Đề tài Những giải pháp thúc đẩy tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 1

Chương 1: Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc của Việt Nam trong quá trình phát triển 3

I. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế 3

1. Khái niệm chung 3

2. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế. 3

3. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế. 3

4. Tác động hai mặt của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến các nước đang phát triển. 3

5. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. 3

II. Sự cần thiết gia nhập tổ chức thương mại thế giới (-WTO-) của Việt Nam. 3

1. Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 3

2. Tổng quan về tổ chức thương mại thế giới - WTO. 3

3. Những lợi ích mà WTO đem lại cho Việt Nam. 3

Chương II. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 3

I. Thực trạng về hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam. 3

1. Những kết quả đạt được trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua. 3

2. Một số vấn đề đặt ra. 3

II. Định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế. 3

III. Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam 3

1. Quá trình đàm phán đa phương 3

2. Quá trình đàm phán song phương 3

IV. Cơ hội và thức thức của Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO 3

1. Cơ hội 3

2. Thách thức 3

ChươngIII. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO cho Việt Nam 3

I. Phương hướng của Chính phủ về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 3

1. Tổng quan kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và mở cửa 3

2. Phương hướng của Chính phủ về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 3

II. Những giải pháp từ phía Chính phủ (giải pháp vĩ mô) 3

1. Giải pháp hành chính 3

2. Các giải pháp về hệ thống tài chính- tiền tệ. 3

3. Các giải pháp về cải cách hệ thống tài chính- ngân hàng. 3

4. Cải cách doanh nghiệp nhà nước 3

5. Các giải pháp về cải cách nông nghiêp nông thôn. 3

6. Các giải pháp về mở cửa thị trường 3

II. Những giải pháp từ phía doanh nghiệp (giải pháp vi mô) 3

1. Giải pháp hội nhập đối với các doanh nghiệp Việt Nam 3

2. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam 3

Kết luận 3

Tài liệu tham khảo 3

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp thúc đẩy tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mạ đa phương và nhiều bên. (4) Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, đảm bảo thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, hiệp định thành lập WTO đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp dụng chung đối với các nước thành viên. (5) Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. b.3. Các nguyên tắc hoạt động của WTO Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng trên 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc; đãi ngộ quốc gia; mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng. (1) Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most Favoured Nation) Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đòng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự "đối xử ưu đãi nhất". (2) Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (Notional Treatment - NT), quy định tại Điều III hiệp định GATT, Điều 17 GAIS và Điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hóa cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung, có nghĩa là hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế quan hoặc được đằng ký bảo vệ hợp pháp phải được đối xử bình đẳng như hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định về mua bán, phân phối, vận chuyển. Đối với dịch vụ nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào trong danh mục cam kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền đàm phán đưa ra những ngoại lệ. Các nước về nguyên tắc không được áp dụng những hạn chế số lượng nhập khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại lệ quy định rõ ràng trong các hiệp định của WTO, cụ thể đó là các trường hợp mất cân đối cán cân thanh toán nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước, bảo vệ ngành sản xuất trong nước trống lại sự gia tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan hiếm một mặt hàng trên thị trường hợp mất cân đối cán cân thanh toán nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước; bảo vệ ngành sản xuất trong nước trống lại sự gia tăng đột ngột về xuất khẩu hoặc đối phó với sự khan hiếm một mặt hàng trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá nhiều, vì lý do sức khỏe vệ sinh và vì lý do an ninh quốc gia. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ thống thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là đảm bảo việc tuân thủ một cách nghiêm túc những cam kết về mở cửa thị trường mà tất cả các nước thành viên đã chấp nhận khi chính thức trở thành thành viên của WTO. (3) Nguyên tắc mở cửa thị trường. Nguyên tắc mở cửa thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính trị "tiếp cận thị trường" thể hiện nguyên tắc tự hóa thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, "tiếp cận thị trường" thể hiện nghĩa cụ có tính chất ràng buộc thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường mà nước này chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO. (4) Nguyên tắc cạnh tranh công bằng. Cạnh tranh công bằng (fair conpetion) thể hiện nguyên tắc "tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau" và được công nhận trong án lệ của Urugoay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một lượng hàng nhập khẩu. Tóm lại, theo quy định trong hiệp định thành lập, WTO đã khắc phục được những hạn chế của GATT trước đây: Thứ nhất, WTO là một tổ chức pháp nhân có tư cách chủ thể luật quốc tế tổ chức này có điều lệ hẳn hoi chứ không phải chỉ mang tính chất cộng đồng như GATT, các thành viên của nó có khả năng pháp định tất yếu khi WTO thực hiện chức năng của mình. Thứ hai, WTO có phạm vi hoạt động rộng lớn GATT, sự ra đời của WTO đã tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực là dệt may và hàng nông sản. Thứ ba, WTO có chức năng giải quyết tranh chấp hiệu lực hơn GATT, bởi thỏa ước khó có thể thực thi nếu không đạt được sự nhất trí. WTO đã khắc phục được những hạn chế nội tại của GATT đồng thời cũng mang lại cho các nước phát triển những quyền lực lớn hơn, có thể xóa bỏ được hiện tượng các nước phát triển áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp lỏng lẻo của GATT để chèn ép các nước đang phát triển ở một mức độ tương đối. Nói chung, so với GATT, WTO lớn mạnh hơn cả về lượng và chất phạm vi hoạt động của WTO bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế quyết định cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp đã được bổ sung cho phù hợp tình hình mới. Cho dù có sự khác biệt như thế, WTO vẫn theo đường lối của GATT để nhằm hạn chế những thiệt hại trong thương mại, cũng tương tự như IMF nhằm hạn chế những thiệt hại trong giao dịch về tài chính, làm giảm sút tính cạnh tranh. Sự ra đời của WTO vào ngày 01/01/1995 là bước vào dạo đầu cho triển vọng nhất thế hóa về ngoại thương ở tầm toàn thế giới trong tương lai. Có lẽ còn xa hơn để tiến hành khả năng hợp nhất về đơn vị thanh toán nhưng với bước phát triển như của WTO, thế giới sẽ tiến hành dần đến tầm vóc quy mô về hợp tác - liên kết và thống kê về kinh tế cho nhân loại trong thiên niên kỷ tới. 3. Những lợi ích mà WTO đem lại cho Việt Nam. a. Những lợi ích cho lĩnh vực nông nghiệp. Thương mại là hàng nông sản từ trước đến nay vẫn là lĩnh vực được bảo hộ cao trong chính sách thương mại của các nước phát triển thông qua trợ cấp cao cho nông dân trong nước, trợ giá cao cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nông sản thông qua thuế quan cao và các hàng rào phi thương mại… Theo Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) ước tính mức thuế quan trung bình đối với hàng nông sản trong WTO là 62%, trong khi đó đối với hàng công nghiệp chỉ 4%. Điều đó đã ngăn cản các nước đang phát triển xuất khẩu sang các nước phát triển. Trong khi đó nông phẩm lại là hàng xuất khẩu quan trọng của các nước đáng phát triển. Vấn đề thương mại hàng nông sản, vì vậy luôn là đối tượng xung đột giữa các nước đang phát triển và phát triển. Là một nước nông nghiệp và đặc biệt là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu gạo và thị trường đối với nông phẩm hơn vì các hạn chế về số lượng đối với gạo và nông phẩm sẽ được chuyển thành thuế và thuế phải cắt giảm theo Hiệp định nông nghiệp. Việt Nam sẽ có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Là một nước đang phát triển nghèo, theo Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam không phải đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu nông sản (trong khi đó các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 36% nguồn ngân sách dành cho trợ cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển nói chung phải cắt giảm 24% trong vòng 10 năm). Việt Nam cũng không bị yêu cầu cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (trong khi đó, các nước công nghiệp phải cắt giảm 20% mức hỗ trợ trong nước thời gian 6 năm, các nước đang phát triển khác là 13,3% trong vòng 10 năm). Tuy nhiên, nếu hàng hóa của Việt Nam là hàng hóa cạnh tranh, thì những sự miễn trừ nói trên sẽ bị loại bỏ trong vòng 8 năm. b. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may. Giống như nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước vòng đàm phán Urugoay, thương mại hàng dệt - may được điều chỉnh bằng Hiệp định đa sợi (MFA). Hiệp định này cho phép các nước được ký kết các hiệp định song phương hoặc tiến hành các hành động đơn phương để đặt ra hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt - may. Thực chất của Hiệp định đa sợi là một cơ chế hẹp hòi theo định hướng hạn ngạch do Mỹ và Châu Âu khởi xướng để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước của họ. Hàng dệt - may không những phải chịu mức thuế trong khoảng từ 15 đến 30% đối với hầu hết các sản phẩm, mà thậm chí còn tệ hơn là phải chịu hạn ngạch xuất khẩu. Hàng dệt - may cũng như nông sản là những hàng hóa mà các nước đang phát triển có thể sản xuất một cách hiệu quả nhất và chiếm phần lớn trong tổng xuất khẩu của họ. Bởi vậy, những rào cản mà các nước phát triển đặt ra đối với các nước đang phát triển rất bất lợi cho họ và cần phải được giảm dần đi. Tại vòng đàm phán Urugoay, Hiệp định về hàng dệt - may (ATC) đã được ký kết. Hiệp định này quy định rõ chương trình nhất thể hóa các sản phẩm dệt - may vào hệ thống thương mại đa biên. Việc thực thi Hiệp định này được tiến hành theo 2 tuyến. Thứ nhất, đưa một số sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại đa biên, và một khi các sản phẩm đã được nhất thể hóa thì không phải chịu sự hạn chế về số lượng nữa. Thứ hai, nới lỏng các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm còn lại. Chương trình này được triển khai trong vòng 10 năm. Hàng dệt - may là một trong những mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Hơn nữa, đây còn là mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh trong việc sử dụng nhiều lao động. Khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng những lợi thế do Hiệp định về Hàng dệt - may (ATC) tại vòng đàm phán Urugoay và không phải chịu các hạn chế MFA khi xuất khẩu Hàng dệt - may của mình sang các nước thành viên khác. c. Những lợi ích từ việc cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp. WTO là diễn đàn thương mại mà ở đó, mọi thành viên có quyền tự bảo vệ mình khi xảy ra tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, trong phạm vi GATT, có chế giải quyết tranh chấp có nhiều hạn chế. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) mới được thành lập trong WTO có nhiều ưu điểm. Đặc điểm chung của cơ chế này là tính thống nhất và chắc chắn. Trước hết, DSB khuyến khích và cho phép các nước thành viên đàm phán để đi đến một biện pháp hoà giải. Nếu thất bại, một Ban giải quyết tranh chấp sẽ được thành lập để phân xử và nhờ một cơ quan kháng án đưa ra quyết định cuối cùng (ủy ban Kháng nghị). Tất cả các phán quyết cuối cùng này phải được các bên có liên quan chấp thuận. Nếu kết quả giải quyết tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể áp dụng những biện pháp trả đũa. Việc thiết lập tòa án quốc tế này đã làm cho hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên được nâng cao rất nhiều. Nó đã đưa những luật lệ vào thế giới thương mại, một thế giới mà trước đây những nước yếu không đủ sức kháng cự lại những nước mạnh. Giờ đây, những nước yếu như Việt Nam có quyền thương lượng và khiếu nại một cách công bằng hơn với các cường quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ chung. d. Thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước. Công cuộc cải cách kinh tế ở nước ta được thực hiện từ năm 1986 trải qua hơn 15 năm, đã thu được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cũng còn rất nhiều vấn đề nan giải cần phải được giải quyết tiếp tục. Để tiếp tục đi sâu và đẩy mạnh cải cách trong nước, Việt Nam cần phải có động lực mới. Việc gia nhập WTO sẽ là động lực bên ngoài thúc đẩy mạnh mẽ cải cách trong nước. Bởi vì, việc thực hiện những cam kết và luật lệ của WTO sẽ củng cố mạnh mẽ và tăng tốc cải cách trong nước. Nhân tố WTO sẽ đưa cải cách trong nước phát triển mạnh mẽ đến mức mà những tác động trong nước sẽ khó mà có thể đạt được. Gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết áp dụng và giám sát hệ thống luật của mình theo các nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và đồng bộ. Gia nhập WTO, Việt Nam phải tăng cường thực hiện các cải cách kinh tế vĩ mô (trong chính sách tài chính và tiền tệ) để sao cho vừa đáp ứng được những yêu cầu của quá trình tự do hóa thương mại, vừa có thể tranh thủ được tối đa những lợi ích mà nó mang lại. Gia nhập WTO, Việt Nam phải thực sự khuyến khích và cho phép khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhằm tạo ra những lực lượng kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Như vậy, từ những đòi hỏi phát triển nền kinh tế theo xu hướng của nền kinh tế thế giới mà việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là điều tất yếu, hội nhập vào tổ chức nào? hội nhập ra sao? là vấn đề không phải là làm được ngay mà cần thiết phải có thời gian. Bên cạnh đó, từ cái nhìn tổng quan về tổ chức thương mại thế giới - WTO chúng ta nhận ra rằng gia nhập WTO là sự lựa chọn đúng đắn đối với Việt Nam. Gia nhập WTO sẽ mang lại lợi ích lớn cho đất nước. Phát triển mạnh mẽ thương mại, tăng cường thu hút FDI, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh cải cách kinh tế trong nước và xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh. Chính những điều đó mà chúng ta thây gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một sự cần thiết của Việt Nam. Gia nhập WTO, Việt Nam phải đứng trước những vấn đề gì? điều này sẽ được trình bày trong chương II "Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam". Chương II. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam I. Thực trạng về hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam. Trong hơn 15 năm đổi mới (1986 - 2002), đất nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên con đường hội nhập vào kinh tế thế giới. Đặc biệt là 5 năm gần đây, về tổng thể, Việt Nam đã tích cực, chủ động trong việc xúc tiến hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Những kết quả đạt được trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua. Từ năm 1993 đến nay chúng ta đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Ngày 25/ 07 /1995, nước ta gia nhập ASEAN, đồng thời từ 01/01/1996 chúng ta bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. Tháng 03/1996, nước ta đã tham gia diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 12/1994 ta gửi đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Về thị trường xuất nhập khẩu: hiện nay chúng ta đã mở rộng quan hệ thương mại với hơn 105 nước. Kim ngạch xuất khẩu từ 2,4tỷ USD năm 1990 đã tăng lên đến trên 15 tỷ USD năm 2001 và dự kiến đạt gần 17 tỷ USD vào năm 2002 thị trường xuất khẩu đã được đa dạng hóa. Về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cho đến nay, tổng số vốn đăng ký là 35,5 tỷ USD và vốn thực hiện trên 15 tỷ USD, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội. Về nguồn ODA: nhờ thực hiện tốt các cam kết về nghĩa vụ tài chính quốc tế và thực tiễn đổi mới đất nước có sức thuyết phục, nên các nguồn ODA của IMF, WB, ADB, Nhật Bản và từ các nhà tài trợ khác không chỉ được khai thông, mà còn gia tăng mạnh. Cho đến nay, tổng mức cam kết tài trợ là 13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn đã giải ngân cuối năm 1999 là gần 6 tỷ USD. Không ngừng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội nhập kinh tế quốc tế. + Ngày 15/12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ V, Việt Nam đã ký nghị định thư về việc thực hiện CEPT nhằm hoàn thành AFTA. Theo nghị định thư này, Việt Nam cam kết sẽ cắt giảm thuế quan nhập khẩu hàng hóa trong nội bộ các nước ASEAN xuống còn từ 0 - 85% trong vòng 10 năm từ 01/01/1996 đến 01/01/2006, đồng thời dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan nhằm thực hiện tự do hóa thương mại trong khu vực. + Đã ký Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN, và 2 Nghị định thư về thực hiện hiệp định này: ký hiệp định thành lập khu vực đầu tư ASEAN, thực hiện tự do hóa đầu tư với các nước trong khối vào năm 2010. + Luật thương mại ra đời (năm 1997) là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước, tạo thành hành lang pháp lý và những định chế pháp luật phù hợp nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh… Ta đã ký Hiệp định khung về quan hệ kinh tế với liên minh châu Âu (EU) do đó mở rộng thêm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang các nước này. Chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải tới các nước Tây Ban Nha, Cộng hòa Liên Bang Đức, Vương Quốc Hà Lan (từ 7 đến 16/10/2001) đưa quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước đó lên một tầm cao mới trong thế kỷ XXI, tương xứng với tiềm năng phong phú của hai bên, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Ngày 04/01/1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trả lời các câu hỏi của WTO về chế độ ngoại thương của Việt Nam và đã tiến hành các vòng đàm phán đầu tiên với Ban công tác của WTO về việc gia nhập của Việt Nam. Tháng 06/1996, Việt Nam bắt đầu đàm phán hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Ngày 13/07/2000 tại Oasinhtơn (Hoa Kỳ) ký hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đánh dấu bước phát triển quan hệ giữa hai nước. Như vậy, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế mở, đa dạng hóa, đa phương hóa. Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những kết quả đạt được về mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng quan hệ tín dụng, thu hút đầu tư trực tiếp, tiếp nhận chuyển giao công nghệ … đã đóng góp tích cực vào những thành tựu về kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, kết quả còn hạn chế, còn không ít vấn đề tồn tại đòi hỏi phải ra sức phấn đấu để khắc phục. 2. Một số vấn đề đặt ra. a. Về các quan điểm hội nhập. Chủ trương hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã được ghi trong nhiều văn kiện của Đảng, hơn nữa việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, việc gia nhập ASEAN - AFTA, APEC, ASEM… và việc tiến hành đàm phán để gia nhập WTO chứng tỏ Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn hội nhập vẫn tồn tại những ý kiến khác nhau trên một số khía cạnh như: giữa ý kiến hội nhập nhanh, không tính toán - với việc không tán thành hội nhập sợ hội nhập sẽ mất đi độc lập tự chủ nên quá dè dặt. Có người cho rằng hội nhập đem lại nhiều thuận lợi, không thấy hết những thách thức để có biện pháp ứng phó - có người quá nhấn mạnh những thách, từ đó nảy sinh tâm lý ngại hội nhập.. Nhận thức khác nhau đó dẫn đến hành động lúng túng, không nhất quán nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại, bao cấp. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương và thành phố lớn; cả nước chưa có kế hoạch tổng thể, dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và chưa thu hút được sự quan tâm, tham gia rộng rãi của các cấp, các ngành, các tầng lớp và các địa phương, doanh nghiệp… Đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại, tham gia quá trình hội nhập còn chưa đáp ứng yêu cầu về khả năng chuyên môn, ngoại ngữ, bản lĩnh thậm chí cả về phẩm chất, đạo đức, không nắm vững thực tiễn đất nước, ít hiểu biết về các tổ chức và luật pháp quốc tế, các đối tác và phương pháp đàm phán… b. Về xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu chưa đạt được mục tiêu của Đại hội VIII là tăng 28% về xuất khẩu và 24% về nhập khẩu (thời kỳ 1996 - 2000) kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người vẫn ở mức thấp nhất khu vực (khoảng 150 USD/người); tăng trưởng chưa vững chắc; cơ cấu hàng xuất khẩu chưa được cải tiến, hàng thô, hàng sơ chế vẫn còn chiếm tới 60%. Trong cơ cấu thị trường, châu á vẫn chiếm tỷ lệ cao 75,5% về xuất khẩu và 77% về nhập khẩu, khi khu vực rơi vào khủng hoảng thì nước ta cũng gặp khó khăn; mặt khác ta chưa tận dụng được các thị trường truyền thống, ngay cả đối với Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nga…chưa vươn ra được thị trường châu Mỹ, Trung Đông, châu Phi. c. Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Chưa có sự nhận thức thống nhất và nhất quán về đầu tư nước ngoài, chưa nhận thức được hết mức độ cạnh tranh gay gắt trong việc cạnh tranh thủ đầu tư nước ngoài. Công tác quy hoạch chưa tốt nên không cân đối giữa các ngành, lĩnh vực chưa tranh thủ được nhiều đầu tư nước ngoài về công nghệ cao cũng như cho nông - lâm - thủy sản, tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp. Cơ cấu đối tác chưa thật hợp lý, vốn đầu tư từ châu á chiếm trên 70%, trong đó ASEAN chiếm 25%, tỷ trọng đầu tư từ Tây Âu, Bắc Mỹ còn thấp, các nước G7 (trừ Nhật Bản) mới chiếm khoảng 12%). Trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của ta còn ít, chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất. Cán bộ làm việc trong các xí nghiệp liên doanh còn yếu kém về nhiều mặt, không bảo vệ được lợi ích của ta. Công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ còn thiếu và nói chung còn yếu. d. Về thu hút và sử dụng viện trợ phát triển chính thức (ODA). Giải ngân chậm, việc bố trí vốn đối ứng, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng kéo dài, thủ tục thẩm định dự án, đấu thầu dự án còn phức tạp, rườm rà. Trình độ cán bộ trong nhiều ban quản lý dự án yếu kém, công tác quản lý dự án thường bị buông trôi. e. Về du lịch. Chưa có đầu tư thích đáng cho du lịch, nên nhiều điểm du lịch chưa được nâng cấp, chủ yếu mới tận dụng thiên nhiên, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn. Công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền, quảng bá còn yếu, chưa tận dụng được mọi khả năng khai thác nguồn khách quốc tế, chưa hình thành được các tuyến du lịch liên hoàn khu vực. f. Các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ hướng ngoại khác như hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, tài chính tiền tệ, bảo hiểm… phát triển còn chậm. Với kết quả bước đầu của hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra một triển vọng đầy ý nghĩa đối với nền kinh tế của nước ta. Bên cạnh đó là những vấn đề còn tồn tại mà chúng ta cần khắc phục. Những điều này đòi hỏi, nhà nước ta phải có chủ trương xây dựng đường lối hội nhập một cách cụ thể, rõ ràng, thể hiện tính ưu việt của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế mở cửa như ngày nay. II. Định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế Ngày 27/11/2001, Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn Đảng toàn dân, liên quan toqí tất cả các nghành, các cấp, các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, là định hướng cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cuẩ nước ta trong thời kỳ mới. Việc Chính phủ thông qua chương trình hành động này nhằm tổ chức thắng lợi Nghị quyết của Bộ chính trị cũng như chủ chương của Đảng tại ĐH lần thứ IXvề hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, và vững chắc trong thế kỷ XXI. Do vậy cần nhận thức đầy đủ về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân… Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập này cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy, cần tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân để nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế, coi đó lazf nhu cầu bức xúc, vừa cơ bản và lâu làicủa nền kinh tế và quyết tâm của nhân dân ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tavs, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít khó khăn, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động,vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Thứ ba, cần nhận thức đầy đủ về đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển vàg các nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 cũng như các quy địmh của các tổ chức kinh tế q uốc tế để tiến hành xây dựng một chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các DN khẩn chương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm hội nhập có hiệu quả Thứ tư, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với nhu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100160.doc
Tài liệu liên quan