Đề tài Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta

Công nghiệp hoá là quá trình ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào tất cả các ngành kinh tế quốc dân, đối với các nước kinh tế lạc hậu thì trước hết là ứng dụng các phương pháp sản xuất công nghiệp vào các ngành kinh tế, là cải tổ cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và phù hợp với quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, từng nước phải chọn một số khâu của nền kinh tế để ưu tiên phát triển và hiện đại hoá, tuỳ điều kiện cụ thể mà hình thành phương án thực hiện, có thể tiếp thu có kết quả nhấtcác thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Vì vậy các nước đang phát triển phải phân tích sâu sắc các điều kiện trong quá trình xây dựng chiến lược, phương án công nghiệp hoá của đất nước.

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá mà tất cả các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển đều coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên đây cũng là nhiệm vụ nặng nề. Trìnhããã xuất phát của một nước càng thấp thì quá trình thực hiện nhiệm vụ đó càng khó khăn, lâu dài. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định:" Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân." 3. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá dù trên giác độ nào cũng không đồng nhất quá trình phát triển công nghiệp. Trong quá trình công nghiệp hoá có những nét riêng đối với từng nước, nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính chất phổ biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. Công nghiệp hoá là quá trình rộng lớn và phức tạp. Bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây: a) Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay, quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ . Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế xã hội của đất nước với các nước phát triển. Hiện đại hoá xét trên giác độ kinh tế - kĩ thuật, là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng sự vươn lên về trình độ công nghệ này lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Xét toàn cục, hiện đại hoá lại chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá mà thôi. Một vấn đề khác cũng cần được giải quyết là xác đinh và đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ được trang bị. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn theo kiểu "cũ người mới ta", cái không tiến tiến của nước khác cũng là cái hiện đại của nước mình. Trong lựa chọn công nghệ nhập, sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển đến việc lựa chọn thiết bị lạc hậu hoặc thiết bị cũ được tân trang lại. Cái giá phải trả quá lớn, tốc độ hiện đại hoá không được đẩy nhanh. b) Quá trình công nghiệp hoá không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình bao trùm tất cả các ngành các lĩnh vực hoạt động của mỗi nước. Đó là lẽ tát yếu của mỗi nước vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thống nhất, các ngành, các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Sự thay đổi ở ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động này sẽ kéo theo hoặc sẽ đòi hỏi sự thay đổi thích ứng ở các ngành, các lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy, quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá, vị trí của các ngành sẽ thay đổi. Xét tổng thể, cơ cấu kinh tế của mỗi nước được cấu thành bởi ba loại ngành tổng hợp: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Các ngành này có quan hệ ràng buộc nhau, trong đó công nghiệp trong nhận thức luôn được coi là ngành quan trọng. Nhưng trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, các nước đang phát triển chỉ có lực lượng công nghiệp nhỏ bé sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản và khai thác các sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Trong quá trình công nghiệp hoá, công nghiệp luôn dành được sự ưu tiên phát triển. Tuy công nghiệp hoá không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp nhưng không thể công nghiệp hoá nếu không thể phát triển mạnh công nghiệp. Bởi vậy, với vị trí ban đầu, công nghiệp dần dần chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế quốc dân của đất nước. Đến trình độ phát triển nhất định, thì nông nghiệp và dịch vụ chỉ giữ vị trí ở hàng thứ trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước trong quá trình công nghiệp hoá sẽ trải qua hai giai đoạn : Từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ chuyển sang cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ. c) Quá trình công nghiệp hoá trong bất kỳ giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kĩ thuật, vừa là quá trình kinh tế - xã hội. Việc thực hiện có kết quả quá trình công nghiệp hoá sẽ thủ tiêu tình trạng lac hậu về kĩ thuật, thấp kém về kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn". Đồng thời quá trình công nghiệp hoá cũng gắn liền với quá trình thủ tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, nâng cao dân trí , nâng cao mức sống của dân cư, đưa xã hội đến trình độ văn minh công nghiệp. Quá trình kinh tế - kĩ thuật và quá trình kinh tế - xã hội có quan hệ ràng buộc nhau. Quá trình kinh tế - kĩ thuật tạo điều kiện vất chất kĩ thuật cho việc thực hiện các nội dung của qúa trình kinh tế - xã hội. Ngược lại, quá trình kinh tế - xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế - kĩ thuật. d) Quá trình công nghiệp hoá cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau với kinh tế của các nước khác và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới. ở mỗi nước, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh tế - xã hội chung của thế giới, đặc biệt là của các nước trong khu vực. Cần phải đặt sự phát triển kinh tế của đất nước trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, tham gia tích cực vào quá trình cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân. Về nguyên tắc, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá phải dựa vào các nguồn lực trong nước là chủ yếu. Trong việc xây dựng kinh tế mở, thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh" vì lực lượng bên ngoài chỉ là sự hỗ trợ, sự giúp đỡ chứ không phải là lực lượng làm thay và cũng không thể là sự sao chép máy móc các kinh nghiệm của nước khác. e) Công nghiệp hoá không phải mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Mỗi nước có hệ thống mục tiêu riêng của mình. Tuy vậy, về hình thức, vẫn có thể thấy được những nét tương đồng về hệ thống mục tiêu đó. Đó là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư ... Mục tiêu cụ thể của mỗi nước phụ thuộc vào quan điểm của hệ thống chinh trị lãnh đạo. Phương hướng, quy mô và nhịp độ công nghiệp hoá phụ thuộc vào đặc điểm chính trị xã hội của đất nước. Đó chính là một trong những biểu hiện của quan hệ biện chứng giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Không thể thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá khi hệ thống chính trị không ổn định và không được đổi mới. Ngược lại, cũng không thể giữ được ổn định về chính trị xã hội, chủ quyền của đất nước nếu không thực có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá. Từ toàn bộ những vấn đề đã phân tích ở trên có thể rút ra kết luận khái quát : Thực chất công nghiệp hoá là một quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại. III. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam. 1. Sự cần thiết phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. a. Một số khái niệm. Nghiên cứu các khái niệm này, không những giúp ta hiểu được nội dung mà còn giúp ta cả việc hiểu được về mặt phương pháp luận. - Tiền đề vật chất của xã hội: Trước hết bao gồm các yếu tố vật chất, các yếu tố khách thể của nền sản xuất xã hội mà trước hết là công cụ lao động. Cơ sở vật chất - kĩ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kĩ thuật, công nghệ thích ứng mà lực lượng lao động của xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Do đó cơ sở vật chất - kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại chỉ có thể là nền đại công ngiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ phát triển ngày càng cao. Khái niệm cơ sở vật chất kĩ thuật là một phạm trù kinh tế của kinh tế chính trị học, bao gồm nội dung kinh tế kĩ thuật và kinh tế xã hội. Chính nội dung về mặt kinh tế xã hội này cho ta thấy cơ sở vật chất kĩ thuật của phương thức sản xuất xã hội mới không thể phát triển đầy đủ và hoàn thiện ở trong lòng phương thức sản xuất xã hội cũ được mà chỉ phát triển đầy đủ và hoàn thiện khi có sự ra đời của hệ thống quan hệ sản xuất xã hội mới. b) Mỗi phương thức sản xuất xã hội đều phải dựa trên một cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng. Vì vậy, các nước tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Nhưng đối với nước đã qua chủ nghĩa tư bản phát triển tức là có s1/2n nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại thì không phải xây dựng từ đầu cơ sở vật chất cho xã hội mới mà chỉ cần cải tiến nền đại công nghiệp cho phù hợp để tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Còn đối với những nước kém phát triển thì hầu như phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ ngiã xã hội từ đầu do đó phải tiến hành công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là con đường, là biện pháp để xây dựng cơ sở vật chất kĩ tuật cho xã hội mới. 2. Tính tất yếu khách quan tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam. Công nghiệp hoá là tất yếu khách quan, là nội dung và con đường duy nhất đúng để đưa nền kinh tế xã hội nước ta phát triển nhanh bền vững và có hiệu quả nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Nước ta do đi từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ lên nền kinh tế lớn xã hội chủ nghĩa do đó khách quan đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá và công nghiệp hoá hiện đại hoá là nội dung, là phương thức, là con đường để phát triển nhanh và có hiệu quả. - Tác dụng của công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nước ta: + Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước ta mới xây dựng được cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội mới và xã hội chủ nghĩa mới phát triển được lực lượng sản xuất ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá mới củng cố và hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất mới ở nước ta. + Có tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới xây dựng thành công nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mới thực hiện được tái sản xuất mở rộng không ngừng đổi mới, nâng cao năng suất lao động xã hội cải thiện được đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. + Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới phát triển lực lượng giai cấp công nhân củng cố liên minh công nông. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo tiền đề cho việc xây dựng thành công nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa trình độ lạc hậu của nước ta với trình độ văn minh của thế giới. Nước ta mới tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho nền kinh tế nước ta hoà nhập vào kinh tế thế giới và khu vực. + Thực hiện công nghiệp hoá mới củng cố được quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Chính trên những ý nghĩa to lớn về kinh tế chính trị và xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước ta coi nó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. chương III Nội dung cơ bản về cNH - HĐH ở nước ta Nội dung của công nghiệp hoá bao gồm nhiều vấn đề, ở đây ta chỉ đi sâu vào ba vấn đề cơ bản, đó là trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế, xây dựng cơ cấu kinh tế mới gắn với quá trình tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thực hiện quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp. 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, là quá trình cơ khí hoá - hiện đại hoá nền sản xuất nhằm trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân để chuyển lao động bằng thủ công lên lao động bằng máy móc. Thực chất của công nghiệp hoá ở nước ta là tiến hành cuộc cách mạng kĩ thuật để trang bị kĩ thuật mới cho nền kinh tế. Cách mạnh khoa học kĩ thuật và công nghiệp hoá là hai khái niệm khác nhau nhưng giữa chúng có một nội dung chung đó là chuyển lao động bằng thủ công lên lao động bằng cơ giới hoá và hiện đại hoá. Cách mạng kĩ thuật là sự thay đổi về chất của kĩ thuật. Kĩ thuật gắn liền với lao động sản xuất của con người trong quá trình phát triển của lịch sử loài người. Kĩ thuật tiến bộ trên 3 mặt : công cụ, năng lực và động lực, nguyên vật liệu. Cuộc cách mạng kĩ thuật lần này không chỉ diễn ra trong kĩ thuật mà cả trong khoa học, trong công nghệ, trong đó có cả sinh học và tin học... Vì vậy, nó được gọi là cách mạng khoa học - công nghệ. Trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật lần thứ hai, để đất nước tiến nhanh, tiến mạnh lên hiện đại, phải triệt để lợi dụng thành tựu kĩ thuật hiện có của thế giới. Do đó, công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá để không thua kém các nước phát triển trên thế giới. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là vừa cơ khí hoá nền sản xuất thay thế lao đông thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, vừa tạo ra những bước nhảy vọt, đi từ thủ công lên thẳng tự động hoá ở một số ngành mũi nhọn. Đối với một số lĩnh vực kinh tế có điều kiện chúng ta có thể "không chỉ đi tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, mà còn kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, và có những mũi nhọn phát triển đi tắt, đón đầu, không chỉ áp dụng các công nghệ tiên tiến mà còn phải biết tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống" (Đảng cộng sản Việt nam ; Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII - 1994, trang 75). Trong thời đại ngày nay, xu hướng quốc tế hoá lực lượng sản xuất đang diễn ra khá mạnh mẽ. Điều đó vừa bắt buộc, vừa tạo khả năng khách quan cho các nước kinh tế lạc hậu như nước ta, có thể kết hợp những bước tiến tuần tự với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ rút ngắn thời gian đuổi kịp các nước tiên tiến và không rơi vào tình trạng bị tụt hậu xa hơn. Ngoài ra, chúng ta thực hiện việc chuyển giao công nghệ để nhập công nghệ mới cho nền kinh tế, đây cũng là nội dung của việc trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta. Tuy nhiên, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là trang bị kĩ thuật và công nghệ mới cho nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với quá trình tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. a. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có mục tiêu bản "biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất xã hội tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" (Dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng - lưu hành nội bộ tháng 12 - 1995, trang 17). Muốn đạt tới mục tiêu cơ bản đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nươc ta phải lấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ nhằm khai thác, phát huy tối ưu những tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước, đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, làm nội dung và mục tiêu trực tiếp xuyên suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một nước kinh tế lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta là vấn đề tất yếu khách quan. ở nước ta, trong mấy năm qua cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế cũng đã diễn ra một bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ như đại hội VII đề ra. Sự chuyển dịch bước đầu đó thể hiện sự biến đổi tỉ trọng của một số ngành cơ bản trong giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP), như : năm 1990, công nghiệp chiếm 23,8%(GDP), nông nghiệp chiếm 40,3%(GDP), dịch vụ chiếm 36,3%(GDP), đến năm 1994 những tỉ trọng tương ứng trên là : 29,6% ; 28,7% và 41,7%(GDP). Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta tất yếu dẫn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại ; kết hợp nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu, sự phát triển ba ngành cơ bản nói trên trong một cơ cấu hữu cơ nhiều thành phần kinh tế với các tỷ trọng hợp lý và áp dụng những quy trình công nghệ hiện đại sẽ đưa nền kinh tế nước ta phát triển đi lên với tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao. Cơ cấu kinh tế mới ở nước ta không phải hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách có kế hoạch. b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với quá trình tổ chức phân công lại lao động xã hội. Nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang một nước có nền công nghiệp hiện đại thì việc tổ chức, phân công lại lao động xã hội là một tất yếu khách quan. Cần phải chuyển một bộ phận lao động nông thôn sang các lĩnh vực dịch vụ sản xuất, đời sống và các đặc điểm công nghiệp mới hình thành để sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Do đó, tính quy luật của việc tổ chức, phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thể hiện ở chỗ : - Tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm và ngược lại tỉ trọng lao động công nghiệp tăng. - Tỉ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn trong tổng số lao động xã hội. - Tỉ lệ lao động trong các ngành phi vật chất tăng nhanh. c. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư : Việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm đảm bảo khai thác và sử dụng tốt nhất các tiềm năng của cả nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội làm cho nền kinh tế phát triển nhanh đuổi kịp các nước trong khu vực, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Thời kỳ trước năm 1975, cơ cấu đầu tư của nước ta nhằm phục vụ đường lối ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nặng trên cơ sở một nền kinh tế khép kín bao cấp, do đó vốn đầu tư bị lãng phí lớn. Hiện nay trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá Đảng và Nhà nước ta đã điều chỉnh cơ cấu đâù tư: - Đầu tư theo cơ cấu ngành, tranh thủ khoa học kĩ thuật tiên tiến, công nghệ mới. - Cần đầu tư phục vụ sản xuất thay thế nhập khẩu và công nghiệp hướng ngoại. - Trong điều kiện vốn đầu tư bị hạn chế cần tranh thủ phát triển một số ngành sử dụng nhiều lao động thay thế cho vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Đặc trưng của cơ chế thực hiện quá trình công nghiệp hoá theo nghị quyết Đại hội III, thể hiện trong nội dung của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 - 1965, là kế hoạch hoá tập trung cao độ theo một phương án duy nhất được Trung ương quyết định và chỉ đạo nhằm xây dựng những cơ sở công nghiệp quốc doanh quy mô lớn và vừa do Trung ương quản lý. Tuy nhiên, quá trình này bị gián đoạn bởi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và vì tập trung sức lực cả nước vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết Đại hội VI hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý cũ không còn thích hợp nữa đồng thời nội dung và nhiệm vụ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở giai đoạn hiện nay cũng có những điểm khác trước. Vì vậy, cần phải lợi dụng mọi cơ chế mới thích hợp với yêu cầu huy động lực lượng rộng rãi vào thực hiện nhiệm vụ quan trọng bức thiết này. Trên cơ sở các nghị quyết nêu trên và yêu cầu triển khai thực hiện cụ thể trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế - xã hội hiện nay có thể thấy khá rõ phương hướng và nội dung của cơ chế quản lý mới đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn này, có thể tóm tắt là "đa dạng có định hướng". Phương hướng và nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá có thể diễn giải : a. Đa dạng hướng phát triển ngành, có định hướng ngành trọng tâm. Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn này khẳng định không chỉ chú ý tập trung vào ngành công nghiệp, mà là bao quát tới mọi ngành kinh tế - kĩ thuật và các lĩnh vực hoạt động của xã hội. b. Đa dạng công nghệ, có định hướng lựa chọn thích hợp. c. Đa dạng vùng phát triển, có định hướng quy hoạch vùng trọng điểm. d. Đa dạng hoá nguồn vốn, có định hướng chiến lược đầu tư. Những tiền đề và điều kiện để tiến hành công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. Chương Iv Những điều kiện tiền đề của cnh - hđh Sau khi khẳng định sự cần thiết khách quan của công nghiệp hoá, cần phải trả lời câu hỏi thứ hai là Việt nam với trình độ và nguồn lực hiện nay, trong hoàn cảnh quốc tế mới có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá được không? có đủ tiền đề và điều kiện cho công nghiệp hoá không? 1. Các tiền đề của công nghiệp hoá Để thực hiện công nghiệp hoá phải có tiền đề bên trong và bên ngoài. Trong nước ta phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Muốn phát triển kinh tế, muốn tiến hành công nghiệp hoá trước hết phải có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Lựa chọn con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đổi mới hệ thống chính trị nhằm củng cố nhà nước của dân, do dân vì dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Đây là tiền đề chính trị bên trong cho công nghiệp hoá. Môi trường quốc tế và xu hướng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá ở nước ta. Trước hết, đó là môi trường hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế cho phép ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nước nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ đa phương của quốc tế. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo điều kiện và thời cơ cho những nước kém phát triển, trong đó có Việt nam, có thể tranh thủ sử dụng khoa học, công nghệ mới cũng như nguồn vốncủa các nước giàu và sự nghiệp công nghiệp hoá bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự lớn mạnhcủa các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ, sự thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi hỗ trợ cho các nước kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hoá, phát triển kinh tế. Vài chục năm qua, một số nước đã biết vận dụng hoàn cảnh và tiền đề quốc tế để đẩy nhanh công nghiệp hoá, trong thời gian ngắn, từ nước lạc hậu kém phát triển trở thành những nước công nghiệp hoá. 2. Những điều kiện để công nghiệp hoá Từ các tiền đề đó công nghiệp hoá có thành công hay không còn phụ thuộc vào một số điều kiện cụ thể. Công nghiệp hoá chỉ được thực hiện với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên công nghiệp hoá là một quá trình, quá trình này càng phát triển thì các điều kiện càng được mở rộng, càng đầy đủ hơn để đẩy nhanh công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là quá trình ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào tất cả các ngành kinh tế quốc dân, đối với các nước kinh tế lạc hậu thì trước hết là ứng dụng các phương pháp sản xuất công nghiệp vào các ngành kinh tế, là cải tổ cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và phù hợp với quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó, từng nước phải chọn một số khâu của nền kinh tế để ưu tiên phát triển và hiện đại hoá, tuỳ điều kiện cụ thể mà hình thành phương án thực hiện, có thể tiếp thu có kết quả nhấtcác thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Vì vậy các nước đang phát triển phải phân tích sâu sắc các điều kiện trong quá trình xây dựng chiến lược, phương án công nghiệp hoá của đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33756.doc
Tài liệu liên quan