Đề tài Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ

 Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở:

 - Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng) dù thay đổi đó theo hai hướng:

 - Khi Ngân hàng trung ương mua các chứng khoán làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, dự trữ trong hệ thống ngân hàng tăng lượng tiền cơ sở tăng làm cho cung tiền tăng khi đó lãi suất sẽ giảm điều đó kích thích đầu tư làm tăng trưởng kinh tế.

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2356 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ứng vào nền kinh tế, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát. 1.2. Người đề ra và vận hành chính sách tiền tệ. Do chính sách tiền tệ luôn luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực thi chính sách tiền tệ. Chủ thể đó không ai khác ngoài Ngân hàng nhà nước (NHTW). Đối với Việt Nam mặc dù thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ là quốc hội, nhưng Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để chính phủ xem xét trình quốc hội và là có quan hệ trực tiếp tổ chức thực hiện dự án chính sách tiền tệ sau khi đã được phê duyệt. 1.3. Việc quyết định và thực hiện chính sách tiền tệ. Ngân hàng nhà nước có nhiệm vụ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình chính phủ để chính phủ trình quốc hội. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn bởi quốc hội, chính phủ tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ quốc hội. 2. mục tiêu của chính sách tiền tệ. 2.1. ổn định giá trị đồng nội tệ 2.1.1. ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao thì lạm phát (sự gia tăng giá cả trung bình của hàng hóa theo thời gian) luôn là khả năng tiềm tàng thậm chí khó tránh khỏi ở các nước. Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội, làm phân phối lãi thu nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa bất động sản, vàng bạc… gây tình trạng khan hiếm hàng hóa giả tạo giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hóa tiêu dùng. Do đó, đời sống của người lao động sẽ khó khăn hơn. Thông qua chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương chất lượng cung ứng tiền tệ sẽ làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ giảm xuống. Như vậy tỷ lệ lạm phát giảm xuống, ngược lại khi nền kinh tế ở tình trạng thiểu phát thông qua chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương tăng cung tiền để duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải (thường thì tỷ lệ này ở hơn 10%) khi đó lạm phát lại là yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi đó lạm phát trở thành một công cụ điều tiết. Giá trị đối nội của đồng tiền tức là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước. 2.1.2. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái. Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hóa kinh tế, kinh tế – tài chính diễn ra rất nhanh. Tác động của hệ thống tài chính vượt ra khỏi gianh giới quốc gia để tác động đến hoạt động của nền kinh tế khác. Sự tác động này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức lương ngoại của nền kinh tế đó. Tỷ giá hối đoái là giá chuyển đổi từ một đơn vị tiền tệ nước này sang thành những đơn vị tiền tệ nước khác. Một sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến hoạt động kinh tế trong nước, đặc biệt là hoạt động xuất – nhập khẩu. Một tỷ giá hối đoái thấp (đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu gây bất lợi cho xuất khẩu vì lúc này hàng xuất khẩu đắt lên, khó bán cho nước ngoài. Do đó, sẽ gây bất lợi cho sự “dịch chuyển” ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước. Khi đó dự trữ ngoại hối sẽ bị giảm. Ngược lại, tỷ giá hối đoái cao (đồng bản tệ có giá trị thấp hơn so với ngoại tệ) có tác dụng bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu đắt lên, hàng xuất khẩu rẻ đi sẽ làm tăng cạnh tranh của hàng trong nước so với hàng hóa nước ngoài và dễ tìm được thị trường hơn. Lưu lượng ngoại tệ có xu hướng chuyển vào trong nước nhiều hơn khối lượng dư trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cao cũng gây khó khăn cho nhập khẩu làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập ngoại, và các doanh nghiệp có ý định nhập khẩu máy móc thiết bị. Do vậy, một tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều xuất hiện những tác động kép: tích cực và tiêu cực. Tùy vào mục tiêu của chính sách tiền tệ mà Ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh tỷ giá phù hợp với nền kinh tế nhằm ổn định nền kinh tế, khuyến khích nhập khẩu và kiểm soát nhập khẩu. 2.2. Tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế gọi là tăng trưởng khi tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP lớn hơn nhịp độ tăng dân số, việc thay đổi khối lượng tiền tệ cung ứng sẽ tác động lớn đến nền kinh tế. Khi khối lượng tiền tệ tăng, lãi suất thường giảm xuống, do vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mặt khác tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu tổng hợp sức mua hàng hóa trên thị trường tăng lên, hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp được tiêu thụ là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Nếu mức gia tăng của GDP cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì sẽ có tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi khối lượng tiền tệ giảm xuống lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên, đầu tư giảm dẫn tới tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền tệ sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy GDP giảm. 2.3. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Việc làm cho người lao động cũng là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ. ở nơi nào sức lao động là hàng hóa thì thất nghiệp là căn bệnh kinh niên. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn công ăn việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tăng. Nhìn tổng quát thì giữa lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm có mâu thuẫn đối nghịch nhau, đó là: Khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dẫn đến suy thoái và thất nghiệp. Ngược lại, khi mở rộng đầu tư để khắc phục suy thoái tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế thì lại khó kiềm chế lạm phát. 3. nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Do vậy, việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ phải phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nền kinh tế quốc gia cả trước mắt và tương lai. Về thực chất, chính sách tiền tệ hướng vào điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng trên bốn lĩnh vực quan trọng nhất là kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, kiểm soát ngoại hối, kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước, cụ thể là: 3.1. Kiểm soát cung ứng tiền và điều hòa lưu thông tiền tệ. Chính sách tiền tệ phải làm sao khống chế “khối lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kỳ nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kỳ đó. Nếu diễn đạt theo công thức của Karl Mark thì khối lượng tiền tệ thực tế trong lưu thông (KTT) phải luôn phù hợp với khối lượng tiền cần thiết (KCT) cho lưu thông thì tiện tệ mới ổn định. Theo K. Mark: KCT = H/V Trong đó: KCT: Lượng tiền cần thiết cho lưu thông. H: Tổng giá cả hàng hóa trong lưu thông. V: Tốc độ lưu thhông trung bình của tiền tệ. Tuy nhiên, khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan trọng là Ngân hàng trung ương phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả và tỷ giá hối đoái, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, về mức độ hoạt động thanh toán không bằng tiền mặt trong nền kinh tế… Từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc thiếu phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. 3.2. Kiểm soát hoạt động tín dụng. Khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu từ ba nguồn sau: - Vốn tự có của ngân hàng. - Vốn huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế. - Vay tái cấp vốn tại Ngân hàng trung ương. Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng tiền tệ, Ngân hàng trung ương sẽ sử dụng một số công cụ như lãi suất dự trữ tối thiểu bắt buộc, thị trường mở. Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, Ngân hàng trung ương sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có thể dự tính đến tỷ lệ lạm phát (nếu có). Hoạt động tín dụng này chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực sự có nhu cầu. Khi các Ngân hàng trung ương thiếu phương tiện thanh toán thì họ đến Ngân hàng trung ương xin vay tái cấp vốn. 3.3. Kiểm soát ngoại hối. Ngoại hối là danh từ chung cho các phương tiện được dùng để thanh toán quốc tế, ngoại hối bao gồm ngoại tệ (thường là ngoại tệ mạnh), vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ điều tiết khác. Để ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ, Ngân hàng trung ương thực hiện các giao dịch về tài chính tiền tệ và sử dụng một số chính sách để tác động tới khối lượng tiền tệ trên các phương diện sau: - Xây dựng và quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước. - Lập và theo dõi diễn biến cán cân thanh toán quốc tế. - Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế. - ổn định tỷ giá hối đoái để làm @@ lạm phát ổn định tỷ giá trong nước. - Quan hệ với các Ngân hàng trung ương khác, với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ có điều kiện ưu đãi khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối. 3.4. Chính sách đối với ngân sách nhà nước. Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn, chính sách tiền tệ cần phải xử lý mối tương quan của nó với chính sách tài khóa trước hết là với thu, chi của ngân sách. Các @@ của chính sách tiền tệ với ngân hàng tùy thuộc vào tình trạng cán cân ngân sách có cân bằng hay không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế nào vào lưu thông tiền tệ. 3.4.1. Trường hợp ngân sách cân bằng. Khi chính phủ thu ngân sách nghĩa là đã lấy ra khỏi lưu thông một số lượng tiền tệ và song song với việc đó là chính phủ chi số tiền ấy vào guồng máy kinh tế. Khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi vì nó được tăng giảm với khối lượng như nhau. Tuy nhiên nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiết kiệm và tiêu dùng. Trong khi chính phủ dùng số tiền thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chúng lại tăng lên, số đầu tư giảm dần, dần đến khả năng giá cả tăng lên. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư tư nhân giảm đi nhưng tổng đầu tư chung không đổi. Trong trường hợp ngân sách thăng bằng này chính sách tiền tệ tác dụng đến nền kinh tế có thể theo một trong hai hướng sau: - Chính sách tiền tệ chống suy thoái: Ngân sách thăng bằng, có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. - Chính sách tiền tệ chống lạm phát: Ngân sách thăng bằng vẫn có thể có tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá. 3.4.2. Trường hợp ngân sách thiếu hụt. Trong trường hợp này, chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách. Tác động của nó đối với nền kinh tế như thế nào sẽ tùy thuộc vào việc chính phủ vay ở đâu. Có bốn nguồn mà chính phủ có thể vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách đó là: - Vay dân cư. - Vay hệ thống tín dụng và tài chính trong nước. - Vay Ngân hàng trung ương. - Vay nước ngoài. Trường hợp vay Ngân hàng trung ương thì tiền sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền, khi chính phủ vay nước ngoài, thường là bằng vàng hay ngoại tệ, thì phải ký quỹ số vay được lãi Ngân hàng trung ương để rút tiền mặt ra chi tiêu làm khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên. Như vậy, cả hai trường hợp trên đều làm tăng khối lượng tiền tệ gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Trường hợp vay của dân cư và vay thị trường tài chính trong nước chỉ tác động nhẹ đến việc tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông nên hầu như không gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Do vậy, cách tốt nhất là phải phấn đấu thực hiện một ngân sách nhà nước thăng bằng. Không nên bội chi để bù đắp chi phí hành chính mà tối thiểu ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Chi cho đầu tư nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay nhân dân, các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và trên thị trường vốn (dài hạn). 3.4.3. Trường hợp ngân sách thặng dư. Rất ít khi xảy ra, chỉ xảy ra tại một thời điểm nhất định khi có thu nhưng chưa kịp chi. Đây là trường hợp rất quý vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. 4. các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. 4.1. Nghiệp vụ thị trường mở. Theo R.GlemHubbard - Đại học Columbia (Mỹ) thì “Nghiệp vụ thị trường mở là việc mua và bán các loại chứng khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi Fed”. (Money the financial system and the economy trang 500). Theo một tài liệu của Đại học Victoria New Zealand thì “Một nghiệp vụ thị trường mở xảy ra khi Ngân hàng trung ương thay đổi cơ sở tiền tệ bằng việc mua bán các chứng khoán tài chính trên thị trường mở”. Theo quá trình @@ “Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng”. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì thị trường tín phiếu kho bạc có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp. Các hoạt động trên thị trường mở có ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các Ngân hàng thương mại và ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở: - Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng) dù thay đổi đó theo hai hướng: - Khi Ngân hàng trung ương mua các chứng khoán làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, dự trữ trong hệ thống ngân hàng tăng lượng tiền cơ sở tăng làm cho cung tiền tăng khi đó lãi suất sẽ giảm điều đó kích thích đầu tư làm tăng trưởng kinh tế. Khi ngân hàng trung ương bán các chứng khoán làm lượng tiền lưu thông trên thị trường bị thu vào Ngân hàng trung ương làm cho lượng tiền cơ sở giảm làm cho cung tiền giảm khi đó lãi suất tăng làm cho đầu tư giảm xuống, độ tăng trưởng nền kinh tế giảm xuống. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ điều tiết chính sách tiền tệ có hiệu quả nhất so với các công cụ khác bởi tính ưu việt của nó: - Ngân hàng trung ương có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả naưng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng. - Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc có số tiền tệ dầu lớn hay nhỏ thế nào ngân hàng cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn nhỏ chứng khoán. - Nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu Ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở. - Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây lên sự chậm chễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ sở tiền dự trữ. Ngân hàng trung ương có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch. 4.2. Chính sách chiết khấu. - Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định và điều kiện vay của Ngân hàng trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng trung ương cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn, chủ yếu là các tín phiếu kho bạc và thương phiếu. - Cơ chế tác động: Chính sách chiết khấu được Ngân hàng trung ương sử dụng chủ yếu bằng cách tác động đến giá các khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá của khoản vay tăng, hạn chế khả năng vay của các Ngân hàng thương mại vì thế các Ngân hàng thương mại dần dần tăng lãi suất cho vay do đó làm giảm khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các Ngân hàng thương mại, lượng tiền cung ứng giảm. Điều này được áp dụng trong trường hợp nền kinh tế xảy ra lạm phát nhằm chống lạm phát. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu làm cho giá các khoản vay rẻ hơn. Điều này khuyến khích việc cho các Ngân hàng thương mại vay làm cho các Ngân hàng thương mại dần dần giảm xuống lãi suất tiền cho vay làm cho khả năng cho vay của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế tăng lên lượng tiền cung ứng tăng. Điều này thường được áp dụng trong trường hợp nền kinh tế ở mức thiểu phát. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để hành hương tới cơ sở tiền tệ và cung ứng tiền tệ chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính cho các Ngân hàng thương mại bởi Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng cung cấp dự trữ @@ cho những ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Tuy nhiên với công cụ này Ngân hàng thương mại thường huy động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng bởi vì Ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các Ngân hàng thương mại phải vay chiết khấu ở Ngân hàng trung ương. 4.3. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư. Dự trữ mang tính pháp luật bắt buộc được duy trì trên một tài khoản tiền gửi không được hưởng lại tại Ngân hàng trung ương. Dự trữ được xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của Ngân hàng thương mại. Việc quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định tùy thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Theo luật Ngân hàng nhà nước tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại nơi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. Cơ chế tác động: - Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các Ngân hàng thương mại. Theo thuyết tạo tiền gửi từ một lượng dự trữ ban đầu, hệ thống Ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều lần với công thức tổng quát: Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu Trong đó: là hệ số nhận tiền tệ với hai giả thiết Các Ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà các Ngân hàng trung ương yêu cầu. Các khoản tiền gửi do các Ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống ngân hàng. Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền bị thu hẹp hoặc tăng lên. Giả sử, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì với một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống Ngân hàng thương mại tạo ra một lượng tiền lớn gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền gửi mới do hệ thống Ngân hàng thương mại tạo ra tăng 5 lần, nếu dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% thì lượng tiền gửi mới do hệ thống Ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần. - Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống Ngân hàng thương mại. Vì tiền dự trữ bắt buộc phải mở tài khoản và gửi ở Ngân hàng trung ương, cho dù các Ngân hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên, khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại giảm làm cho các Ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Do đó lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế giảm. Ngược lại khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống, các Ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên. Việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buục để điều hành chính sách tiền tệ đã làm tăng quyền lực cho Ngân hàng trung ương bởi vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tùy theo mức vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm thực hiện việc thực hiện được áp dụng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng không phân biệt giữa các ngân hàng. Dự trữ bắt buộc còn đảm bảo khả năng thanh toán cho Ngân hàng thương mại giúp Ngân hàng thương mại tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán. Bên cạnh những ưu điểm của việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thì dự trữ bắt buộc cũng bộc lộ những mặt hạn chế cụ thể như sau: Dự trữ bắt buộc có thể làm thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc những lãi khá tốn kém về phí quản lý, việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây lên vấn đề khả năng thanh toán đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp. (Dự trữ vượt mức là phần dự trù của ngân hàng nằm ngoài dự trữ bắt buộc nhằm đáp ứng khả năng thanh toán cho khách hàng rút tiền….) Việc thường xuyên thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng làm cho việc quản lý khả năng thanh toán của những ngân hàng đó khó khăn hơn. 4.4. Hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buục các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng ngân hàng, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng, định hướng cơ cấu tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong nền kinh tế trong khoảng thời gian nhất định. Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng mà các Ngân hàng thương mại cung ứng cho nền kinh tế. Trong trường hợp các công cụ truyền thống (Thị trường mở, chính sách chiết khấu, dự trữ bắt buộc) sử dụng kém hiệu quả thì hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng không phát huy được hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ chưa nhạy cảm với sự biến động của lãi suất, hay Ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế được và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thì công cụ hạn mức tín dụng là cách cứu cánh của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi vì nó thiếu linh hoạt và đôi khi ngược lại với chiều hướng biến động của thị trường tín dụng. Do đó có thể đẩy lãi suất thị trường tăng lên làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các Ngân hàng thương mại, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ… 4.5. Công cụ lãi suất tín dụng. Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp để thực hành chính sách tiền tệ trong việc cung ứng tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền ra khỏi lưu thông. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhưng lại tác động mạnh tới việc quyết định tiết kiệm hay đầu tư qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả theo cơ chế tác động. Ngân hàng trung ương có thể tác động trực tiếp tới lãi suất thông qua việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay. Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc ngân hàng kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất ngân hàng cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng, song biện pháp này sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dự trữ vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản trong khi ngân hàng bị hẫng hụt về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay. Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh phải chấp hành. Khi mua tặng khối lượng cho vay Ngân hàng trung ương giảm mức lãi suất c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35397.doc
Tài liệu liên quan