Đề tài Những luận cứ về khấu hao tài sản cố định

Đổi mới cách trích khấu hao cơ bản TSCĐ là nội dung quan trọng của cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về khấu hao trước khi Bộ Tài chính ra quyết định số 166 QĐ/BTC ngày 30/12/1999 còn tồn tại rất nhiều hạn chế. Quyết định số 166 đã sửa đổi và bổ sung nhiều thiếu sót và đã tạo ra được sự linh hoạt trong cách quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên vẫn còn những điều bất cập sau:

Thứ nhất: Trong cách phân loại TSCĐ và các tài sản khác của chế độ tài chính và kế toán nước ta quy định thống nhất giá trị của TSCĐ là phải từ 5 triệu đồng trở lên và có thời gian sử dụng ít nhất một năm, có những chỗ chưa hợp lý. Việc quy định như trên chỉ hợp lý khi tất cả các loại hình doanh nghiệp có quy mô như nhau, nhưng thực tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp tồn tại rất đa dạng dưới mọi hình thức, mọi quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những doanh nghiệp có quy mô lớn thì giá trị một TSCĐ là 5 triệu chỉ là một khoản chi phí nhỏ trong quy mô tài sản của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc trọng yếu của kế toán, họ có thể phân bổ chỉ một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh, thực tế đã có những doanh nghiệp khi đầu tư vào TSCĐ nhưng lại hạch toán như một loại vật liệu có giá trị nhỏ và phân bổ hết một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh.

 

doc20 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những luận cứ về khấu hao tài sản cố định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuy nhiên TSCĐ được đầu tư mua sắm để sử dụng lâu dài cho quá trình kinh doanh nên không thể xác định giá trị hao mòn như thế được. Nhận thức được hao mòn có tính khách quan như vậy nên khi sử dụng TSCĐ các doanh nghiệp phải tính toán và phân bố lại một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí kinh doanh trong từng kỳ hạch toán và đó là khấu hao TSCĐ. Mục đích của việc tính khấu hao TSCĐ là hết sức cần thiết, thông qua khấu hao doanh nghiệp có thể biết chính xác về chi phí sử dụng TSCĐ và thu hồi vốn để tái đầu tư TSCĐ khi chúng bị hỏng hóc. Như vậy khấu hao TSCĐ là một hoạt động trong quá trình sử dụng. Giữa hao mòn và khấu hao có mối quan hệ biện chứng, đó là mối quan hệ giữa chất và lượng đó là sự biến đổi lượng thành chất và ngược lại TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chúng vận động không ngừng và thường xuyên nên mọi sự biến hoá đều là sự đổi lượng thành chất, là kết quả của sự biến đổi về lượng của số lượng vận động - vận động bất kỳ dưới hình thức nào - sở hữu của vật chất thế ấy hoặc truyền cho vật thể ấy. Đơn giản vì chất và lượng trong mỗi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Tất yếu hao mòn TSCĐ được thể hiện qua khấu hao TSCĐ và khấu hao TSCĐ là sự biến đổi về lượng của sự hao mòn TSCĐ và ngược lại của khấu hao TSCĐ là tất yếu. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển tất yếu phải có vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn ở đây là vốn cố định và vốn lưu động để doanh nghiệp phát triển vững mạnh thì ta phải bảo toàn nguồn vốn. ở đây ta chỉ xét đến khía cạnh vốn cố định. Vốn dĩ TSCĐ là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh nên bảo toàn vốn cố định là vấn đề tất yếu mà phương pháp bảo toàn vốn chính là xác định đúng nguyên giá TSCĐ trên cơ sở tính đúng, tính đủ khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn TSCĐ để tạo nguồn và duy trì năng lực sản xuất của TSCĐ. Vậy việc hạch toán và tính đúng khấu hao TSCĐ là vấn đề tất yếu và là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử. Cũng như Ănghen viết rằng: “Nếu một hình thái vận động là do một hình thái vận động khác phát triển lên thì những phản ánh của nó tức là những ngành khoa học khác nhau, cũng từ một ngành này phát triển ra một ngành khác một cách tất yếu”. ở đây chỉ bàn đến khía cạnh sự vận động của hao mòn, là do sự vận động của TSCĐ phát triển trong một chừng mực nào đó thôi và sự vận động của TSCĐ được thể hiện qua cái chủ quan của nó. II. Nội dung và các quy định chung về khấu hao TSCĐ ở Việt Nam hiện nay. 1. Khái niệm chung: Khấu hao TSCĐ tồn tại là một sự phát triển tất yếu khách quan biểu hiện việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá TSCĐ vào chi phí kinh doanh của mỗi doanh nghiệp qua thời gian sử dụng của TSCĐ. Vậy muốn tính được đúng và đủ khấu hao TSCĐ trước hết ta cần phải hiểu rõ hơn thế nào là TSCĐ. Theo nghĩa thông thường thì TSCĐ trong các doanh nghiệp thường được hiểu là những tài sản có giá trị lớn và sử dụng lâu dài tại doanh nghiệp. Nhất thiết TSCĐ phải đảm bảo đủ điều kiện về thời gian phát huy tác dụng phải ít nhất một năm và có giá trị từ năm triệu VNĐ trở lên. Tuy nhiên để hiểu một cách chính xác hơn nữa về TSCĐ cho dễ dàng trong công việc hạch toán và quản lý TSCĐ cũng như dễ dàng cho việc tính và quản lý khấu hao TSCĐ thì ta xét TSCĐ theo hình thái mà nó biểu hiện. Theo hình thái biểu hiện TSCĐ được phân chia ra làm hai loại đó là TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Theo các khái niệm chung nhất thì TSCĐ hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu. Còn TSCĐ vô hình là những TSCĐ nhưng không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những quyền lợi về TSCĐ vô hình mà người chủ tài sản được hưởng có thể được chứng minh một cách hữu hình bằng các hoá đơn, khế ước hoặc các văn kiện liên hệ khác. Giá trị của TSCĐ tuỳ thuộc vào những quyền lợi hoặc lợi ích mà tài sản đó đóng góp và phần lợi tức của doanh nghiệp khi nó được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải ước tính khả năng có thể đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai của mỗi TSCĐ nào đều phải có giá trị của nó: đó là nguyên giá TSCĐ. Nguyên giá TSCĐ chính là cơ sở để tính khấu hao của tài sản thông qua thời gian sử dụng của nó. Vậy nguyên giá TSCĐ chính là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra để có TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ đi vào hoạt động bình thường như giá mua thực tế của TSCĐ, các chi phí vận chuyển bốc dỡ thuế và lệ phí trước bạ (nếu có),... Hiểu rõ về TSCĐ tính toán chính xác nguyên giá TSCĐ không những rất tiện lợi trong công việc bảo quản, sử dụng tài sản đó trong doanh nghiệp mà nó còn là cơ sở để việc tính và trích khấu hao TSCĐ được đúng đắn, chính xác. Nguyên giá TSCĐ là căn bản tính khấu hao. Tuy nhiên thực tế nguyên giá TSCĐ thường không ổn định do những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan mang lại. Chúng có thể bị hao mòn về vật chất, lạc hậu về kỹ thuật và hỏng hóc trong quá trình sử dụng. Những chi phí để tân trang lại một phần cũng được tính vào nguyên giá TSCĐ. 2. Vai trò của khấu hao TSCĐ. Ta có thể dễ dàng nhận biết rằng: trong quá trình đầu tư và sử dụng dưới tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện làm việc cũng như tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển TSCĐ bị hao mòn. Hao mòn được thể hiện dưới hai dạng: - Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng do bị cọ sát, bị ăn mòn, bị hư hỏng,... - Hao mòn vô hình: là sự giảm giá trị của TSCĐ do tiến bộ khoa học kỹ thuật đã sản xuất ra những TSCĐ cùng loại có nhiều tính năng với năng suất cao hơn và chi phí ít hơn. Để thu hồi lại giá trị hao mòn của TSCĐ người ta tiến hành trích khấu hao bằng cách chuyển dần giá trị hao mòn của TSCĐ vào giá trị sản phẩm làm ra. - Xét về phương diện kinh tế: khấu hao TSCĐ cho phép doanh nghiệp phản ánh được giá trị thực của tài sản, đồng thời làm giảm lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Bởi một phần giá trị hao mòn của TSCĐ đã được tính vào chi phí kinh doanh sản phẩm. - Xét về phương diện thuế khoá: khấu hao là một khoản chi phí trừ vào lợi tức chịu thuế, tức là được tính vào chi phí kinh doanh một cách hợp lệ. Thực tế các doanh nghiệp đó sử dụng khấu hao TSCĐ như một lưới chắn thuế, làm giảm phần thuế thu nhập phải nộp của doanh nghiệp. - Xét về phương diện tài chính: khấu hao TSCĐ chính là một phương tiện vô cùng hữu ích giúp doanh nghiệp thu lại bộ phận giá trị đã mất của TSCĐ trong thời gian sử dụng hữu ích của nó. Lợi dụng đặc điểm này nhiều doanh nghiệp đã sử dụng mọi phương pháp để khấu hao cả những TSCĐ đã khấu hao hết tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ và coi đó là một khoản vốn đã được thu hồi của TSCĐ làm tăng thêm nguồn tái đầu tư cho TSCĐ mới. - Xét về phương diện kế toán: khấu hao TSCĐ là việc ghi nhận giảm giá của TSCĐ. Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Việc lựa chọn này còn tuỳ thuộc vào quy định của Nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Nhưng chủ yếu phương pháp khấu hao được lựa chọn phải bảo đảm thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của từng doanh nghiệp. 3. Những quy định chung về trích khấu hao TSCĐ. Cũng như thông lệ của các nước trên thế giới việc trích khấu hao TSCĐ được tính toán trên cơ sở có hệ thống trong một thời gian hữu dụng của nó: đó là khoảng thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ vào mục đích hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường, phù hợp với các thông số kỹ thuật, kinh tế của TSCĐ và các tiêu thức khác có liên quan. Thông thường thời gian sử dụng của TSCĐ được xác định theo tiêu thức như: tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế, hiện trạng TSCĐ,... tuổi thọ kinh tế của TSCĐ,... Tuy nhiên đối với TSCĐ vô hình có những nét đặc thù riêng nên việc xác định thời gian sử dụng phải dựa theo những quy định và chế độ của luật pháp ban hành là từ 5 đến 40 năm. Đối với những TSCĐ vô hình vô hạn định về thời gian hữu ích thì không trích khấu hao trong thời gian sử dụng. Còn với những TSCĐ vô hình có thời gian hữu ích hạn định thì việc trích khấu hao được tính như khấu hao TSCĐ hữu hình khác. a. ở Việt Nam: theo văn bản hiện hành của Bộ Tài chính (Quyết định số 166 QĐ/BTC ra ngày 30/12/1999) về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam và tuỳ từng loại hình doanh nghiệp mà chế độ này là bắt buộc hay hướng dẫn thì được quy định như sau: - Thời gian sử dụng của từng TSCĐ của doanh nghiệp được thống nhất trong năm tài chính đúng theo quy chế hiện hành và đó là cơ sở để xác định chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Và nếu có sự thay đổi so với chế độ đã ban hành thì doanh nghiệp phải giải trình rõ căn cứ để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ Bộ Tài chính sẽ xem xét và quyết định trường hợp đặc biệt (như: nâng cấp hay tháo dỡ một hay một số bộ phận của TSCĐ) thì doanh nghiệp phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng và đăng ký lại thời gian sử dụng với cơ quan tài chính quản lý trực tiếp. Đối với TSCĐ hình thành bằng vốn vay và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không bị lỗ thì được phép xác định thời gian sử dụng TSCĐ theo thời gian trong khế ước vay, nhưng tối đa không được giảm quá 30% so với thời gian sử dụng tối thiểu của TSCĐ đã được quy định trong Quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 10/12/1999. - Mọi TSCĐ có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải trích khấu hao, mức trích được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ kể cả TSCĐ đang thế chấp, cầm cố cho thuê. Vì thực tế việc không trích khấu hao TSCĐ dùng trong hoạt động kinh doanh đều tạo ra những sai phạm trong trình bày báo cáo tài chính hàng năm vì đã không đưa ra một hình ảnh trung thực về tình hình tài chính doanh nghiệp. - Việc phản ánh tăng giảm TSCĐ được thực hiện tại thời điểm tăng giảm TSCĐ trong tháng. Nhưng việc tính khấu hao TSCĐ tăng, giảm trong tháng thì phải đến tháng sau mới bắt đầu tính hoặc thôi không tính khấu hao. - TSCĐ đã khấu hao hết mà vẫn được sử dụng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì không được trích khấu hao nữa vì toàn bộ phần nguyên giá của TSCĐ này đã được tính hết vào chi phí kinh doanh trong thời gian sử dụng hữu ích của nó. - TSCĐ chưa khấu hao hết nhưng do điều kiện khách quan đã bị hư hỏng phải xác định rõ nguyên nhân quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại và xử lý tổn thất theo các quy định hiện hành. Còn TSCĐ chưa khấu hao hết do hư hỏng phải thanh lý thì phần giá trị còn lại được xử lý thu hồi một lần và được coi như một nghiệp vụ bất thường. - Đối với các TSCĐ không tham gia vào hoạt động kinh doanh như: TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho phép doanh nghiệp được đưa vào lưu trú, bảo quản, điều động cho doanh nghiệp khác hoặc TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý giữ hộ TSCĐ phục vụ cho hoạt động phúc lợi (cho nhu cầu chung của toàn xã hội),... thì không phải trích khấu hao. - Đối với số khấu hao luỹ kế của TSCĐ các doanh nghiệp được sử dụng toàn bộ để tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ khi chưa có nhu cầu tái đầu tư lại TSCĐ, doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một vấn đề quan trọng nữa cần đề cập đó là phương pháp tính khấu hao TSCĐ. ở Việt Nam hiện nay theo quy định của Bộ Tài chính thì doanh nghiệp phải trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng hay phương pháp khấu hao bình quân. Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm của một TSCĐ được tính theo công thức: = x = x 100 Tuy nhiên công thức trên chỉ áp dụng để tính tổng mức khấu hao TSCĐ khi doanh nghiệp mới bước vào hoạt động hoặc tính khấu hao của những TSCĐ mới tăng, giảm trong kỳ. Thông thường việc tính tổng khấu hao TSCĐ trong một tháng nào đó được dựa vào tổng mức khấu hao của tháng trước đó: = + - b. Theo quy định quốc tế: Theo chuẩn mực kế toán quốc tế về TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình là IAS 16 và IAS 18. Theo IAS 16 và IAS 18 yêu cầu một bất động sản nhà nưởng đất đai, một tài sản vô hình phải được khấu hao trên cơ sở có hệ thống trong một thời gian hữu dụng của tài sản. Các phương pháp bao gồm: phương pháp khấu hao theo đường thẳng, khấu hao theo số dư giảm dần và phương pháp khấu hao theo đơn vị sản phẩm. Phương pháp khấu hao sử dụng phản ánh cách thức các lợi ích kinh tế của tài sản đó mà doanh nghiệp thu được và được áp dụng thống nhất qua các thời kỳ, trừ khi có một thay đổi cách thức giả định về việc tận dụng các lợi ích kinh tế phát sinh từ tài sản đó. Nếu cách thức đó không thể xác định một cách chắc chắn được thì doanh nghiệp sẽ khấu hao theo phương pháp đường thẳng. Nhìn chung chuẩn mực quốc tế thường không đi sâu vào một vấn đề cụ thể mà mang tính bình diện chung, phù hợp với mọi đối tượng áp dụng, nên các quy định đưa ra trên đây không thể áp dụng hoàn toàn vào tình hình nước ta được. Đơn cử việc sử dụng phương pháp khấu hao ở Việt Nam hiện nay thì chỉ sử dụng phương pháp đường thẳng để tính, đôi khi tạo ra sự cứng nhắc trong khi áp dụng theo thông lệ quốc tế thì việc sử dụng phương pháp nào ở doanh nghiệp là tuỳ thuộc những việc sử dụng phương pháp đó phải phản ánh được cách thức các lợi ích về mặt kinh tế tài sản đó mà doanh nghiệp thu được. Chính việc áp dụng linh hoạt này sẽ giúp cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc trích khấu hao vào trong chi phí kinh doanh phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tối đa khả năng sử dụng tính hữu ích của TSCĐ. ở Pháp, việc tính khấu hao TSCĐ người ta chia ra làm hai loại khấu hao đó là: - Khấu hao các TSCĐ bị giảm dần giá trị, trên thực tế giá trị các tài sản này được khấu hao, phân chia cho các niên độ theo kế hoạch khấu hao đã lập sẵn dựa vào tuổi thọ có thể của tài sản khấu hao này được hạch toán vào bảng tổng kết tài sản và tại báo cáo kết quả ghi vào chi phí kinh doanh. - Khấu hao ngoại lệ là phần khấu hao không tương xứng với nội dung bình thường của loại khấu hao vì giá trị bất động sản bị giảm dần nên tỉ lệ khấu hao ápd ụng có mục đích hưởng lợi về thuế đó là những chi phí đặc biệt. Khi tính khấu hao các TSCĐ bị giảm thì không có phương pháp nào phải nhất nhất theo và cũng chẳng phương pháp nào bị cấm đoán nhưng phương pháp được dùng phải đưa ra được con số ước đoán thoả đáng cho mức độ giảm giá trị của các tài sản có liên quan. Và tuỳ theo từng trường hợp mà áp dụng các hình thức khấu hao chia đều, khấu hao thay đổi, khấu hao tăng dần hay giảm dần. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao và định thời gian của một TSCĐ có thể khấu hao là một phán quyết, nằm trong quy định của luật pháp. Những TSCĐ được kế toán nhận biết một cách đầy đủ mới được giảm trừ trong thu nhập chịu thuế. Các phương pháp khấu hao trên được áp dụng một cách linh hoạt tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình đưa dần giá trị hao mòn của TSCĐ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Thúc đẩy doanh nghiệp tìm tòi mọi cách hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh trong vấn đề tận dụng tối đa khả năng hữu ích của TSCĐ của doanh nghiệp. Chương II Hạch toán khấu hao tài sản cố định I. Phương pháp tính khấu hao tscđ Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và tái sản xuất, vốn của các đơn vị sản xuất kinh doanh vận động không ngừng qua các giai đoạn khác nhau. Qua mỗi giai đoạn vận động, vốn không ngừng biến đổi cả về hình thái biểu hiện lẫn quy mô. Quá trình sản xuất là giai đoạn kết hợp giữa lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Như vậy quá trình này luôn tồn tại hai mặt đối lập là chi phí chi ra và kết quả thu được. Phần chi phí chi ra được biểu hiện dưới dạng công thức sau: C = V + C1 + C2 Nếu C là phần chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất thì : C1 là chi phí khấu hao tscđ. C2 là chi phí vật liệu, dụng cụ nhỏ. V là chi phí về lao động sống. Qua công thức trên, ta thấy rõ vai trò của chi phí khấu hao tscđ trong mỗi sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp. Vậy phương pháp tính chi phí khấu hao luôn được coi là công cụ hữu hiệu nhất để xác định phần hao mòn mà tài sản cố định chu chuyển vào trong sản phẩm. Trên thực tế, tồn tại ba phương pháp: Phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Phương pháp khấu hao giảm dần. Phương pháp khấu hao theo sản lượng. Mỗi phương pháp giả định một tài sản cố định sẽ tạo ra một dạng lợi ích nào đó về kinh tế. Sử dụng phương pháp nào là quyết định của mỗi doanh nghiệp. Ta hãy minh hoạ ba phương pháp khấu hao trên để thấy rõ tính lợi ích của chúng khi áp dụng: Phương pháp KH đường thẳng Phương pháp theo tổng số năm hữu dụng phương pháp bình quân nhân đôi theo số dư giảm dần 1. Phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Theo chế độ hiện hành, tất cả TSCĐ hiện có ở doanh nghiệp đều phải trích khấu hao. Theo phương pháp khấu hao đường thẳng, thì mức khấu hao phải trích bình quân một năm được tính như sau: = Nếu gọi [1/ thời gian sử dụng] là tỉ lệ khấu hao thì mức khấu hao được xác định như sau: Mức khấu hao = Nguyên giá TSCĐ x Tỷ lệ khấu hao Bình quân năm bình quân Theo quy định chung thì khấu hao TSCĐ được tính vào ngày 01 hàng tháng (nguyên tắc tròn tháng). Nên để đơn giản cho việc tính toán, Bộ tài chính quy định những TSCĐ tăng hoặc giảm trong tháng này thì tháng sau mới tính hoặc thôi tính khấu hao. Chi phí khấu hao sẽ là một thành phần trong tổng chi phí và được trừ vào doanh thu để xác định kết quả kinh doanh. Hao mòn TSCĐ sẽ được cộng dồn theo thời gian để điều chỉnh cho tài khoản TSCĐ. 2. Phương pháp khấu hao giảm dần. Phương pháp này có thể được thể hiện theo hai phương pháp sau : a. Phương pháp khấu hao bình quân nhân đôi theo số dư giảm dần. Cơ sở để tính mức khấu hao là tỷ lệ khấu hao xác định theo đường thẳng và giá trị còn lại của TSCĐ. Tỷ lệ khấu hao = Tỷ lệ khấu hao x 2 TSCĐ bình quân Mức khấu hao phải = Giá trị còn lại x Tỷ lệ khấu Trích năm thứ i của TSCĐ năm i hao TSCĐ b. Phương pháp khấu hao theo tổng số năm hữu dụng: Là cách xác định mức khấu hao giảm cho những năm sau, phương pháp này có quan điểm cho rằng TSCĐ khi còn mới sẽ phục vụ công suất cao và đem lại lợi ích nhiều hơn trong những năm đầu kinh doanh, nên số khấu hao này phải nhiều hơn vào năm đầu. Phương pháp này đòi hỏi phải tính tỷ lệ khấu hao cho từng năm sử dụng của TSCĐ: Tỷ lệ khấu hao = 2 x ( T – Ti + 1) TSCĐ năm thứ i T x (T + 1) Trong đó : T là thời gian hữu dụng của TSCĐ. Ti là thời điểm cần tính khấu hao. Vậy ta có công thức: Mức khấu hao = Nguyên giá x Tỷ lệ khấu hao TSCĐ năm thứ i TSCĐ năm thứ i c. Phương pháp khấu hao theo sản lượng. Phương pháp khấu hao này tính toán trên cơ sở số lượng sản phẩm dự kiến sản xuất được trong thời gian hữu dụng của TSCĐ. Phương pháp này quan tâm đến sản lượng hơn là thời gian được phổ biến trong các doanh nghiệp mà tình hình hoạt động biến đổi theo từng năm. Từ mức sản lượng thực tế sản xuất, khi sử dụng tài sản để xác định mức khấu hao phải trích hàng năm: Mức khấu hao TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ tính cho một đơn vị sản phẩm Tổng sản phẩm dự kiến Mức khấu hao TSCĐ = Sản lượng sản x Mức khấu hao trích hàng năm phẩm thực hiện tính cho một đơn vị sản phẩm Qua ba phương pháp tính khấu hao TSCĐ trên cho thấy rằng dù sử dụng bất kì phương pháp nào thì tổng giá trị các mức khấu hao là như nhau. Tuy nhiên phải hiểu rằng khấu hao không phải là quá trình đánh giá lại tài sản và giá trị còn lại của TSCĐ không phải là giá trị thực tế trên thị trường. Thực tế khấu hao chỉ là sự phân bổ giá trị chi phí sử dụng tài sản và không phản ánh các biến đổi theo giá cả thị trường. II. Tài khoản và phương pháp hạch toán khấu hao TSCĐ. a. Tài khoản. Tài khoản kế toán là cách thức phân loại và hệ thống hoá các loại tài sản và các nghiẹp vụ kinh tế phát sinh theo nội dung kinh tế. Nói cách khác, tài khoản kế toán là phương tiện để tóm tắt tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ảnh hưởng tới một khoản mục tài sản, vốn chủ sở hữu. Vậy để theo dõi tình hình hiện có biến động tăng, giảm của khấu hao TSCĐ, kế toán sử dụng tài khoản 214 “hao mòn tài sản cố định”. Bên cạnh đó, kế toán còn sử dụng TK 009 “nguồn vốn khấu hao cơ bản” để theo dõi tình hình biến động, hình thành và sử dụng số vốn khấu hao cơ bản TSCĐ. Kết cấu TK 214 như sau: TK 214 “khấu hao TSCĐ” Nợ Có Giá trị hao mòn Giá trị hao mòn TSCĐ TSCĐ giảm do các tăng do trích khấu hao lý do giảm TSCĐ TSCĐ, do đánh giá lại (thanh lý, nhượng TSCĐ. bán,...) Số dư luỹ kế Giá trị hao mòn TSCĐ hiện có tại doanh nghiệp b. Phương pháp hạch toán. Định kỳ ( tháng, quý) trích khấu hao TSCĐ và phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh Nợ TK 627 ( 6274 – chi tiết phân xưởng ): Khấu hao TSCĐ sử dụng ở phân xưởng bộ phận sản xuất. Nợ TK 641 ( 6414 ): Khấu hao TSCĐ sử dụng cho tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Nợ TK642 ( 6424 ): Khấu hao TSCĐ dùng chung cho toàn doanh nghiệp. Có TK 214 ( chi tiết tiểu khoản ): Tổng số khấu hao phải trích trong kỳ Đồng thời phản ánh tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản – ghi đơn vào bên Nợ TK 009. Số khấu hao phải trích, phải nộp cho ngân sách hoặc cấp trên. Kế toán ghi: Nợ TK 411 : Nếu không được hoàn lại. Nợ TK 136 : Nếu được hoàn lại. Có TK 336 : Số phải nộp Đồng thời kế toán ghi giảm nguồn vốn khấu hao cơ bản bằng cách ghi Có TK 009. Trường hợp TSCĐ chưa khấu hao hết nhưng phải thanh lý, nhượng bán phần giá trị còn lại chưa thu hồi được phải được tính vào chi phí bất thường : Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế. Nợ TK 821 : Giá trị còn lại của TSCĐ Có TK liên quan (211,213) nguyên giá TSCĐ Với TSCĐ đi thuê tài chính, khi hết hạn thuê phải trả mà chưa trích đủ khấu hao thì giá trị còn lại của TSCĐ thuê ngoài phải tính vào chi phí chờ phân bổ ( nếu giá trị lớn ) hoặc phân bổ hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ nếu giá trị nhỏ. Nợ TK 214(2142) : Giá trị hao mòn luỹ kế Nợ TK 142 : Giá trị còn lại Có TK 212 : Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính Các trường hợp khác làm giảm giá trị hao mòn TSCĐ như giảm TSCĐ do chuyển thành công cụ, dụng cụ nhỏ hay do góp vốn liên doanh bằng TSCĐ… Cụ thể: Giảm hao mòn do TSCĐ chuyển thành công cụ, dụng cụ nhỏ Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế Nợ TK 627,641, 642: Giá trị còn lại Có TK 211, 213 : Nguyên giá TSCĐ Giảm do góp vốn liên doanh bằng TSCĐ. Nợ TK 214 :Giá trị hao mòn luỹ kế Nợ TK 222,128 :Giá trị vốn góp liên doanh dài hạn, ngắn hạn Nợ (có) TK 412 : Chênh lệch đánh giá lại tài sản Có TK 211, 213 : Nguyên giá TSCĐ Giảm do trả lại TSCĐ cho các bên liên doanh. Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế Nợ TK 411 : Giá trị còn lại Nợ(có) TK 412 : Chênh lệch đánh giá lại tài sản Có TK 213, 211 : Nguyên giá TSCĐ Giảm TSCĐ trong kiểm kê. Nợ TK 214 : Giá trị hao mòn luỹ kế Nợ TK 1381 : Giá trị thiếu chờ xử lý Có Tk 211 : Nguyên giá TSCĐ Ngoài ra, đối với TSCĐ vô hình khi đã trích đủ khấu hao phải ghi bút toán xoá sổ TSCĐ. Nợ TK 214( 2143) : Giá trị hao mòn luỹ kế Có Tk 213 : Nguyên giá TSCĐ Chương III Thực trạng ở việt nam hiện nay, giải pháp và kiến nghị I. Thực trạng ở Việt Nam hiện nay Đổi mới cách trích khấu hao cơ bản TSCĐ là nội dung quan trọng của cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về khấu hao trước khi Bộ Tài chính ra quyết định số 166 QĐ/BTC ngày 30/12/1999 còn tồn tại rất nhiều hạn chế. Quyết định số 166 đã sửa đổi và bổ sung nhiều thiếu sót và đã tạo ra được sự linh hoạt trong cách quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên vẫn còn những điều bất cập sau: Thứ nhất: Trong cách phân loại TSCĐ và các tài sản khác của chế độ tài chính và kế toán nước ta quy định thống nhất giá trị của TSCĐ là phải từ 5 triệu đồng trở lên và có thời gian sử dụng ít nhất một năm, có những chỗ chưa hợp lý. Việc quy định như trên chỉ hợp lý khi tất cả các loại hình doanh nghiệp có quy mô như nhau, nhưng thực tế trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp tồn tại rất đa dạng dưới mọi hình thức, mọi quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những doanh nghiệp có quy mô lớn thì giá trị một TSCĐ là 5 triệu chỉ là một khoản chi phí nhỏ trong quy mô tài sản của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc trọng yếu của kế toán, họ có thể phân bổ chỉ một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh, thực tế đã có những doanh nghiệp khi đầu tư vào TSCĐ nhưng lại hạch toán như một loại vật liệu có giá trị nhỏ và phân bổ hết một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh. Còn đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì giá trị một tài sản nhỏ hơn 5 triệu cũng là một chi phí lớn. Nên chăng chế độ khấu hao của Bộ Tài chính có quy định riêng giá trị TSCĐ đối với những loại doanh nghiệp này. Thứ hai : Phương pháp khấu hao đường thẳng được áp dụng một cách thống nhất cũng chưa hợp lý vì những lý do sau: TSCĐ trong doanh nghiệp được chia làm nhiều nhóm, nhiều loại, công dụng của tài sản cũng như cách thức phát huy tác dụng của t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1192.doc
Tài liệu liên quan