơn trong viêc xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào việc cung cấp bảo hiểm vận chuyển hàng hóa. Còn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nếu được hưởng chính sách thuế ưu đãi thì sẽ góp phần làm tăng thêm thu nhập để nâng cao năng lưc cạnh tranh của mình với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài. Ngược lại, nếu chính sách thuế của chính phủ quá khắt khe thì sẽ ảnh hưởng nhiều tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và phần nào đó cũng sẽ ảnh hưởng tới việc cung cấp bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của các công ty bảo hiểm. Cơ chế quản lý kinh tế được coi là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sự phát triển của bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Trong thời buổi kinh tế thị trường với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế cùng với chính sách mở cửa giao thương quốc tế được khuyến khích đã tạo môi trường đầu tư thuận lợi không chỉ cho các doanh nghiệp trong nước mà cả các doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì vậy mà nhu cầu bảo hiểm cho các loại hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cũng tăng lên. Như vậy khi môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, cùng với những định hướng và chính sách phát triển kinh tế hợp lý của chính phủ sẽ góp phần làm cho loại hình kinh doanh bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển phát triển hơn. Bên cạnh đó, sự ổn định chính trị - xã hội của mỗi quốc gia không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho quốc gia đó phát triển mà còn là một trong những yếu tố để các quốc gia khác và thương nhân người nước ngoài giao dịch và hợp tác với tác với quốc gia đó. Vì khi mà chính trị - xã hội ổn định thì sẽ tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư khi thự hiện kinh doanh với quốc gia đó. MÔI TRƯỜNG CÔNG NGHỆ Mức độ phát triển công nghệ cũng ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển của bảo hiểm vận chuyển hàng hóa đường biển. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của kinh tế thì khoa hoc kỹ thuật của nước ta cũng có được sự phát triển mạnh mẽ. Quá trình nhập khẩu công nghệ hiện đại từ nước ngoài ngày càng tăng cùng với đó là sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong nước góp phần lớn vào sự phát triển của cả nền kinh tế. Để đảm bảo cho các hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ hơn thì hệ thống các cảng biển ngày càng được nâng cấp hiện đại, hệ thống các kho bãi cũng được mở rộng và nâng cao khả năng bảo quản, hệ thống cảnh báo bão được cải thiện....Hệ thống tàu thuyền cũng được cải thiện rất nhiều cả về mặt quy mô lẫn cơ sở vật chất, được trang bị các thiết bị hiện đại, hệ thống bảo quản chất lượng cao, sức chứa lớn, được cải thiện về tốc độ, khả năng chịu đựng ngày càng cao… Cùng với đó, công nghệ số phát triển cũng giúp cho các nhà bảo hiểm rất nhiều trong công tác quản lý và điều hành các hoạt động. Tuy nhiên, so với những nước khác thì chất lượng hệ thống tàu thuyền nước ta còn kém hơn rất nhiều cả về chất lượng tàu lẫn sức chứa, các cảng hoạt động chưa thực sự hiệu quả và vẫn còn tình trạng tắc ngẽn hàng hóa ở một số cảng, trong khi một số cảng lại hoạt động chưa hết công suất…đây chính là những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển ở nước ta. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm bên bờ tây của Biển Đông, giữ vị trí chiến lược về địa lý chính trị và địa lý kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có. Với bờ biển dài hơn 3260km trải dài từ Bắc tới Nam tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta trong việc giao lưu và hợp tác với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Cùng với đó Việt Nam nằm trong khu vực chiến lược về kinh tế nên sức hút đối với những nhà đầu tư nước ngoài là rất lớn làm cho tỉ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng lên. Nó không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói riêng mà còn thúc đẩy cả nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi đó thì khó khăn mà thiên nhiên mang lại cũng rất lớn. Với đường bờ biển kéo dài hàng năm nước ta gặp rất nhiều khó khăn khi phải đối mặt với bão lũ và thiệt hại do chúng mang lại. Không chỉ riêng gì nước ta theo thống kê kinh tế bảo hiểm toàn cầu cho thấy rằng hàng năm con người phải gánh chịu những thảm họa mà tự nhiên mang lại là rất lớn. Dù có đạt trình độ khoa học kỹ thuật cao thì các quốc gia đó vẫn không thể nào triệt tiêu được những rủi ro mà thiên nhiên mang lại. Chính vì vậy yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. II/ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN: Những tồn tại trong hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của các doanh nghiệp bảo hiểm ở VN: Lịch sử bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam đã có từ lâu. Tuy nhiên cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hóa XNK do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng trưởng không cao, có giai đoạn theo chiều hướng giảm xuống. Mặc dù được cho là nghiệp vụ mang lại lợi lớn cho doanh nghiệp bảo hiểm nhưng những năm gần đây, thị trường chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nước ngoài và bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng chưa mặn mà với hình thức bảo hiểm này. Thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Năng lưc cạnh tranh của các DNBH hàng hải ở VN còn kém: Bảo hiểm hàng hải không phải mới xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây mà đã có lịch sử phát triển ở nước ta gần 50 năm, tuy nhiên các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) Việt Nam dường như vẫn chưa nắm bắt được thị trường đầy tiềm năng này. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực cạnh tranh của các DNBH ở Việt Nam còn yếu kém, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại trừ số ít doanh nghiệp lớn như Bảo Việt, PVI, PJICO thì phần lớn công ty bảo hiểm khác trên thị trường chỉ vừa mới thành lập, vốn lại nhỏ, kinh nghiệm còn ít nên càng khó cạnh tranh. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp trong nước còn không có sự liên kết, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Thực trạng các doanh nghiệp bảo hiểm hàng hải Việt Nam đang ngấm ngầm cạnh tranh nhau bằng nhiều hình thức như: hạ phí bảo hiểm, bảo hiểm cho các tàu già quá tuổi sử dụng….bất chấp rủi ro cao ngày càng diễn ra nhiều hơn. Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm Loại  hình DNBH 2006 2007 2008 2009 6T/2010 Phi nhân thọ Trong nước 13 14 17 17 18 Nước ngoài 8 8 10 10 10 Nhân thọ Trong nước 1 1 1 1 1 Nước ngoài 5 8 9 9 9 Liên doanh - - 1 1 1 Tái bảo hiểm Trong nước 1 1 1 1 1 Nước ngoài - - - - - Môi giới Trong nước 5 5 6 6 6 Nước ngoài 3 3 4 4 4 Tổng số DNBH 37 40 49 49 50 Nguồn: Hiệp hội bảo hiểm Việt nam Bảng trên thống kê số lượng các DNBH trong nước. Ta thấy các DNBH phi nhân thọ trong nước cao gần gấp đôi so với nước ngoài và doanh nghiệp nào cũng có loại hình bảo hiểm hàng hóa nhưng thị phần này của các doanh nghiệp trong nước lại không cao. Bằng chứng là tính đến cuối năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước đạt 71,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 84 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu có mức tăng trưởng cao (tương ứng là 25,5% và 20,1% so với năm 2009) nhưng các DNBH Việt Nam mới chỉ bảo hiểm được khoảng 5% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu và 33% kim ngạch hàng nhập khẩu. Trong khi đó các công ty bảo hiểm nước ngoài chiếm khoảng hơn 80% thị phần hàng xuất khẩu, và khoảng 50% kim ngạch hàng nhập khẩu. Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam năm 2010 Năm 2010 Xuất Khẩu Nhập Khẩu Kim Ngạch 71,6 tỷ USD 84 tỷ USD DN Việt Nam bảo hiểm 5% 33% DN nước ngoài bảo hiểm Hơn 80% Khoảng 50% Tăng trưởng kim ngạch XNK(So với 2009) 25,5% 20,1% Trong 5% thị phần bảo hiểm cho hàng xuất khẩu và 33% cho hàng nhập khẩu thì nhóm công ty có thị phần dẫn đầu là Bảo Việt, Bảo Minh, PVI, PJICO đang chiếm khoảng 61%, nhóm tiếp theo gồm BIC, MIC, ABIC, Bảo Long, SamsungVina, VIA, UIC, SVIC chiếm khoảng 25,8% và các doanh nghiệp còn lại chiếm 13,2%. Ta thấy phần lớn thị phần trong lĩnh vực bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển chủ yếu vẫn nằm trong tay của các doanh nghiệp lớn như: Bảo Việt (Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam). PVI (Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam phát triển từ một công ty bảo hiểm nội bộ thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam - nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam - PVN). PJICO (công ty bảo hiểm Petrolimex thuộc Tổng công ty xăng dầu Việt Nam). Đây là các doanh nghiệp được thành lập từ các tập đoàn lớn được nhà nước bảo hộ có số vốn cao và có vị thế vững chắc trong thị trường. Điều đó cho thấy việc họ nắm giữ hơn một nữa thị phần bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là điều dễ hiểu. Trong năm 2010 vừa qua các DNBH có doanh thu cao trong lĩnh vực BHHH là Bảo Việt 310 tỷ đồng, PJICO 175 tỷ, P VI 103 tỷ, Bảo Minh 102 tỷ. Doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ của 5 doanh nghiệp dẫn đầu Hiện nay Bảo Việt - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam thuộc tập đoàn Tài chính Bảo Việt, đang dẫn đầu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa với doanh thu trong năm vừa qua là 310 tỷ đồng. Đây là doanh nghiệp có lịch sử hoạt động trong ngành bảo hiểm lâu đời với hơn 45 năm kinh nghiệm và được hình thành từ 100% vốn Nhà nước sau đó mới chuyển sang mô hình công ty cổ phần đa sở hữu vào năm 2007. Điều đó cho thấy lợi thế lớn nhất của các doanh nghiệp bảo hiểm lớn ở Việt Nam chính là sự bảo hộ của nhà nước. Tuy nhiên kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2007 thì các DNBH nhà nước phải tiến hành cổ phần hóa do đó không còn nhận được sự bảo hộ của Nhà nước và trong kinh doanh bảo hiểm, cũng sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa DNBH trong nước và DNBH nước ngoài vì khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chính phủ nhiều nước cùng với DNBH của họ cũng gây sức ép với Việt Nam để được hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là những DNBH nước ngoài đáp ứng đầy đủ mọi điều kiện được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Do đó gần đây, thị trường bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Các công ty này chiếm khoảng hơn 80% thị phần hàng xuất khẩu, và khoảng 50% kim ngạch hàng nhập khẩu. Còn lại là thị phần của công ty liên doanh và trong nước như đã nói ở trên. Đi đầu có thể kể đến: Công ty TNHH Bảo hiểm ACE; Công ty TNHH Bảo hiểm Phi nhân thọ AIG, Công ty Bảo hiểm Liberty; Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA… Với khả năng tài chính mạnh, các DNBH nước ngoài sẽ tìm mọi cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mãi, khuếch trương sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra họ còn có nhiều lợi thế như: có kinh nghiệm và uy tín lâu năm, dịch vụ chuyên nghiệp với các gói bảo hiểm toàn phần giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí, công tác giám định và bồi thường cũng được thực hiện nhanh chóng và mau lẹ từ đó chiếm được lòng tin của khách hàng và thị phần của họ ngày càng được mở rộng. Tập quán nhập CIF xuất FOB đã được hình thành từ lâu và khó thay đổi. Tập quán mua CIF bán FOB đã hình thành như thế nào? Một thời gian rất dài, khi Nhà nước còn độc quyền về bảo hiểm, hàng nhập khẩu vào nước ta chủ yếu là hàng viện trợ không hoàn lại, nên đều do hai công ty bảo hiểm là INGOSTRACKH của Liên Xô (cũ) và PICC Trung Quốc bảo hiểm. Giữa những năm 80 của thế kỷ trước, khi hàng viện trợ không còn, hàng nhập khẩu chủ yếu được mua bằng tiền vay nợ và điều kiện là giá CIF. Ý nghĩa của việc thay đổi tập quán nhập CIF xuất FOB ở Việt Nam Với hoạt động xuất khẩu theo điều kiện CIF, hàng hóa được chuyên chở bằng tàu trong nước và được công ty bảo hiểm trong nước bảo hiểm sẽ tạo nguồn thu ngoại tệ vì chi phí vận tải và phí bảo hiểm về thực chất được tính vào giá hàng và do phía nước ngoài trả. Nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của nước ta. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng, công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khẩu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F. Ảnh hưởng của tập quán mua CIF bán FOB đến thị phần bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước thường nhập hàng CIF (nhận hàng ở Việt Nam) và bán hàng FOB (bán ngay tại cảng). Vì vậy, việc mua bảo hiểm thường thuộc trách nhiệm của bên bán (nếu phía Việt Nam nhập) và bên mua (nếu Việt Nam xuất). Do đó các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam gần như hoàn toàn mất thị phần bảo hiểm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm xuất nhập khẩu. Đó là điều không có gì khó hiểu khi cả xuất khẩu và nhập khẩu, các thương nhân nước ngoài đều giành lấy quyền thuê tàu và giao hàng tại cảng Việt Nam. Khi quyền thuê tàu là của thương nhân nước ngoài thì quyền lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm hàng hóa tất yếu cũng thuộc quyền của thương nhân nước ngoài. Việc thương nhân nước ngoài tìm đến và mua bảo hiểm của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm Việt Nam cho hàng hóa của họ có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Hơn nữa trong hoạt động kinh doanh, khi và chỉ khi người kinh doanh coi việc bảo đảm hiệu quả kinh doanh cao nhất trong điều kiện pháp luật cho phép là mục tiêu thì họ mới kiên quyết và tìm mọi cách thay đổi tập quán đã lỗi thời, lạc hâu để thực hiện một phương thức mới với hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở nước ta, trong một thời kỳ dài, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều là doanh nghiệp nhà nước. Ở đó, hiệu quả kinh doanh cao hay thấp không phải là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với các giám đốc. Ngược lại, họ phải luôn luôn bảo đảm sự an toàn ở mức cao nhất. Do đó, làm ngược lại tập quán cổ truyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu là điều rất ít giám đốc doanh nghiệp nhà nước dám thực hiện. Những nguyên nhân nêu trên là cơ bản và đặc biệt quan trọng dẫn đến tình trạng kinh doanh xuất - nhập khẩu theo phương thức ngược với thông lệ quốc tế (nhập CIF - xuất FOB) và làm mất thị phần của kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực này. Có thể khắc phục tình trạng đó và từng bước lấy lại thị phần về bảo hiểm hàng hóa trong kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta được không? Chúng ta có thể làm được nhưng phải trong một thời gian khá dài. Bởi lẽ, không thể có bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào bắt buộc các doanh nghiệp phải "mua FOB, bán CIF" hay theo một phương thức nào khác. Công tác giám định bồi thường còn yếu kém. Giám định là một công việc hết sức phức tạp đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, đối tượng giám định là những lô hàng hoá xuất nhập khẩu có giá trị rất lớn, chủng loại hàng hoá rất đa dạng, có liên quan đến nhiều chủ thể, lĩnh vực và nhiều thông lệ, bộ luật của các quốc gia trên thế giới nên công tác giám định gặp rất nhiều trở ngại, việc xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất rất khó khăn, rủi ro gây ra tổn thất lại thường xuyên xảy ra nên đòi hỏi người thực hiện phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên ở Việt Nam hầu hết các công ty mới đi vào hoạt động trong lĩnh vực giám định không lâu nên trình độ và kinh nghiệm của các giám định viên còn hạn chế vì vậy công tác này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ của công ty. Do đó việc uỷ thác cho các tổ chức giám định trung gian, độc lập thực hiện công tác giám định khi có rủi ro gây ra tổn thất cho hàng hoá đang có xu hướng ngày càng gia tăng đối với hầu hết các công ty bảo hiểm của Việt Nam. Hiện nay nhiều công ty bảo hiểm đều có cơ chế phòng khai thác đồng thời làm giám định bồi thường trong phạm vi được phân cấp. Cộng thêm việc các công ty bảo hiểm mới chỉ đặt mục tiêu doanh thu lên hàng đầu mà chưa coi trọng hiệu quả khai thác dịch vụ. Điều này khiến cho các đơn vị khai thác tùy tiện giải quyết bồi thường cho khác hàng không theo qui định, hướng dẫn, thậm chí còn cố tình làm sai để giữ khách hàng cũng như thông đồng trục lợi bảo hiểm  Do vậy, vấn đề tổ chức quản lý nghiệp vụ giám định bồi thường phải đặt ra nghiêm túc và chặt chẽ nhằm mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh, chuyên nghiệp hóa dịch vụ và giảm thiểu hiện tượng trục lợi bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm nên tách bạch hoàn toàn bộ phận khai thác và bộ phận bồi thường như các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đã và đang chuyên nghiệp hóa các nghiệp vụ này. Một số các công ty của Việt Nam sau khi liên kết kinh doanh với nước ngoài cũng đã bắt đầu triển khai thay đổi mô hình quản lý theo mô hình của thị trường nước ngoài. Trong năm 2010 vừa qua thì các DNBH có tỷ lệ bồi thường cao trong lĩnh vực BHHH Năm 2010 ACE Bảo Long BV Tokio Marine Các DNBH còn lại Tỷ lệ bồi thường 657,1% 138,2% 32,7% 30% Ngoài ra bên cạnh công tác giám định bồi thường còn yếu thì một thực trạng đáng lo ngại nữa của bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam đó chính là phí hoa hồng. Theo quy định hiện hành, khi ký được hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được phép chi từ 2,5% - 12% hoa hồng (tùy loại hợp đồng) cho đại lý bảo hiểm hoặc tối đa không quá 15% cho doanh nghiệp môi giới. Những đối tượng khác như người không phải kinh doanh đại lý, môi giới bảo hiểm, khách hàng mua bảo hiểm, cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đều không được phép nhận chi trả hoa hồng.  Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay số lượng giao dịch bảo hiểm thông qua người hành nghề chuyên nghiệp (tức các đại lý và doanh nghiệp môi giới) còn rất thấp, chỉ khoảng 10%. Phần giao dịch còn lại chủ yếu do doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và khách hàng trực tiếp ký hợp đồng với nhau hoặc thông qua trung gian nào đó. Điều hết sức trớ trêu là khi giao dịch như vậy, khách hàng hoặc người trung gian vẫn đòi hỏi phải được chi hoa hồng, nếu không thì họ sẽ đi mua chỗ khác. Để giữ chân khách hàng, doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải chiều theo ý của “thượng đế”. Mà làm như vậy thì phải lách luật, tức là phải làm động tác giả bằng cách hợp thức hóa qua một đại lý nào đó, thậm chí là đại lý “dỏm” (dựng lên cho có) để rút hoa hồng ra, rồi chia lại số tiền đó cho khách hàng (không loại trừ lợi dụng việc này để người của doanh nghiệp bỏ túi riêng). Điển hình là vụ việc tiêu cực ở chi nhánh công ty bảo hiểm Bưu điện TpHCM khi lãnh đạo vào cán bộ chi nhánh này đã lập hồ sơ đại lý giả rút hoa hồng gần 9 tỷ đồng. Sau vụ án này, hàng loạt bài báo về “thị trường bảo hiểm nhuốm màu... hoa hồng” xuất hiện gây xôn xao dư luận. Có ý kiến cho rằng rằng đây là một trong những lý do khiến cho liên doanh bảo hiểm Allianz (Đức-Pháp) rút lui khỏi Việt Nam vì chính sách kinh doanh của họ không cho phép chi trả hoa hồng cho khách hàng. Phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cạnh tranh theo kiểu khác người như vậy nên việc canh tranh bằng chi trả phí hoa hồng cho các đại lý của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam không nhận được sự đồng thuận của đa số các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Phương thức cạnh tranh để giành thị phần như trên được xem là không lành mạnh bởi nó không những không giúp doanh nghiệp tăng chất lượng dịch vụ mà còn có thể làm hại chính doanh nghiệp vì làm trái pháp luật. III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI Sự cần thiết của việc mua bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển: Bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là một loại hình rất được ưa chuộng đặc biệt cho những doanh nghiệp có hoạt động mua bán hàng hóa trên biển trong và ngoài nước. Vì thế nó cũng đã được ra đời và phát triển từ rất sớm. Sự cần thiết của việc mua bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là: Trong quá trình vận chuyển, hàng hoá thường gặp nhiều rủi ro và tổn thất có thể bất ngờ không lường trước được, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Khi xảy ra sự cố, việc quy trách nhiệm và việc khiếu nại đòi bồi thường rất khó khăn, trách nhiệm của người chuyên chở cũng rất hạn chế. Mua bảo hiểm bảo vệ được lợi ích của doanh nghiệp khi có tổn thất và tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh. Mua bảo hiểm cho hàng hoá XNK là một tập quán thương mại quốc tế mà hầu như tất cả các nước đều áp dụng. Thực tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp mua bảo hiểm vận chuyển hàng hóa từ các nhà bảo hiểm trong nước cũng được nhiều phía lợi về mình. Điển hình như: Thứ nhất, các doanh nghiệp được giao dịch với người Việt Nam, tránh được phiền phức về rào cản pháp lý ,ngôn ngữ, địa lý. Thứ hai, hiện các nhà bảo hiểm trong nước có đủ năng lực để tư vấn cho khách hàng các thông tin tàu vận chuyển qua các mạng lưới hàng hải uy tín trên thế giới, tư vấn các chính sách đề phòng hạn chế tổn thất và hướng dẫn khiếu nại, lựa chọn điều kiện bảo hiểm ưu việt… Đặc biệt, khách hàng có thể nộp phí bằng đồng Việt Nam để giảm chi ngoại tệ nếu làm việc với nhà bảo hiểm trong nước. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Phát triển kinh doanh bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu có vai trò và tác động tích cực đối với nền kinh tế nói chung và lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng. Việc triển khai công tác này hiệu quả sẽ mang lại những lợi ích kinh tế lớn cho quốc gia như cán cân xuất nhập khẩu được cải thiện, nguồn vốn dự trữ bằng ngoại tệ được nâng cao, kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng khởi sắc hơn trên nhiều khía cạnh. Do đó,để nâng cao công tác kinh doanh bảo hiểm hàng hóa đường biển ở Việt Nam, cần phải có sự cải tiến tác động trên 3 đối tượng có mối liên hệ mật thiết như sau: Ngành bảo hiểm Việt Nam Nhà nước Việt Nam Công ty xuất nhập khẩu Việt Nam Ngành bảo hiểm Việt Nam Phải có chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ tinh thông kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại ngữ, hiểu luật pháp quốc gia, quốc tế, có nghệ thuật giao tiếp, ứng xử trước khách hàng. Đội ngũ công nhân viên tận tình chăm sóc, thường xuyên mở những buổi hội nghị khách hàng để tiếp thu ý kiến phản hồi và củng cố mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Cải tiến hoàn thiện các chính sách tiếp tục thu hút khách hàng tham gia như: chính sách chi chi phí giao dịch bán hàng, giảm phí bảo hiểm cho các khách hàng thường xuyên hay làm tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Phải đa dạng hóa sản phẩm, khai thác triệt để thị trường trong nước bằng cách triển khai các gói sản phẩm tốt, tích cực nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới bổ sung phục vụ nhu cầu của khách hàng như: bảo hiểm gián đoạn kinh doanh cho các hoạt động liên quan đến việc bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm thuê mua, bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần thực hiện công tác bồi thường nhanh chóng, thỏa đáng kết hợp với các mức phí được nghiên cứu một cách hợp lý cho các hợp đồng bảo hiểm vừa là để bảo đảm lợi ích và khuyến khích khách hàng mua bảo hiểm hay tái tục hợp đồng bảo hiểm với công ty. Hiểu được sự bất lợi tồn tại khi nước ta còn tiếp tục thực hiện tập quán ngược với thế giới trong kinh doanh xuất nhập khẩu “ Nhập CIF, Xuất FOB”.Doanh nghiệp bảo hiểm cần triển khai các phương án khắc phục tình trạng này như: ® Phải có chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm bằng các biện pháp như doanh nghiệp nhà nước có thể chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân hay công ty cổ phần hoặc dưới hình thức sáp nhập cho các công ty bảo hiểm nhỏ. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ tìm mọi phương án để thay đổi phương thức trong kinh doanh xuất nhập khẩu để đảm bảo hiệu quả kinh doanh tối đa. Khi các doanh nghiệp này hoạt động kinh doanh không có sự bảo hộ của Nhà nước, đi tiên phong thực hiện phương thức "mua FOB, bán CIF" như các thương nhân nước ngoài thì dần dần, các doanh nghiệp khác cũng thực hiện theo. ®Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam bằng việc quy hoạch phát triển một cách khoa học, hợp lý và đầu tư đủ mạnh cho việc nâng cấp lực lượng vận tải biển để đủ sức vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đi các nước trên thế giới và ngược lại với độ an toàn cao, giá cước hợp lý tạo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.doc
Tài liệu liên quan