Đề tài Những nhân tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

 Mục lục

I- Lời mở đầu 1

II- Những vấn đề chung, cơ sở lý thuyết và thực tiễn 2

- Các khái niệm cơ bản về kinh tế thị trưòng đinh hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế nhà nước 2

- Tính tất yếu sự điều tốt vĩ mô của nhà nước 2

- Tính tất yếu của kinh tế nhà nước 3

- Vai trò của nhà nước 4

 - Vai trò của kinh tế nhà nước 9

III- Thực trạng vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước 11

A. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước 11

1. Những thành tựu 12

2. Hạn chế 14

3. Biện pháp khắc phục 14

B. Thực trạng của kinh tế nhà nước 16

1. Những thành tựu 17

2. Biện pháp khắc phục 18

IV- Kết luận 19

 

 

 

 

 

 

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nhân tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những chính sách khuyến khích đầu tư và chuyển giao công nghệ để phát triển công nghiệp nông thôn theo theo hướng đa dạng háo các ngành nghề với quy mô vừa và nhỏ, đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trường, xây dựng một số ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện phát huy tác dụng nhanh và hiệu quả; đồng thời, phải chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo hướng tới hình thành nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. a2 Nhà nước định hướng sự phát triển các thành phần kinh tế. Trong những năm qua, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đưa lại những chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế xã hội. Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau tất nhiên có những khuynh hướng phát triển khác nhau. Việc thừa nhận các khuynh hướng phát triển khác nhau trong nền kinh tế cũng có nghĩa là thừa nhận mâu thuẫn của sự phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa với xu hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Phát triển tư bản chủ nghĩa và phát triển xã hội chủ nghĩa đều là những xu hướng khách quan bắt nguồn từ cơ sở kinh tế. Sẽ là không khách quan, khoa học nếu chúng ta đề cao quá mức xu hướng phát triển xã hội chủ nghĩa đi đến loại trừ, thủ tiêu xu hướng tư bản chủ nghĩa, hoặc ngược lại. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại khách quan của các mặt đối lập, phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách khoa học sẽ góp phần thúc đẩy sựu vận động theo đúng quy luật phát triển của lịch sử. Đối với nước ta, phát triển kinh tế tư bản không phải chỉ là giải pháp tạm thời, cần thiết cho bước khởi động của một nền kinh tế trì trệ do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để lại, mà là sự phát triển lâu dài trong suốt thời kì quá độ. Ở đây không chỉ đơn thuần là chấp nhận những nhân tố tư bản do chế độ trước để lại, mà còn là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản một cách tự giác và chủ động. Chúng ta không sợ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cả chủ nghĩa tư bản trong nước và chủ nghĩa tư bản nước ngoài, chúng ta đang khuyến khích cho nó phát triển vì sự cần thiết của chúng ta, vì nó đang có tiềm năng phát triển. Điều đáng sợ là chúng ta để cho chủ nghĩa tư bản tự do phát triển không hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nước. Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta rất đa dạng, nhưng phổ biến hơn cả là hình thức liên doanh giữa các bên chủ thể sở hữu nhà nước với sở hữu tư nhân tư bản trong nước và ngoài nước. Bằng cách đó, chúng ta nhanh chóng tranh thủ tiếp nhận công nghệ, kĩ năng, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tìm cách tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới, tăng năng lực cạnh tranh, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh trong mỗi thời kì phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến nay đã có nhiều công ty nhà nước góp vốn với công ty tư nhân trong nước tạo ra thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài, nhiều dự án đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đăng kí tương đối lớn. Điều đó chứng tỏ kinh tế tư bản nhà nước không những cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mà còn cần thiết cho các nhà tư bản. Điều quan trọng ở đây là phải có Nhà nước đủ mạnh có khả năng kiểm tra, giám sát hoạt động của loại hình kinh tế tư nhân này tuân theo đúng pháp luật, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản và các lợi ích quốc gia, bảo đảm lợi ích của người lao động. Bằng những chính sách cụ thể, Nhà nước phát huy mặt tích cực của kinh tế nhiều thành phần để phát triển kinh tế nhằm phục vụ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nói khác đi, Nhà nước đề ra những chính sách cụ thể để “ lợi dụng” chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm khắc phục nền sản xuất nhỏ và tăng cường lực lượng sản xuất cho chủ nghĩa xã hội.Thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, chúng ta mới có khả năng khắc phục triệt để những hạn chế của sản xuất nhỏ. Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, một mặt sẽ tăng cường công nhân cả về số lượng và chất lượng, mặt khác là công cụ để những người cộng sản chống lại tình trạng ly tán của sản xuất nhỏ để nhập vốn,kĩ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là mục đích mà là công cụ, phương tiện, là sách lược của giai cấp vô sản để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, tạo cơ sở kinh tế, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Nhà nước bằng các chính sách cụ thể, chủ động phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước có chừng mực, có giới hạn và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, điều tiết đối với nó, hướng sự phát triển của nó có lợi cho quốc kế dân sinh. Bằng hệ thống pháp luật, kế hoạch và các công cụ đòn bẩy kinh tế, Nhà nước hạn chế sự bóc lột, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm hướng sự phát triển của nó vào mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà tiêu biểu hiện nay là các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước phải nắm những lĩnh vực kinh tế then chốt, trọng yếu chi phối các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế quốc dân. Có như vậy, Nhà nước mới có khả năng điều tiết, chi phối các thành phần kinh tế khác, các doanh nghiệp khác, tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế quốc doanh trong điều kiện nước ta hiện nay không chỉ dừng lại ở nghĩa đó. Vai trò chủ đạo đó phải được biểu hiện trên hai hình thức : tính chiến lược và tính hiệu quả sản xuất-kinh doanh. Bằng các chính sách cụ thể, Nhà nước xây dựng một hệ thống kinh tế nhà nước đủ mạnh để bảo đảm ổn định kinh tế, khẳng định trên thực tế định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển kinh tế nhiều thành phần. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là ở chỗ nó mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế, là công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa và là cơ sở của chế độ mới. Vì vậy, để kinh tế nhà nước đóng được vai trò chủ đạo, trước mắt đòi hỏi Nhà nước phải đổi mới cơ chế quản lý của mình đối với thành phần kinh tế này và phải chủ động sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Vấn đề quan trọng nhất để các doanh nghiệp nhà nước phát triển là người lao động phải được bảo đảm lợi ích, khắc phục cho được tình trạng doanh nghiệp nhà nước, tài sản nhà nước không có người làm chủ cụ thể, làm chủ trực tiếp, làm chủ một cách có trách nhiệm. Cần phải tạo điều kiện cho công nhân gắn bó với doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh, ngăn ngừa tệ tham nhũng, bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước. Muốn vậy, Nhà nước phải kiên quyết xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, xử lý đúng đắn những xí nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, xây dựng một số doanh nghiệp nhà nước mới hoạt động năng động và có hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, nhiều khâu trung gian, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh, đủ sức cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường trong nước và thế giới. Cùng với những doanh nghiệp nhà nước thu lợi nhuận, Nhà nước với vai trò quản lý của mình còn thành lập các doanh nghiệp công ích không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của các doanh nghiệp nhà nước này là phục vụ công cộng, làm tốt các dịch vụ công cộng, thực hiện các chính sách xã hội; phục vụ cho công tác an ninh-quốc phòng…Nếu thiếu các doanh nghiệp nhà nước loại này thì xã hội khó mà tồn tại, ổn định và phát triển được. Đây cũng chính là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, phục vụ cho công tác an ninh-quốc phòng và hưóng các thành phần kinh tế khác cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Dựa vào hệ thống kinh tế nhà nước, bằng các chính sách cụ thể, Nhà nước hướng các thành phần kinh tế khác cùng tham gia đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn, đặc biệt là thuỷ lợi và giao thông. Đồng thời, Nhà nước có vai trò giúp đỡ các doanh nghiệp ở nông thôn đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, khả năng quản lý, công nghệ, vốn cho người lao động. Có như vậy mới bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn được thể hiện ở chức năng điều tiết, kiểm tra, kiểm soát các thành phần kinh tế, bảo đảm thông nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Trên cơ sở pháp luật, bằng hệ thống các chính sách thuế, tài chính, lao động, tiền lương, môi trường…Nhà nước tiến hành kiểm tra, kiểm kê theo định kì và đột xuất các thành phần kinh tế ( bảo đảm về môi trường, luật lao động, chế độ tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…). Thông qua đó, Nhà nước có thể phát hiện những hành vi gian lận, vi phạm các quy định, chính sách của Nhà nước, buộc các đơn vị kinh tế phải thực hiện nghiêm túc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, cũng có nghĩa là hướng tất cả các thành phần kinh tế theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Thông qua các cơ quan chức năng, Nhà nước kiểm soát vội tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tức là giải quyết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,. Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với những chuyển biến về mặt xã hội. Nếu không thực hiện được điều đó thì không thể nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa trên thực tế. Bởi lẽ, tiến bộ xã hội thực sự không thể không dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, nhưng tiến bộ xã hội, đến lượt nó lại là động lực quan trọng của tăng trưỏng kinh tế. Tất nhiên, tiến bộ xã hội mà chúng ta đề cập ở đây là tiến bộ xã hội mang tính nhân bản sâu sắc, bao gồm sự tiến bộ của mọi cá nhân, mọi gia đình và của toàn bộ công cộng. Sự công bằng trong kinh tế, chính trị, xã hội được thể hiện trong phân phối thu nhập các nguồn lợi kinh tế. Vì vậy, Nhà nước thực hiện chức năng giám sát vói việc phân phối này, trên cơ sở đó điều chỉnh, phân phối lại nhằm thực hiện công bằng xã hội, khắc phục mọi tình trạng phân hoá giàu-nghèo, bất công, thực hiện tốt bảo hiểm xã hội… Vai trò của Nhà nước còn thể hiện thông qua các chính sách xã hội. Nhà nước dần dần góp phần xây dựng một chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa cũng như một trật tự xã hội mang tính nhân văn sâu sắc. thiếu điều đó, kinh tế cuối cùng sẽ không phát triển được và không thể bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. a3. Nhà nước tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng. Sự tồn tại nhiều chủ thể kinh tế với những quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích khác nhau, hơn nữa các thành phần kinh tế hoạt động trong môi trường cạnh tranh do quy luật kinh tế khách quan chi phối, đòi hỏi nền kinh tế phải có tính tổ chức cao và có định hương rõ rệt. Trong điều kiện đó, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp là rất khó khăn. Vì vậy, Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế pháp lý cho hoạt động sản xuất-kinh doanh phát triển. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khẳng định tư cách pháp lý độc lập của hang lạot các loại hình doanh nghiệp, một số nguyên tắc, cơ chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được thể chế hoá, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong việc quyết định cac svấn đề về tài sản kinh doanh cũng như hoạt động tổ chức kinh doanh khẳng định. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi choc ac doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài yên tâm sản xuất-kinh doanh. b. Vai trò của kinh tế nhà nước. Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường là sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mac-Lênin. Theo quan điểm chủa Đảng và Nhà nước, một trong những nhân tố có tính chất quyết định cho định hướng ấy là thành phần kinh tế nhà nước phải làm tốt vai trò chủ đạo của mình. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vậy hiểu vai trò chủ đạo của KTNN như thế nào? Tôi cho rằng, vai trò chủ đạo của KTNN cần được hiểu và thực hiện trên những phương diện cơ bản như sau: Thứ nhất, vai trò chủ đạo không phải biểu hiện ở số lượng các cơ sở kinh tế của Nhà nước nhiều hay ít và cũng không phải ở tỷ trọng giá trị sản lượng do kinh tế Nhà nước tạo ra chiếm bao nhiêu trong GDP. Mà vai trò chủ đạo trước hết phải được thể hiện ở trình độ công nghệ, trình độ quản lý, năng suất, hiệu quả kinh tế – xã hội và năng lực cạnh tranh cao. Thứ hai, kinh tế NN phải đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Thứ ba, KTNN độc quyền trong những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và hoạt động bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân như ngân hàng, vận tải đường không… Tuy vậy ở đây cần lưu ý rằng, phạm vi độc quyên của KTNN càng rộng bao nhiêu thì tác động tích cực của cạnh tranh càng bị thu hẹp bấy nhiêu - Nghĩa là một trong những động lực mạnh nhất của kinh tế thị trường bị triệt tiêu. Bên cạnh đó, cần xác định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với KTNN độc quyền được biểu hiện cụ thể ở doanh nghiệp nhà nước nhất định, để không chuyển độc quyền của KTNN thành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Vì trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, KTNN độc quyền là để có điều kiện định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu nhất định và đạt hiệu quả kinh tế – xa hội. Do vậy, nếu một doanh nghiệp Nhà nước nào đó được độc quyền thì hoạt động của nó phải hướng tới với tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước với mục tiêu kinh tế-xã hội, vì quốc kế dân sinh, chứ không phải vì bản thân doanh nghiệp. Trong trường hợp hoạt động của doanh nghiệp không đạt được yêu cầu nói trên thì không nên trao cho doanh nghiệp đặc lợi độc quyền. Nói cách khác, doanh nghiệp Nhà nước độc quyền nhưng không làm triệt tiêu “luật chơi “ của kinh tế thị trường và không vì lợi ích cục bộ của bản thân doanh nghiệp Nhà nước mà hướng tới vì lợi ích kinh tế-xã hội thì hoạt động của doanh nghiệp mới đúng nghĩa là thực hiện vai trò chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, KTNN định hướng, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế khác, để mọi thành phần kinh tế hoạt động theo mục tiêu định sẳn của Nhà nứơc thông qua hai cách thức được thực hiện đồng thời là: -Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, vùng, sản phẩm của bản thân kinh tế Nhà nước cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó,các thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình. -Cung cấp cơ sở hạ tầng và những dịch vụ công cộng với chất lượng cao, giá cả rẻ cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà Nhà nước muốn khuyến khích họ đầu tư. Thứ năm, KTNN hỗ trợ, kích thích các thành phần kinh tế khác phát triển. Có thể hiểu sự hỗ trợ, kích thích của KTNN đối với các thành phần kinh tế khác bao gồm: -Ưu đãi về vay vốn sản xuất, thuế, tiền thuê đất cho hoạt động của các thành phần kinh tế. - Tìm kiếm và mở rộng thị trường, bao gồm cả thị trường đầu vào lẫn thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế. -Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần thiết. -Hỗ trợ, khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh. - Duy trì và kích thích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước, nhất là loại hình doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân, nơi cung cấp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, nơi tập trung phần lớn đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, kỹ thuật của đất nước. Hiện tại, kinh tế nhà nước chiếm tới 85% tài sản cố đinh trong công nghiệp của cả nước, trong đó: 100% mỏ khoáng sản lớn; 83% diện tích cây công nghiệp dài ngày. Mặc dù kinh tế nhà nước chiếm 44% tỷ trọng GDP nhưng lại đóng góp từ 30-35% cho ngân sách nhà nước. trong khi khu vực ngoài quốc doanh chiếm 56% GPP nhưng chỉ đóng góp 15% cho ngân sách nhà nước. Cho nên, kinh tế nhà nước chính là cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế để Nhà nước trên cơ sở đó có thể điều tiết, định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua bao gồm cả ở hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô như: chính sách tài chính – tiền tệ, đất đai… và cả ở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để giải phóng mọi năng lực của nền kinh tế; thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Kinh tế nhà nước chính là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới ra đời. Có thể nói rằng:” Điều quan trọng là bên cạnh “chiếc cầu nhỏ” của chủ nghĩa xã hội, cần củng cố, tăng cường vai trò chủ đạo then chốt của kinh tế quốc doanh, vai trò nền tảng của kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, lấy đó làm chỗ dựa cơ bản, làm quả đấm thép để phát triển kinh tế-xã hội. Đó mới là điều mấu chốt và quyết định bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. II- Thực trạng điều tiết kinh tế của Nhà nước và vai trò của kinh tế nhà nước A.Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước. 1. Những thành tựu Bằng các chính sách, và biện pháp phù hợp, Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế nghèo nàn tiến thêm một bước dài và đạt đựoc những thành tựu hết sức to lớn: Một là đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, liên tục, năm sau cao hơn năm trước 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm;1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Hai là cơ cấu kinh tế ngành chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường Từ năm 1988 đến nay, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục (năm 1988 là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003 là 40%, năm 2005 chiếm 41% GDP). Từ chỗ chưa khai thác dầu, đến nay đã có sản lượng (quy ra dầu) gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3%, năm 2003 còn 21,8%; năm 2005 là 20,5%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích tăng lên. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,2% năm 2003, 38,5% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành bưu chính - viễn thông và du lịch phát triển nhanh.Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển khá . Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng và được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá bằng các luật, pháp lệnh. Với Luật Doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã tạo khung pháp lý ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng thời, Nhà nước đã thể chế hoá thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế,... Nhờ đó, đã góp phần tích cực cho quá trình phát triển kinh tế thị trường. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Bốn là, thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Đảng đã quan tâm lãnh đạo đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 tạo khung pháp lý, có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; đã tập trung chỉ đạo sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể, mà nòng cốt là hợp tác xã, đã được đổi mới từng bước theo Luật Hợp tác xã và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ trong sản xuất hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của khu vực hợp tác xã giảm nhanh, nhưng bắt đầu có chiều hướng phục hồi. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là từ sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm.. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,7% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng. Tính đến tháng 6 -2004, có 4.575 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép và còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 43 tỷ USD. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động. Năm là, đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Vượt ra khỏi chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế trên các cấp độ và trong các lĩnh vực kinh tế then chốt (như thương mại dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ ...). Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó, nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài và sẵn sàng ra nhập tổ chức thương mại quốc tế. 2. Những hạn chế Mặc dù đạt được những thành tựu hết sức to lớn, nhưng trong quá trình quản lý và điều hành, Nhà nước vẫn mắc phải những sai lầm hạn chế: - Bộ máy Nhà nước cồng kềnh, sự yếu kém về hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, tình trạng tham những, lạm quyền vì mục đích cá nhân ngày càng tăng. Điều đó làm cho nhân dân chưa thực sự tin vào năng lực điều hành của Nhà nước, đồng thời, chưa thể hiện đóng được bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. - Quy trình hoạch định chiến lược, chính sách đang còn chậm và không đồng bộ, có sự chồng chéo hay thay đổi nhưng chưa phù hợp với cơ chế mới. Quy hoạch phát triển vẫn duy trì phương pháp cũ nên chất lượng thấp, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường. - Phát triển các thể chế thị trường không đồng bộ, không theo logic hệ thống, vẫn cân đo nhiều trên lợi ích cục bộ của các doanh nghiệp nhà nước chứ chưa thực sự hướng tới việc tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các thành phanà kinh tế khác. - Các yếu tố của cơ chế cũ mà điển hình là trục tam giác: xin cho-độc quyền doanh nghiệp nhà nước-bảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10612.doc