Đề tài Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và phương hướng giải quyết

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN-I: 2

QUY LUẬT MÂU THUẪN VÀ 2

KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 2

1.1> Quy luật mâu thuẫn: 2

2.2> Mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường: 3

PHẦN I: 3

NHỮNG MÂU THUẪN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT 3

1.> Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VIỆT NAM tồn tại những mâu thuẫn cơ bản sau 3

2.> Một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của kinh tế Việt Nam do những mâu thuẫn trên đem lại: 3

KẾT LUẬN 3

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3

MỤC LỤC 3

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4900 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và phương hướng giải quyết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế thị trường ở Việt Nam phải được xây dựng trên nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, có cơ sở vật chất, kĩ thuật ngày càng hiện đại dưới sự quản lí của nhà nước. Nhà nước phải có điều tiết kinh tế, sự điều tiết, quản lí của nhà nước phải tuân theo những nguyên tắc thích hợp với kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình mỗi người dân được bình đẳng về kinh tế, chính trị xã hội. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với QHSX mới, phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối” (1) - V.I. Lênin đã bảo vệ và phát triển các ngành nguyên lý cơ bản về nền kinh tế XHCN của Cácmác và Ăngghen, Lênin đã đưa ra một số nguyên lý cơ bản sau: Thứ nhất: Trong giai đoạn CNXH, nền kinh tế XHCN được xây dựng trên cơ sở công hữu xã hội về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Theo Lênin đây là hình thức sở hữu cao nhất, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, nó phản ánh quan hệ sản xuất XHCN. Thứ hai: Trên cơ sở xác định nền tảng của CNXH Lênin đã khẳng định mục đích của nền sản xuất XHCN là nhằm thoả mãn phúc lợi vật chất đầy đủ cho toàn xã hội và sự phát triển tự do, toàn diện của mỗi thành viên của nó. Muốn vậy, cần phải phát triển toàn diện lực lượng sản xuất mở rộng và hoàn thiện nền sản xuất XHCN trên cơ sở thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Thứ ba: Lênin hoàn toàn nhất trí với Cácmác và Ănghen về nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân dưới CNXH là phân phối theo lao động và coi đó là nguyên tắc cơ bản của CNXH. Lênin đã chỉ ra hai nguyên tắc phân phối đó là: Người nào không làm thì không có ăn và với số lượng lao động ngang nhau thì hưởng số lượng sản phẩm như nhau. Đó là các cơ sở của tồn tại XHCN. Thứ tư: Lênin đã chỉ ra là cần phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ hoạch toán kinh tế nhằm để nâng cao năng xuất lao động kiểm tra mức cống hiến, mức hưởng thụ của người lao động đảm bảo lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhằn tạo vốn tích luỹ để phát triển kinh tế. Thứ năm: Một nguyên lý cơ bản để tổ chức nền kinh tế quốc dân XHCN là quản lý có kế hoạch, tập trung, thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thứ sáu: Nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt, trong điều kiện CNXH nhà nước không còn là bộ máy ăn bám mà nó thực hiện chức năng quản lý kinh tế quốc dân. Thứ bảy: Nền kinh tế XHCN phải được tổ chức theo kiểu sản xuất hàng hoá nó phải vận động theo các quy luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, biết sử dụng tốt quan hệ hàng – tiền và các phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá để thực hiện mục đích phát triển của CNXH. Theo các quan điểm trên của Lênin về kinh tế XHCN thì có thể hiểu nền kinh tế XHCN trước hết phải là nền kinh tế phát triển, năng động, sáng tạo, đổi mới liên tục không ngừng về khoa học kỹ thuật. Nền kinh tế XHCN phải là nền kinh tế có sự tập trung, quản lí chặt chẽ của nhà nước, nền kinh tế phải luôn luôn vận động, biến đổi theo các quy luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Mục đích lâu dài của CNXH là nền kinh tế thị trường XHCN, nền kinh tế XHCN cần phải phát triển lên kinh tế thị trường XHCN và tạo động lực cho XH phát triển lên thành XHXHCN với đỉnh cao là XHCSCN. - Ơ VN hiện nay việc phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu, với mục tiêu phát triển toàn diện xã hội đưa nước ta sớm trở thành XHXHCN với nền kinh tế phát triển lên kinh tế thị trường của XHCN. Hiện nay trên thế giới và trong khu vực Đông Nam á cũng có nhiều nước phát triển với nền kinh tế thị trường nhưng là nền kinh tế thị trường của xã hội tư bản. Ơ trong những nước TBCN cũng đang tồn tại những mâu thuẫn về giai cấp, về lợi ích giai cấp đó là mầm mống giai cấp để cách mạng xã hội nổ ra. Theo quan điểm của Cácmác, Ănghen và sau đó là quan điểm của Lênin thì XHTBCN không phải là xã hội cao nhất của loài người, dần dần XHTBCN cũng sẽ bị thay thế bởi XHXHCN và khi đó toàn nhân loại sẽ có một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh với nền tảng là kinh tế thị trường của CNXH. Phần Ii: NHỮNG Mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT 1.> Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN VIỆT NAM tồn tại những mâu thuẫn cơ bản sau 1.1> Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động. Trong đó con người đóng một vai trò quyết định của lực lượng sản xuất, còn tư liệu sản xuất cũng giữ một vị trí rất quan trọng bởi tư liệu sản xuất bao gồm công cụ sản xuất đối tượng lao động, khoa học kỹ thuật … Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội thông qua các mối quan hệ giữa sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Quan hệ sản xuất gồm có quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ quản lí và phân công lao động, quan hệ phân phối sản phẩm. Ơ nước ta hiện nay, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất rất nổi cộm thể hiện ra ở nhiều mặt đó là tư liệu sản xuất còn non kém cả về tư liệu lao động và khoa học kỹ thuật, tư liệu lao động thì thấp, không có may móc thiết bị hiện đại phục vụ cho việc sản xuất, trình độ khoa học kỹ thuật cũng rất non kém, các doanh nghiệp trong nước chưa sản xuất được nhiều mặt hàng đạt chất lượng cao, giá thành sản xuất còn cao, điều đó rất bất lợi cho cuộc cạnh tranh hàng hoá với hàng hoá của doanh nghiệp nước ngoài. Ngày nay, trên thế giới khoa học kỹ thuật rất phát triển và phát triển một cách rất nhanh chóng đến mức nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Như ở VN thì trình độ khoa học còn thấp kém, việc đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng trở nên cấp thiết. Con người là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất bởi vì năng suất lao động và trình độ lao động là những yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất: Thực tế ở nước ta hiện nay năng suất lao động chưa cao, trình độ năng lực lao động cũng thấp.. Tuy nhiên với việc mở rộng quan hệ kinh tế với thế giới thì lực lượng sản xuất nước ta cũng đang tiếp cận với trình độ phát triển của thế giới và càng phát triển nhanh chóng trong khi đó thì quan hệ sản xuất có nhiều yếu kém kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thể hiện ra trong nhiều mối quan hệ sản xuất, quan hệ quản l‏‎í lao động, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ phân công lao động. Thực tế, ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau. Đồng thời nền kinh tế nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế cũng đã làm cho mối quan hệ sở hữu này nẩy sinh nhiều vấn đề, việc quản lí của nhà nước cũng gặp nhiều khó khăn gây nhiều bất cập trong chính sách về kinh tế của nhà nước. Mối quan hệ quản lí phân công lao động cũng có nhiều vấn đề cần chỉnh lí điều hành lại cho phù hợp đó là: Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn khá cồng kềnh phức tạp do vậy đã gây lên sự đan xen chồng chéo thầm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức nhà nước. Tình trạng nhức nhối bức xúc nhất trong quan hệ quản lý là tình trạng tham ô tham nhũng cửa quyền của nhiều cán bộ nhà nước, quan hệ quản lý không rõ ràng lành mạnh. Việc phân công lao động của nhà nước chưa hợp lý, tình trạng thừa thầy thiếu thợ đang diễn ra ở nhiều nơi tập trung nhiều lao động có trình độ lao động cao nơi thì thiếu người có trình độ cao. Nền sản xuất ở nước ta vẫn chưa đi sâu vào chuyên môn hoá mà vẫn đang ở tình trạng sản xuất nhỏ bé chỉ ở mức mở rộng sản xuất, chưa có nghiệp vụ trong công việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Quan hệ phân phối sản phẩm ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn do năng lực quản lí còn non kém. Sản phẩm của các doanh nghiệp VN chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước cũng như chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và trên thế giới. Các doanh nghiệp chưa có biện pháp tìm kiếm thị trường tiêu thụ lâu dài, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cho việc tìm đầu ra cho sản phẩm hàng hoá của mình mà có nhiều loại sản phẩm trải qua nhiều khâu trung gian mới đến tay người tiêu dùng. Điều này đã làm cho sản phẩm của các doanh nghiệp khó cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài. 1.2> Thứ hai: mâu thuẫn giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập thể và với mục tiêu xây dựng XHCN. Mục tiêu xây dựng XHCN là con người được đặt vào vị trí trung tâm và xây dựng một xã hội công bằng dân chủ công minh. Trong thực tế hiện nay ở nước ta, mâu thuẫn giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập thể và với lợi ích của xã hội đang diễn ra. Trong xã hội, đã có nhiều cá nhân vì đồng tiền mà bất chấp pháp luật đã huỷ hoại nhân cách đạo đức con người để kiếm tiền bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Có thể nói kinh tế thị trường là môi trưòng để phân định rõ tốt-xấu, thật-giả, thiện-ác. Tình hình đó đang tác động đến cuộc sống, tới nhận thức của mỗi cá nhân, tổ chức trong XH. Trong cơ chế thị trường hiện nay, đã có rất nhiều hiện tượng tiêu cực trong buôn bán, sản xuất, kinh doanh, có nhiều cá nhân tổ chức đã buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng cấm. Có nhiều kẻ xấu đã lợi dụng cơ chế thị trường đã đua đòi, học theo những văn hoá độc hại du nhập vào nước ta gây nên nhiều tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý‏‎, mại dâm, cờ bạc…nhiều tệ nạn đã làm tổn hại đến tình hình trong nước làm mất an ninh trật tự. Gây rối phá hoại những thành quả tốt đẹp mà chúng ta xây đắp cho một xã hội văn minh giàu đẹp! Mục đích lợi ích của những kẻ trên là không bao giờ chính đáng, phạm pháp, đã và đang phá hoại mục tiêu xây dựng XHCN nước ta. Tuy nhiêu trong xã hội có rất nhiều người làm ăn chính đáng, thật thà, coi trọng nhân cách đạo đức của mình hơn bất cứ loại hàng hoá tiền bạc nào hết. Trong xã hội không chỉ có lợi ích cá nhân má còn có lợi ích tập thể., Lợi ích của tập thể trong xã hội cùng với lợi ích của cá nhân là rất quan trọng, quyết định đến sự trường tồn của xã hội này với xã hội khác. Nếu lợi ích của tập thể bị xâm hại thì nó sẽ kìm hãm ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế. Dẫu biết như vậy nhưng vẫn có rất nhiều tiêu cực xảy ra, nhiều kể đã dùng lợi ích riêng tư của mình mà phá hoại lợi ích tập thể, nhiều hiện tượng tham ô, tham nhũng, kết bè kéo cánh bao che tội lỗi đã xảy ra ở nhiều cơ quan tổ chứ nhiều doanh nghiệp, nhiều kẻ suy thoái đạo đức, bất chấp pháp luật đã gây tổn hại đến tài sản quốc gia nhũng nhiễu nhân dân, phá hoại mục tiêu chủ nghĩa. Có nhiều tập thể, tổ chức lợi dụng cơ chế thị trường buôn bán hàng hoá trái pháp luật. Tư nhân nhà nước không thể ngăn cấm, cản trở lợi ích của tập thể, của cá nhân làm ăn chính đáng, đúng pháp luật. Nếu ngăn cản làm ăn chính đáng của cá nhân thì sẽ không có ai phấn đấu nữa, như vậy xã hội sẽ không phát trển được. Cũng không thể ngăn trở lợi ích chính đáng của tập thể vì đó là yếu tố vô cùng quan trọng của xã hội, chính vì lợi ích của tập thể mà xã hội đang phát triển đi lên. Nhà nước cũng không thể đưa lợi ích của cá nhân vào trong lợi ích của tập thể, cũng không thể buộc lợi ích của tập thể vì lợi ích của các nhân được, bởi nếu làm như vậy xã hội sẽ bị tụt hậu, tuy nhiên mỗi cá nhân đều có thể hy sinh một chút quyền lợi chính đáng của các nhân mình vì lợi ích chính đáng của tập thể của xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn trên thì nguyên tắc trước hết là phải đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân. Mỗi cá nhân trong xã hội phải tự giác thực hiện công bằng xã hội để trong xã hội có một tổng thể công bằng, dân chủ. Không chỉ đợi tính tự giác của mỗi cá nhân mà nhà nước cần phải có biện pháp, chính sách xã hội để đảm sự công bằng, dân chủ, văn minh. Cần kết hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, xã hội một cách hài hoà, không có lợi ích nào bị xâm phạm. Cần xây dựng được nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên hiện nay trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường do tác động của cơ chế thị trường mà xã hội nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như sự phân hoá giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, đạo đức của con người bị suy thoái, bất công trong xã hội gia tăng. Nếu như chúng ta thực hiện được sự công bằng xã hội thì những tiêu cực đó sẽ dần được hạn chế, thu hẹp và sẽ mất đi. Nhưng việc thực hiện công bằng xã hội không phải là việc một sớm một chiều mà đó là cả một quá trình gian nan. Điều này phụ thuộc rất lớn ở chính sách xã hội cũng như chính sách kinh tế của nhà nước. 1.3.> Thứ ba là mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế Qua nhiều lần đại hội nhưng kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của sự đổi mới nói chung trong đó có đổi mới cơ cấu kinh tế, từ chỗ nền kinh tế nước ta là hoàn toàn tập trung, quan niêu, bao cấp, chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần như kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế hợp tác xã…Trước năm 1986 do đường lối chỉ đạo của Đảng mắc một số khuyết điểm, áp dụng máy móc, dập khuôn mô hình kinh tế của Liên Xô nhưng không còn phù hợp nền kinh tế nước ta kém phát triển. Cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã gây ra tình trạng nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp của nhà nước làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản, loại hình hợp tác xã không có đổi mới, quan liêu, bao cấp nên không phát huy được hiệu quả. Các doanh nghiệp, xí nghiệp của nhà nước các hợp tác xã chỉ trông chờ vào nguồn vốn đầu tư bù lỗ của nhà nước, không có doanh nghiệp, hợp tác xã nào tự đổi mới mà chỉ bỏ mặc theo kiểu " cha chung không ai khóc ''. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nhận thức được những sai lầm khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Đảng đã sửa sai, đã lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, chuyển nền kinh tế đất nước từ tập trung quan niêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá. Hiện nay, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ đạo đưa nền kinh tế nước ta tiến nên kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế theo hướng XHCN. Kinh tế nhà nước thuộc về sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước tập trung vào các ngành, các lĩnh vực trong yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, hề thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ thương mại quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, đảm bảo những cân đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Thành phần kinh tế nhà nước giữ những khâu quan trọng trong nền kinh tế, nó đảm đương nhiệm vụ điều tiết hoạt động kinh tế của đất nước ở tầm vĩ mô, chi phối các thành phần kinh tế khác nhưng cũng có những bước phụ thuộc vào các thành phần kinh tế khác, nghĩa là mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Các thành phần kinh tế khác cùng với thành phần kinh tế nhà nước hoạt động thống nhất nhưng có đấu tranh với nhau. Tất cả các thành phần kinh tế không hoạt động độc lập mà gắn bó đan xen, xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế. Sự thống nhất gắn bó giữa các thành phần kinh tế có yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế. Do lợi ích về kinh tế là lâu dài đối với các thành phần kinh tế là không giống nhau nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn. Những mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước với tính tự phát tư sản, tiểu tư sản của thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp, xí nghiệp nhà nước thì chậm được đổi mới, còn trông chờ, ỷ lại vào nhà nước. Kinh tế hợp tác xã vẫn còn những hiện tượng quan niêu, bao cấp thành phần kinh tế hợp tác xã chậm phát triển. Các thành phần kinh tế như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế các thể có nhiều tính bộc phát theo lối tư bản, tuy nhiên kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể phát triển mạnh mẽ nhanh nhạy hơn các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Không chỉ có mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau mà còn có mâu thuẫn giữa các phần trong một thành phần kinh tế, biểu hiện ra đó là các doanh nghiệp, xí nghiệp nhà nước cạnh tranh, còn nhiều điểm chưa thống nhất với nhau, nhiều khi còn đối lập nhau, đấu tranh với nhau không lành mạnh, dân chủ, công bằng. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có liên doanh liên kết với tư bản nước ngoài cạnh tranh không lành mạnh thậm chí còn phá hoại lẫn nhau, đồng thời dễ bộc phát theo hướng tư bản. Những mâu thuẫn trên hết sức phức tạp, tồn tại và tác động lẫn nhau trong suốt quá trình phát triển. Để cho các thành phần kinh tế, các thành phần trong cùng một thành phần kinh tế cùng phát triển, cạnh tranh một cách lành mạnh thì cần phải có những chính sách, phương hướng để giải quyết các mâu thuẫn một cách bình đẳng. 1.4> Thứ tư là mâu thuẫn giữa trình độ năng lực phát triển với yêu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường. Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế mới chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường nên trình độ năng lực phát triển còn non kém và gặp nhiều khó khăn. Biểu hiện của năng lực phát triển non kém là trình độ khoa học kỹ thuật Việt Nam còn thấp so với các nước tiên tiến trên thế giới. Khả năng quản lý, phát triển kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp trong nước còn rất kém so với các doanh nghiệp nước ngoài. Từ trình độ năng lực yếu kém mà quá trình sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra chậm các mặt hàng sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như chưa chiếm lĩnh được thị trường. Việt Nam đổi mới các phương thức sản xuất còn rất chậm, trong đó nổi bật là vấn đề kỹ thuật, máy móc thiết bị vì vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sản phẩm độc quyền đi sâu vào trong thị trường các nước trên thế giới, sức cạnh tranh hàng hóa Việt Nam là rất thấp. Các mặt hàng nhập khẩu thì toàn những máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại, các mặt hàng đã chế biến hoàn toàn như dầu, xăng của các nước phát triển còn xuất khẩu chỉ là những hàng hóa giản đơn, thô sơ chưa hoặc mới chế biến một phần như dầu khí, than, khoáng sản, gạo với giá rẻ. Một thực tế ở Việt Nam là chúng ta có nhiều thần đồng, đạt nhiều giải cao trong các kỳ thi của thế giới nhưng chúng ta lại có ít nhà khoa học nguyên nhân cũng bắt nguồn từ trình độ khoa học còn kém của nước ta, không có đủ các cơ sở nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, thực hành, chất lượng đào tạo tại các trường Đại Học, Cao Đẳng, trung học chuyên nghiệp chưa cao, chưa thật đồng đều. Trong tình hình nước ta hiện nay và tình hình trên thế giới việc nước ta muốn gia nhập tổ chức thương mại thế giới và gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA là rất khó khăn bởi vì trình độ năng lực về quản lí, khoa học kỹ thuật của nước ta còn rất non kém, khả năng cạnh tranh của các loại hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế rất kém nguyên nhân do hàng hóa của Việt Nam chất lượng chưa bằng hàng hóa của các nước tiên tiến nhưng giá thành lại cao do vậy không thỏa mãn được thị hiếu của người tiêu dùng trên thế giới. Trong khi đó thì yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường là rất cao phải có một trình độ năng lực phát triển toàn diện về quản lý trình độ khoa học kỹ thuật cao, hàng hóa có sức cạnh tranh tốt, có nhiều loại hàng hóa đi sâu vào được thị trường thế giới. Tuy vậy nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới cũng đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ như: bình quân lương thực đầu người 360kg/ người/ năm (1995) lên 444kg/ người/ năm (2000), xuất khẩu gạo đứng thư hai trên thế giới, cà phê đứng thứ ba, xuất khẩu công nghiệp được 10 tỷ đô la (2000) gấp hơn 3,4 lần năm 1995. Trong khoảng từ năm 1986 đến năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1996-2000 đạt 7%so với thời kỳ 1986-1990, xuất khẩu năm 2000 đạt 14 tỷ đôla, nhập siêu giảm từ 3,8 tỷ đôla năm 96 xuống còn 800 triệu đôla năm 2000, tốc độ tăng trưởng năm 2000 là 6,7%, GDP bình quân 400 USD/ người/ năm (2000). Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay Đảng và nhà nước đã đề ra một số các chỉ tiêu cụ thể cho quá trình phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2005 là đưa GDP bình quân hàng năm tăng trưởng 7,5%, GDP cả nước năm 2005 gấp hai lần so với 1995, các ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng 4,3%/ năm giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/ năm, giá trị ngành dịch vụ tăng 7,5%/ năm giá trị ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/ năm, nhịp độ tăng trưởng ngành công nghiệp và xây dựng là 10,8%, nhịp độ tăng trưởng ngành dịch vụ là 6,2%, giảm tỷ lệ sinh hàng năm là 0,5%,tốc độ tăng dân số năm 2005 khoảng 1,2%, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống còn 10% năm 2005. 1.5 >Thứ năm là mâu thuẫn giữa tiềm năng vốn có với khả năng khai thác, chế biến nước ta Nước ta có một vị trí địa lý thuận lợi và một tiềm năng lớn để phát triển kinh tế. Về mặt lực lượng lao động, nước ta có dân số đông đứng thứ 13 trên thế giới vì vậy có một lực lượng rất dồi dào, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng hơn 40% dân số cả nước, cơ cấu dân số trẻ, tỷ lệ người dưới độ tuổi lao động cao đó là một lực lượng bổ sung cho nguồn nhân lực rất lớn, giá nhân công lao động lại rẻ, đó là những thuận lợi về nhân công. Tuy nhiên những thuận lợi đó cũng chưa được khai thác triệt để, tỷ lệ người thất nghiệp lớn, tỷ lệ có việc làm không ổn định cũng chiếm tỷ lệ khá lớn nhất là ở các vùng nông thôn, sức lao động bị lãng phí rất nhiều, lực lượng lao động phổ biến không đồng đều đó cũng là một trở ngại lớn trong phát triển sản xuất. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng đó là nhân tố rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Tài nguyên lớn nhất là dầu mỏ và than ngoài ra còn có các loại quặng rất quan trọng, các loại khoáng sản này là nguồn nguyên nhiên liệu cho phát triển ngành công nghiệp, xây dựng rất lớn và rất quan trọng nhất là than và dầu mỏ. Tiềm năng và đất đai cũng là một vấn đề rất quan trọng, đất đai nước ta rất phong phú về chủng loại, màu mỡ về chất đất, nước ta có hai đồng bằng lớn là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn của cả nước. Nước ta có diện tích đất đai rộng lớn ở Tây Nguyên thích hợp với việc phát triển cây công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu rừng cũng là một tài nguyên rất lớn nhưng hiện nay rừng đang bị tàn phá rất nhiều và điều đó gây nên tình trạng thiên tai lũ lụt như hiện nay. Vị trí địa lý nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước, phía Bắc nước ta là Trung Quốc, đó là thị trường rất rộng lớn với tiềm năng hàng hóa rất lớn nước ta có bờ biển dài dọc theo chiều dài đất nước, có các hải cảng thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán với nước ngoài bằng đường biển. Tuy rằng tiềm năng để phát triển kinh tế của nước ta là rất lớn nhưng nước ta là một nước đang phát triển trình độ khoa học còn yếu kém nên khả năng khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên còn rất kém, sự lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất lớn việc khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên khoáng sản không hợp lý, khai thác, sử dụng tài nguyên không triệt để, rất lãng phí, khai thác không đi đôi với bảo vệ, gây trồng làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, đất đai bị thoái hóa, biến chất, rừng bị chặt phá nhiều, nạn cháy rừng làm mất nhiều loại cây trồng quý, thú rừng bị tiêu diệt làm mất cân bằng sinh thái, gây ra bao thiên tai mà chính chúng ta phải gánh chịu. Khai thác, sản xuất không đi đôi với bảo vệ môi trường, gây trồng cây rừng đã làm cho môi trường bị ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước gây nhức nhối cho quản lý môi trường. Trên đây là một số mâu thuẫn chủ yếu nổi bật nhất trong tình hình hiện nay ở nước ta. Nếu giải quyết được các mâu thuẫn trên thì nền kinh tế nước ta sẽ phát triển một cách nhanh chóng và nền kinh tế thị trường nước ta sẽ hình thành theo đúng định hướng XHCN. 2.> Một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của kinh tế Việt Nam do những mâu thuẫn trên đem lại: 2.1.Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10062.doc
Tài liệu liên quan