Đề tài Phân công lao động trong nông nghiệp và nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa : thực trạng và giải pháp

 

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU . 3

 

Chương I : ThẾ nào là kinh tẾ nong thôn ( KTNT )

 

1.1.Khái niệm 4

1.2.Cơ cấu kinh tế . 4

1.3.Vai trị của KTNT 5

 

Chương II : ThỰc trẠng nỀn KTNT ViỆt Nam HiỆN NAY

 

2.1.Những thành tựu của nền kinh tế nông thôn Việt Nam . 6

2.2.Những tồn tại trong nền kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam . 10

 

Chương III : QU TRÌNH CNH-HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

 

3.1.Thế nào là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn? 14

3.2.Nội dung CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin . . 15

3.3.Sự cần thiết phải pht triển KTNT trong qu trình CNH-HĐH . 16

 

Chương IV : NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KTNT VIỆT NAM

 

4.1.Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững . 18

4.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế . . 19

4.3.Giải pháp đối với vốn đầu tư và chương trình pht triển . . 19

4.4.Sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác x . . 20

4.5.Vấn đề ngân sách, tài chính, tiền tệ và tín dụng . . 21

4.6.Những vấn đề bức xúc về x hội . . 22

 

KẾT LUẬN . 24

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân công lao động trong nông nghiệp và nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa : thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yển lớn trong trồng trọt như thực hiện phương châm “đất nào cây ấy" để tăng hiệu quả, chuyển dần những vùng đất trồng cây lương thực có giá trị thấp sang cây trồng co giá trị cao hơn. Trong những năm gần đây sn lượng tăng nhanh, so với những năm trước thì : sản lượng lạc tăng 34%, cà fê tăng 2,8 lần, cao su tăng 87% , hồ tiêu 68%, chè 27,3 % . Mặc dù trong nhưng năm gần đây giá cà fê giảm nhưng sản lượng xuất khẩu cà fê vẫn tăng nhanh. Cùng với cây cà fê là cây cao su là mặt hàng xuất khẩu có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 sau gạo và cà fê , sản lượng cao su xuất khẩu cao,Việt Nam đang mở rộng xuất khẩu rộng ra 30 nước trên thế giới , trong đó Trung Quốc là thị trường lớn nhất, thu hút đến 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Mía là cây công nghiệp ngắn ngày có tốc độ tăng trưởng nhanh, diện tích canh tác không ngừng được mở rộng đến nay có khoảng 400 ngàn ha. Sản lượng mía cũng tăng nhanh, hằng năm tăng khỏang 10% và hiện nay đạt 22 triệu tấn. Diện tích trồng mía cũng như sản lượng không ngừng được tăng lên là vì nhu cầu làm nguyên liệu cho các nhà máy đường hoạt động. Các loại cây ăn quả có chất lương cao phát triển cao, nhất là nho, vải thiều, mận, cam, thanh long, chôm chôm… đã đem lại hiệu quả kinh tế rõ nét ở vùng Nam Bộ và một số tỉnh phía Bắc, như Bắc Giang, Quảng Ninh đã vươn lên làm giàu nhờ mở rộng diện tích và tăng năng suất vải thiều, nổi bật là huyện Lục Ngạn (Bắc Giang). Trong cả nước sản lượng vải cam, chôm, bưởi, nho… không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng quả tươi cũng được tăng lên. Chăn nuôi phát triển toàn diện. Cùng với các ngành khác trong nông nghiệp chăn nuôi cũng có vị trí rất quan trọng, sự phát triển của nó đã tạo ra thu nhập và tạo mức lợi nhuận cho xã hội. Trong những năm gần đây số lượng đàn gia súc tăng liên tục, trung bình hàng năm đàn trâu tăng 5%, bò 10%, lợn 20%, đàn gia cầm tăng 25%. Trong đó chăn nuôi bò sữa là một nghề mới của thành phố HCM và HN. Năng lực của ngành thuỷ sản được tăng cường. Số hộ gia đình tham gia sản xuất thuỷ hải sản tăng nhanh. Hiện nay có 509 nghìn hộ chiếm 3,5% tổng số hộ sản xuất nông nghiệp. Số lượng tàu đánh bắt thuỷ hải sản tăng, có trên 123000 chiếc. Có nhiều tàu nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nét nổi bật nhất trong nuôi trồng thuỷ hải sản là số trang trại tham gia nuôi trồng cao, đem lại hiệu quả thiết thực. Cả nước có 16952 trang trại nuôi trồng thuỷ hải sản, được phân bố khắp 8 vùng trong cả nước. 2.1.2.Cơ cấu ngành nghề có chuyển biến tích cực : Cơ cấu ngành nghề trong nông thôn đã có sự thay đổi về tỷ trọng, khá rõ nét theo hướng tích cực. Số lượng các nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh. Tỷ lệ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng, trong năm 2001 chiếm 5,8%. Cơ cấu trong các nhóm hộ nông lâm thuỷ sản, hộ lâm nghiệp tăng lên, hộ nông nghiệp giảm xuống… 2.1.3.Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn được nghiên cứu và hoàn thiện : Thực hiện đường lối đổi mới theo hướng CNH-HĐH trong thời kỳ đổi mới trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có các biện pháp để xây dựng và nâng cao kết cấu hạ tầng nông thôn qua nhiều dự án phát triển của chính phủ : Điện khí hoá : điện khí hoá nông thôn đã có sự phát triển vượt bậc và khá toàn diện, cả nước có 7712 xã có điện (86,2%) các vùng chiếm tỷ lệ tăng cao nhất là miền núi Bắc Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Đặc biệt giá điện nông thôn cũng có xu hướng giảm. Đường giao thông : sau điện đường giao thông là một trong những yếu tố được nhà nước ta quan tâm và đầu tư trong những năm qua. Cả nước có 8641 xã có đường ô tô đến UBND xã. Tuy chất lượng đường giao thông còn thấp nhưng cũng đã có những tiến bộ vượt bậc. Trường học và y tế : hệ thống trường học ở nông thôn phát triển toàn diện. Đến nay có 99.9% số xã có trường tiểu học, 84,5% có trường trung học cơ sở. Hệ thống trường học được mở rộng trên toàn quốc, điều đó khuyến khích con em đến trường để nâng cao trình độ và hiểu biết của mình. Đồng thời với sự quan tâm và chính sách ưu đãi của nhà nước nên trẻ em các vùng dân tộc vùng sâu vùng xa, hải đảo đến trường ngày một nhiều hơn. Trong y tế việc mở rộng các cơ sở khám bệnh và tăng cường cán bộ ngành y cho cơ sở cung được quan tâm, thực hiện chủ trương đưa bác sỹ về miền núi khám và chữa bệnh cho nhân dân. Hiện nay đã có 8863 xã có trạm y tế, chiếm 99%. Thông tin liên lạc và cơ sở văn hoá : hệ thống thông tin liên lạc được Nhà nước hỗ trợ và phát triển đáng kể. Điểm bưu điện văn hoá xã là một mô hình thông tin văn hoá nông thôn mới được phát triển trong những năm gần đây, nhưng đã được phát triển trong cả nước. Hệ thống điện thoại không chỉ được phát triển đến trung tâm xã mà còn được toả ra đến các hộ gia đình ở nông thôn. Hệ thống cơ sở văn hoá tiếp tục phát triển, đến nay cả nước có 1452 xã có nhà văn hoá, 724 xã có thư viện. Trong đó cao nhất là ĐBSH .Măc dù số nhà văn hoá chưa nhiều nhưng đã và đang được khắc phục và đang từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Mạng lưới chợ : sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển theo cơ chế thị trường, lấy sản xuât hàng hoá làm hướng chính tạo tiền đề và điều kiện để phát triển mạng lưới chợ. Đến nay cả nước có 7153 xã có chợ. Không chỉ tăng nhanh về số chợ mà chất lượng chợ cũng được tăng nhanh. Tỷ lệ chợ được xây kiên cố tăng còn chợ tạm giảm xuống. Cơ cấu về mặt hàng ở chợ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Những tiến bộ mà nhà Nước đạt được trong nông nghiệp đã chứng tỏ nền kinh tế nông thôn Việt Nam ngày càng phát triển và đang đi theo con đường CNH-HĐH. Bộ mặt nền kinh tế nông thôn ngày càng khởi sắc, theo hướng đi lên đến trình độ văn minh hiện đại. 2.2.Những tồn tại trong nền kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam : 2.2.1.Chuyển đổi kinh tế nông thôn còn chậm : Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn rất chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hoá. Trong cơ cấu tổng thu nông-lâm-ngư nghiệp thuỷ sản thì thu từ ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn (79,9%). Trong trồng trọt thì trồng cây lương thực vẫn là chủ yếu. Nhiều loại cây công nghiệp cho hiệu quả kinh tế lớn chưa được đầu tư đúng mức, tỷ trọng cây công nghiệp còn thấp (10%). Cơ cấu các ngành nông-lâm nghiệp và thuỷ sản cũng có sự thay đổi hướng theo chiều tăng của thuỷ sản và giảm nông-lâm nghiệp nhưng quá trình diễn ra còn rất chậm, so với yêu cầu của CNH-HĐD nông thôn thì quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động của hộ nông thôn còn chậm và phát triển không đều. 2.2.2.Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng phục vụ sản xuất nông nghiệp : Mặc dù đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung chuyên sản xuất hàng hoá nhưng hiện tại các yếu tố phục vụ sản xuất, công nghệ vẫn còn thiếu và không đồng bộ. Kết cấu hạ tầng còn thấp kém đã làm hạn chế việc khai thác và phát huy thế mạnh các tiềm năng kinh tế. Cụ thể là : Hệ thống thuỷ lợi : hiện tại chủ yếu phục vụ sản xuất lúa, chưa đáp ứng được nhu cầu của cây trồng khác. Nhiều vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày như cà fê, hồ tiên… đang thiếu nước trầm trọng làm giảm năng suất, chất lượng sản phẩm. Việc chú trong phát triển không đồng đều về hệ thống thuỷ lợi đã làm cho nền nông nghiệp phát triển chậm và chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai lũ lụt và hạn hán. Hệ thống giao thông vận tải : trên đồng ruộng cũng như đường sá vận chuyển đến nơi tiêu thụ xấu, làm tăng chi phí vận chuyển, giảm chất lượng sản phẩm, làm mất sức cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay bình quân 1km2 đất nông nghiệp chỉ có 320m đường ôtô, ở miền núi chỉ đạt 100m mà chủ yếu là đường đất chất lượng thấp không đảm bảo cho vận chuyển lớn, có 50% đường cấp xã mùa mưa không thể đi vào được. Đây là vấn đề cấp bách hiện nay, với đường xá như vậy là một khó khăn lớn cho phát triển kinh tế nông thôn . Hệ thống điện khí hoá : mặc dù nhà nước đã có nhiều biện pháp cung cấp điện cho từng hộ gia đình trong cả nước nhưng vẫn còn một số khó khăn chưa giải quyết được. Vẫn còn 1238 xã chưa có điện, chiếm 14%. Hơn thế nữa giá điện ở đây rất đắt. Ở nông thôn thu nhập thấp thì giá điện lại cao còn ở thành thị thu nhập cao hơn thì giá điện lại rẻ hơn. Giá điện dùng cho nông ngiệp chủ yếu là đáp ứng nhu cầu nhỏ cho thuỷ lợi, xay xát gạo, chế biến nông sản… còn cao. Cơ khí hoá nông nghiệp còn hạn chế : do hạ tầng nông nghiệp nông thôn còn thấp kém đất canh tác chia nhỏ cho từng hộ gia đình nên việc đưa cơ khí hóa vào sản xuất là khó khăn nên vẫn chủ yếu là lao động thủ công. Một khó khăn nữa cho nền kinh tế nông thôn là nông dân còn nghèo, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển, máy móc thô sơ. Hệ thống trường học : hiện nay đã được nhà nước đầu tư và quan tâm nhưng vẫn tồn tại nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta tuy có giảm nhưng vẫn còn cao. Số trẻ em đến trường chưa cao đặc biệt là ở vùng cao. Người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của học thức thêm vào đó là kinh tế còn nghèo không có điều kiện cho con đến trường. Đây là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm. Sự phân bố mạng lưới y tế : ở nông thôn không đồng đều. Ở miền núi các trạm y tế vẫn chưa phát triển đặc biệt là vùng Đông Bắc và Tây Nguyên. Các trạm y tế chưa có đủ máy móc để khám và chữa bệnh. Y tế có vai trò rất quan trọng vì có sức khỏe thì mới có thể tham gia lao động và sản xuất. 2.2.3.Các hoạt động dịch vụ chưa phục vụ kịp thời cho sản xuất nông nghiệp : Dịch vụ cung ứng phân bón và vật tư nông nghiệp : hệ thống tổ chức và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động này còn chưa hợp lý. Dịch vụ cung ứng giống cây trồng vật nuôi của các cơ sở nhà nước : không đáp ứng đủ nhu cầu mà chủ yếu do tư nhân đảm nhiệm, chưa được quản lý chặt chẽ nên chất lượng chưa cao, sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ về vốn : còn nhiều yếu kém. Các tổ chức cung ứng vốn của nhà nước quy mô vốn nhỏ, khả năng cấp vốn nhỏ, chưa có các chính sách cũng như biện pháp đầy đủ để phát triển, điều kiện thế chấp còn nhiều bất cập và chưa phổ biến. Sự phân định cơ chế thị trường và chính sách ưu đãi tín dụng chưa rõ ràng. Mặt khác thị trường tài chính nông thôn còn chưa phát triển nên chưa phục vụ cho sản xuât hàng hoá ở nông thôn. Dịch vụ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật : còn chưa phát triển do chưa gắn với thực tế, chưa gắn với sản xuất kinh doanh của nông dân. Ngược lại quyền lợi của một số trung tâm nghiên cứu chưa cao. 2.2.4.Chất lượng nông sản hàng hoá chưa đáp ứng thị trường, chủng loại đơn điệu, khả năng cạnh tranh kém, giá trị thấp khó tiên thụ : Nhiều nông sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế, sản phẩm qua chế biến, tinh chế chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, lượng xuất lớn nhưng giá trị thấp. Bao bì mẫu mã chưa được cải tiến nên chưa thu hút được người mua. Hơn nữa giá thành hàng nông sản còn cao. Công nghệ sau khi thu hoạch như bảo quản, chế biến trong tình trạng cũ kỹ và lạc hậu dẫn đến tổn thất sau khi thu hoạch là rất lớn. Trong chế biến mức tiêu hao cao, tỷ lệ thu hồi thấp, giá thành cao nhưng chất lượng sản phẩm thấp, chưa đảm bảo chất lượng quốc tế. Tác động của công nghiệp đến nông nghiệp chưa rõ rệt, công nghiệp chế biến hàng nông sản yếu kém, các khâu làm đất, vận chuyển, thu hoạch... vẫn sử dụng nhiều công đoạn thủ công và lao động sống. Do vậy mà năng suất lao động thấp và chất lượng chưa cao. Thêm vào đó là đất đai bị chia nhỏ với mức bình quân đầu người thấp. Việc phân chia như thế có tác dụng đảm bảo cho “người cày có ruộng” nhưng lại có nhược điểm là tính bình quân quá cao ràng buộc chặt hơn giũa người nông dân và ruộng đất, với trồng trọt dẫn đến lao động dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp làm cho khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa. 2.2.5.Thị trường nông sản phẩm : Thị trường trong nước: do hộ cá thể, tư nhân đảm nhiệm cho nên chưa có tổ chức, hàng hoá ứ đọng, khó tiêu thụ, giá không tăng được mà còn bị ép giá. Phương thức tiêu thụ tản mạn và không gắn bó với sản xuất, tình trạng hộ nông dân vừa sản xuất vừa lo tìm nơi tiêu thụ khá phổ biến. Chưa xây dựng được chiến lược thị trường nông sản nội địa, việc sản xuất, tiếp thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng sản xuất hàng hoá nên chưa có hiệu quả đối với sản xuất. Tình trạng ứ đọng hàng hoá, giá cả không ổn định. Cơ chế chính sách về thị trường và chính sách quản lý vĩ mô luôn thay đổi làm cho không ít các doanh nghiệp lúng túng thay đổi không kịp không định hướng được hoạt động kinh doanh. Nay hàng nhập lậu vào Việt Nam rất nhiều, hàng giả thao túng chèn ép nông sản hàng hoá ngay trên thị trường nội địa. Thị trường xuất khẩu : Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới trong điều kiện thế giới đang phân chia. Các doanh nghiệp còn non trẻ, hệ thống quản lý con yếu đã phải cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn là các nhà xuất khẩu chính nhưng do chân hàng yếu hoặc không ổn định nên thường phải gom hàng qua trung gian. Kết quả là không chủ động trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm. Hơn nữa các tổ chức thông tin còn kém phát triển nên chưa nắm bắt được thông tin kip thời. Cùng với đó là trình độ quản lý yếu kém điều hành sản xuất thiếu đồng bộ chưa phù hợp với thông luật quốc tế, về khả năng tiếp thị của doanh nghiệp còn yếu nên giá bán nông sản thường bị ép giá thua thiệt trên thị trường thế giới. Tiêu thụ nông sản khó khăn, giá cả bất hợp lý đó là vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Việt Nam, nó tác động tiêu cực tới nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân và thực tế đã giảm đi cầu của công nghiệp và dich vụ. Thị trường nông thôn yếu kém đã ảnh hưởng tới đầu ra của sản phẩm nông nghiệp. Tư thương đã chi phối gần như tất cả thị trường nông thôn cả miền Nam cũng như miền Bắc. Chương III : QUÁ TRÌNH CNH-HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 3.1.Thế nào là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn? 3.1.1.Định nghĩa : CNH-HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hoá điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm. CNH-HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nghành dịch vụ và công nghiệp, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. 3.1.2.Một số quan điểm của Đảng ta trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam : CNH nông nghiệp nông thôn là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng trong quá trình CNH-HĐH. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực cho CNh-HĐH nông nghiệp nông thôn. Chú trọng phát huy nguồn lực con người và phát triển lực lượng sản xuất, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá với quy mô lớn với chất lượng cao. Đồng thời không quên nhiệm vụ bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên va giảm nhẹ thiên tai. CNH nông nghiệp nông thôn phải dựa vào nội lực là chủ yếu đồng thời phải tăng sự đầu tư của nước ngoài, phát huy mọi tiềm năng kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa các vấn đề xã hội nhằm giải quyết tốt công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho người nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Đầu tư và phát triển kinh tế ở các khu vực quan trọng của đất nước như các vùng xung yếu, các vùng hải đảo, biên giới. Phù hợp với chiến lược quốc phòng an ninh toàn dân. 3.2.Nội dung CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin : Theo Lênin CNH nông nghiệp nông thôn là quá trình cơ khí hoá tự động hoá các nghành sản xuất nông nghiệp, cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng, bao gồm nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp dịch vụ, thúc đẩy phân công lao động, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hiện đại hoá là quá trình nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng nâng cao đời sống tinh thần, hệ thống giáo dục, y tế, hoàn thiện con người. 3.2.1.Hợp lý hoá phân công lao động xã hội : Thực hiện quá trình tách rời, độc lập hoá chuyên môn hoá ngành nghề ở nông thôn, Lenin đã khẳng định thực hiện sự phân công lao động xã hội là nhằm “biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng mà cả việc sản xuất riêng từng bộ phận riêng của sản phẩm và không những việc sản xuất sản phẩm mà cả từng thao tác trong việc chế biến sản phẩm tiêu dùng, thành một ngành công nghiệp riêng biệt”. Ông chỉ rõ phân công lao động công nghiệp và phân công lao động trong nông nghiệp. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong phương pháp luận đối với việc chỉ đạo quá trình phân công lao động xã hội trong nông nghiệp. Chuyên môn hoá trong nông nghiệp biểu hiện trong việc hình thành các vùng chuyên doanh trồng trọt, vùng chăn nuôi, vùng công nghiệp chế biến. Điều này đòi hỏi một trình độ khoa học phát triển và sự chỉ đạo sáng suốt của chính phủ. Thực hiện tiết kiệm lao động, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. Đứng trên quan điểm xã hội thì năng suất lao động tăng đồng nghĩa với việc tăng tiết kiệm lao động. C.Mac viết “nguyên vật liệu phải được tiêu dùng một cách hợp lý, bởi vì vật liệu hay nguyên vật liệu lao động bị tiêu một cách hoang phí là những lượng lao động vật hoá bị tiêu hao một cách vô ích do đó chúng ta không được tính đến và không tham gia vào việc hình thành giá trị sản phẩm”. Lênin cũng rất coi trọng viêc phân bố hợp lý lực lượng sản xuất đối với nhiệm vụ CNH-HĐH. Theo ông phân bố hợp lý lực lượng sản xuất đòi hỏi phải sử dụng đầy đủ các nguồn dự trữ lao động và tài nguyên thiên nhiên của tất cả các vùng, bố trí sản xuất ngay tại địa phương để tiện chuyên chở và sản xuất, sử dụng nguồn lao động tại chỗ. 3.2.2.Áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp : Đó chính là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Lenin đánh giá cao vai trò của KHKT trong việc phát triển kinh tế nông thôn. Ông cho rằng một nước nông dân đặc sệt, muốn nâng cao trình độ lao động của họ lên thì phải trải qua nhiều năm phát triển KHKT. 3.2.3.Thực hiện liên kết công-nông nghiệp : Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong phân công lao động xã hội. Một nền kinh tế muốn phát triển tất yếu phải có sự phát triển và sự phối hợp đồng đều giữa các ngành trong nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến cho thấy nông nghiệp phát triển như thế nào. Ông viết “sự phát triển kỹ thuật chế biến nông sản thường gắn liền với sự tiến bộ của KHKT trong nông nghiệp, một mặt việc sản xuất nguyên liệu chế biến đòi hỏi phải cải tiến nông nghiệp, mặt khác những phế liệu trong việc chế biến thường đem dùng vào nông nghiệp làm cho sản lượng nông nghiệp tăng lên. Hình thức liên kết của công nghiệp và nông nghiệp là một hình thức lưu thông hàng hoá, qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Hình thức này làm thúc đẩy sản xuất phát triển và sự phân công trong sản xuất cũng sâu sắc hơn. 3.2.4.Cơ khí hoá tự động hoá sản xuất nông nghiệp : là cơ sở kinh tế duy nhất của CNXH. Thực hiện cơ khí hoá nông nghiệp nông thôn là áp dụng có hiệu quả các thành tựu của công nghiệp cơ khí, KHKT như máy móc công cụ cải tiến. Lenin cho rằng một nền công nghiệp dựa vào trình độ KHKT hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp đó là điện khí hoá cả nước. 3.2.5.Hoàn thiện nhân tố con người : Đây là một nội dung quan trọng trong CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn . CNH đòi hỏi không chỉ những con người có trình độ KHKT, thành thạo chuyên môn mà còn cần có tác phong làm việc công nghiệp, kỹ thuật lao động, tinh thần chủ động và ý thức trách nhiệm. Để tạo ra được những con người như vậy đòi hỏi phải bảo đảm các điều kiện về văn hoá giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở các vùng nông thôn, có chính sách thu hút cán bộ KHKT làm việc ở nông thôn. 3.3.Sự cần thiết phải phát triển KTNT trong quá trình CNH-HĐH : CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn làm biên đổi cơ bản, toàn diện KT-XH về cả nội dung lẫn hình thức tổ chức sản xuất, cả quy hoach tổ chức sản xuất, quy hoạch đồng ruộng, quy hoach nông thôn lẫn đời sống nhân dân. Mục tiêu của quá trình này gồm các vấn đề : chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấucây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ ngoài đồng, nhằm xoá đói giảm nghèo, công bằng xã hội, đô thị hoá nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn gắn liền với việc hợp tác hoá và phát triển nông nghiệp chế biến hàng nông sản. Hợp tác là con đường tiến tới sản xuất lớn và là nền tảng của nền kinh tế nông thôn. Hiện nay Việt Nam đang trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới do đó không chỉ giới hạn trong việc hợp tác với các doanh nghiệp trong một nước mà còn liên doanh với nhiều nước trên thế giới. Hợp tác xuất phát từ sự tự giác do bản thân mỗi người. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn không thể thiếu ngành chế biến sản phẩm nông sản, nhờ đó mới chuyển nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá. CNH-HĐH áp dụng các tiến bộ KHKT nhằm tạo nhiều chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, có giá trị lớn. KHKT đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế nông thôn. Chỉ có KHKT mới có thể tạo ra được những giống lúa mới, nâng cao cơ sở vật chất, thiết bị máy móc hiện đại tạo điều kiện tốt cho nông nghiệp phát triển. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn kết hợp chặt chẽ vấn đề KT-XH để giải quyết việc làm, xoá đòi giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất. Văn hoá giáo dục, y tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông thôn. Đó là một trong những nhân tố để giúp cho nông nghiệp nông thôn thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn thúc đẩy sự phân công lao đông xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo ra năng suất và giá trị mới. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có chính sách khuyến khích tối đa mọi nguồn đầu tư trong nước và quốc tế nhằm phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn, kể cả việc xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là một số khu công nghiệp quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế xã hội ở nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân nghèo. Ở đây, vấn đề quan trọng là phải làm sao cho không để nông thôn bị bần cùng hoá do không có đất sản xuất, thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý theo tiến trình CNH-HĐH. Trong những năm qua CNH nông thôn đã có những bước phát triển tốt, cơ cấu thị trường thay đổi, đáp ứng nhu cầu thị trường, kết hợp các làng nghề thủ công, phát triển và đổi mới công nghệ trên cơ sở các ngành nghề cũ. Nhiều mặt hàng có giá trị đã xuất hiện trên thị trường. Các ngành nghề chế biến nông lâm thuỷ sản phát triển. Chương IV : NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KTNT VIỆT NAM 4.1.Thực hiện chính sách kích cầu, phát triển nông thôn bền vững : Trước tình trạng tuy được mùa, nhưng thu nhập của nông dân bị giảm sút do giá nông sản xuống thấp (Theo đại biểu Hà Văn Phụng, Bắc Cạn, thì năm nay, giá sụt giảm 20 - 30% so với năm 2000); giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới có chiều hướng đi xuống cũng làm tăng thêm sức ép đối với đời sống nông dân; Chính phủ đã đề ra chính sách cho mua tạm trữ một triệu tấn gạo với giá ưu đãi (1300 đồng/kg lúa). Nhiều đại biểu Quốc hội đã nêu vấn đề ai là người hưởng lợi nhiều hơn từ chính sách này? thay vì nông dân, thì chính mạng lưới thu mua trung gian được hưởng lợi nhiều hơn. Ðối với nông nghiệp và nông thôn, các công trình thuỷ lợi có tầm quan trọng sống còn, do đó, bên cạnh đầu tư của địa phương và đóng góp của nhân dân như hiện nay, nhà nước cần chú trọng đầu tư vào nâng cấp các công trình thuỷ lợi phục vụ dự trữ và tưới tiêu; đặc biệt các công trình kịp phục vụ thoát lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Sức mua ở nông thôn đang có chiều hướng giảm nghiêm trọng do thu nhập ngày càng sút kém và chi phí sản xuất lại tăng lên. Một số đại biểu kiến nghị hàng loạt các biện pháp hỗ trợ qua thuế để giảm chi phí đầu vào cho nông dân và tăng khả năng và hiệu quả ổn định tiêu thụ hàng nông sản như: Miễn toàn bộ không phân biệt hoặc miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạn điền: đất canh tác lúa từ 1-2 ha thì miễn, diện tích đất trên 2 ha thì giảm 50% thuế giảm miễn thuế nhập khẩu vật tư nông nghiệp, thuế từ dịch vụ thủy lợi cho nông dân; hạn chế nhập khẩu nông sản qua chính sách thuế nhập khẩu đối với nông sản; có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản. Giải pháp kích cầu phải đi đôi với các chính sách giáo dục cộng đồng khác về ý thức tiêu thụ hàng sản xuất trong nước; nhất là sản phẩm mua bằng nguồn kinh phí của Nhà nước thì phải ưu tiên mua sản phẩm trong nước; kết hợp với tăng cường có hiệu quả mặt trận chống buôn lậu và áp dụng các biện pháp nghiêm khắc đối với hành vi buôn lậu. Ðể kích cầu tiêu thụ, nên nghiên cứu các cơ chế tín dụng ưu đãi khuyến khích các do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân công lao động trong nông nghiệp – nông thôn trong quá trình Công nghiệp hóa - thực trạng và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan