Đề tài Phân tích cơ sở khoa học của việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế

LỜI NÓI ĐẦU 1

VẤN ĐỀ THIẾT LẬP VÀ ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ 3

1.1 Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế: 3

1.2 Phân tích nội dung của cán cân thanh toán quốc tế: 4

1.2.1 Nội dung của cán cân thanh toán Quốc tế: 4

A. Tài khoản vãng lai: 4

B. Tài khoản vốn và tài chính: 6

C. Tài khoản dự trữ: 7

D. Sai sót thống kê: 8

1.2.2 Phân tích nội dung cán cân thanh toán : 8

A. Dư thừa và thiếu hụt cán cân thanh toán. 8

B. Phân tích tài khoản vãng lai: 9

B. Phân tích tài khoản vốn và tài chính. 14

C. Phân tích tài khoản dự trữ và tài trợ: 16

1.3 Nguyên tắc bút toán của cán cân thanh toán quốc tế. 18

1.3.1 Nguyên tắc hạch toán nợ/có: 18

1.3.2 Nguyên tắc hạch toán trên cơ sở cơ số phát sinh. 19

1.3.3 Nguyên tắc hạch toán trị giá toàn bộ và trị giá ròng: 19

1.3.4 Nguyên tắc định giá các giao dịch : 20

1.3.5 Các thời kỳ và thời gian ghi chép. 20

1.3.6 Đơn vị tính. 20

1.4 Các cơ chế điều chỉnh và kinh nghiệm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế ở các nước đang phát triển. 21

1.4.1 Các cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán. 21

A. Nhóm lý thuyết Keyness. 21

1. Cơ chế điều chỉnh thu nhập 21

a. Xác định thu nhập quốc dân. 22

b. Số nhân trong nền kinh tế mở. 23

c. Những tác động cụ thể đến cán cân thương mại thông qua cơ chế điều chỉnh thu nhập. 24

2. Các cơ chế điều chỉnh theo hệ số co giãn . 25

3. Cơ chế điều chỉnh chi tiêu. 26

B. Nhóm lý thuyết tiền tệ 27

1.4.2 Kinh nghiệm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế ở một số nước đang phát triển. 28

Chương 2: 31

THỰC TRẠNG CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM. 31

2.1 Vấn đề thiết lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam 31

2.1.1 Cơ sở pháp lý của việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam 31

A. Nguyên tắc lập cán cân thanh toán 32

B. Cơ cấu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam 33

C. Trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc thiết lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán 34

2.1.2 Tình hình thu thập số liệu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam 35

A Thu thập cán cân vãng lai 36

B. Thu thập số liệu về cán cân vốn và tài chính 37

C. Thu thập số liệu tài sản dự trữ 37

2.1.3 Những khó khăn khi thiết lập cán cân thanh toán của Việt Nam 37

A. Xác định cư trú 38

B. Thu thập số liệu 38

C. Xác định giá trị. 39

2.2. Thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay. 40

2.2.1. Cán cân tài khoản vãng lai. 41

A. Cán cân thương mại 42

B. Cán cân tài khoản dịch vụ. 45

C. Thu nhập đầu tư ròng nước ngoài. 45

D. Chuyển giao một chiều 46

doc91 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích cơ sở khoa học của việc thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-442 140 562 373 257 1200 1050 150 2079 1813 891 98 772 674 249 224 67 -280 280 -261 1056 178 -289 0 0 - 439 -1659 -1315 9145 10460 -623 2530 3153 -606 136 742 427 348 885 710 715 1662 2074 1002 357 1007 632 394 -612 -3 1 -1 -318 -11 -54 -409 54 0 -264 -1062 -981 9365 10346 -539 2604 3143 -664 133 797 439 246 1122 950 172 216 800 240 432 1121 690 349 -644 372 -519 519 -14 -50 -78 -555 78 413 64 -1977 -1500 10000 11500 -705 2781 3486 -1020 133 1153 451 250 1248 950 298 1953 630 1200 1155 1360 570 352 689 -45 -68 68 -52 -24 -66 -670 83 0 92 -1577 -892 14308 15200 -641 2895 3536 -1127 128 1201 463 271 1083 948 135 809 600 1217 1238 1317 944 371 255 70 768 -768 -1284 -130 -32 637 113 0 548 Nguồn: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Trang worldbank.com.vn; Tạp chí ngân hàng số 10/2000, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 12/2001; Trang Vitranet.com.vn 2.2.1. Cán cân tài khoản vãng lai. Trong giai đoạn 1990-1999, do cải cách kinh tế các giao dịch kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã thay đổi một cách nhanh chóng. Thiếu hụt cán cân vãng lai giảm mạnh từ năm 1990 và 1992 vì các nguồn tài trợ truyền thống từ Liên Xô cũ cạn kiệt trong khi nguồn tài trợ mới chưa có. Từ năm 1993, Việt Nam có những nguồn tài trợ từ các quốc gia khác để hỗ trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai. Từ năm đó đến năm 1996 thâm hụt cán cân vãng lai tăng lên. Trong những năm 1997-1998, thiếu hụt cán cân vãng lai liên tục giảm do hạn chế nhập khẩu và ảnh hưởng khủng hoảng châu, đối với Việt Nam. Nhưng từ năm 1999 đến năm 2000 con số này tăng lên từ 1% đến 5,3%. Bảng 2: thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam 1990-2000 Đơn vị: %GDP Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Mức thâm hụt theo % GDP -0,04 -0,0 0,0 -10,9 8,9 -9,3 -10,4 -6,8 -4,4 -1 -5,3 Nguồn : Niêm giám thống kê 1998-Nhà xuất bản thống kê Hà Nội, 1999 và thời báo kinh tế Sài Gòn số 2/2000, tạp chí tài chính số 3/2000 Bảng 2 cho thấy rằng theo % GDP, thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn 1990-1992 là rất nhỏ và gần bằng năm 1992. Thiếu hụt cán cân vãng lai tăng vọt lên 10,9% trong năm 1993 và giảm xuống 8-10% GDP đến năm 1996. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng khu vực làm giảm luồng đầu tư trực tiếp FDI, giảm cả số lượng dự án mới và những chi tiêu của dự án đã được cấp giấy phép hoạt động. Do đó, các chi tiêu của FDI vào nhập khẩu máy móc thiết bị cũng giảm. Nguyên nhân chủ yếu của giảm thiếu hụt tài khoản vãng lai là do giảm trong nhập khẩu chứ không phải tăng xuất khẩu. Năm 1999 đến năm 2000, thâm hụt cán cán vãng lai tăng từ 1 đến 5,3% do nhập khẩu tiếp tục tăng. A. Cán cân thương mại Sau 10 năm đổi mới, chính sách ngoại thương đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện theo hướng tự do hơn thương mại (trước hết là đối với mặt hàng xuất khẩu nhằm khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu lấy ngoại tệ để nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước). Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình 37,5% mỗi năm trong khi tăng trưởng nhập khẩu trung bình là 15.8% do giảm trong nhập khẩu những hàng hoá quan trọng như ximăng, phân bón từ Liên Xô cũ. Bảng 3: Tình hình xuất nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam từ 1991 đến 7 tháng đầu năm 2001 Đơn vị : triệu USD Năm Xuất khẩu (triệu USD) Tăng, giảm (%) Nhập khẩu (triệu USD) Tăng, giảm (%) Nhập siêu (Triệu USD) Tỷ lệ nhập siêu (%) Thâm hụt thương mại trên GDP 1990 2404,0 23,5 2752,4 7,3 348,4 14,5 -0,60 1991 2078,1 -13,2 2338,1 -15,1 251,0 12,0 -0,70 1992 2580,7 23,7 2540,7 8,7 -40,0 - -0,60 1993 2985,2 15,7 3924,0 54,4 938,8 31,4 -0,90 1994 4054,3 35,8 5825,8 48,5 1771,5 43,7 -7,60 1995 5448,9 34,4 8155,4 40,0 2706,5 49,7 -11,80 1996 7255,9 33,2 11143,6 36,6 3887,7 53,6 -13,70 1997 9185,0 26,6 11592,3 4,0 2407,3 26,2 -5,40 1998 9361,0 1,9 11495,0 -0,8 2134,0 22,8 -3,70 1999 11523,0 23,1 11636,0 0,9 113,0 1,0 -1,05 2000 14308,0 24,0 15200,0 30,8 892,0 6,2 -6,20 7th/2001 9011,0 13,0 9230,0 7,9 219,0 2,3 Nguồn: vneconomic.com.vn và Vitranet.com.vn Từ năm 1993, thiếu hụt cán cân thương mại đã tăng đến năm 1996 với việc nhập khẩu tăng đột ngột so với xuất khẩu và đạt ở mức báo động (13,7%GDP). Thời kỳ này chúng ta nhập nhiều máy móc thiết bị mới phục vụ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Có ý kiến cho rằng mức nhập siêu như trên là bình thường với một nước đang tăng trưởng, còn có ý kiến lại đặc biệt lo ngại về tình trạng kinh tế nhập siêu nói trên. Tuy nhiên, các ý kiến đó đúng hay sai vẫn không quan trọng bằng việc kinh tế Việt Nam đã ngày càng phát triển và tồn tại bền vững chắc chắn sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. Sau năm 1996, chính phủ đã thực hiện một số biện pháp để hạn chế nhập để giảm thiếu hụt và cải thiện cán cân vãng lai. Một số biện pháp đã được áp dụng: thứ nhất, nâng cao tiền đặt cọc khi mở L/C đối với nhập khẩu tiêu dùng; thứ hai, cấm nhập tạm thời đối với một số hàng hoá vào tháng 5/1997. Hơn nữa, xí nghiệp liên doanh cần có giấy phép trong nhập khẩu một số hàng hoá nhất định. Thay thế nhập khẩu được hỗ trợ đối với một số sản phẩm như ximăng và giấy bằng cách đánh thuế cao đối với sản phẩm nhập siêu cùng loại. Kết quả là thâm hụt thương mại giảm. Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn 1997-1998, mặc dù thiếu hụt thương mại giảm nhưng nó không phải là kết quả của việc tăng xuất khẩu mà là giảm nhập khẩu. Vấn đề nảy sinh ở đây là cải thiện cán cân thương mại Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu. Trong trường hợp của Việt Nam, cải thiện cán cân thương mại là rất khó khăn vì chế độ thương mại của Việt Nam thiên về chiến lược thay thế nhập khẩu chứ không phải là hướng vào xuất khẩu. * Thành phần xuất khẩu + Dầu thô: Từ 1991 đến nay, tỷ trọng xuất khẩu của mặt hàng này chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 1990-1994 sau đó giảm xuống dưới 20% tổng xuất khẩu 1995-1998 và từ đó đến nay lại tăng trên 20%. Nguồn thu từ dầu thô có thể bù đắp nhập khẩu xăng dầu khoản được coi là lớn nhất trong tổng nhập khẩu. Thặng dư cán cân thương mại dầu tăng từ 96 triệu USD năm 1996 đến 319 triệu năm 1997, 408 triệu năm 1998, 1054 năm 1999, 1444 năm 2000 và 883 triệu trong 7 tháng đầu năm 2001. + Gạo: Xuất khẩu gạo đóng vai trò quan trọng trong các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Do cải cách kinh tế đặc biệt cải cách trong sử dụng đất và trong giá cả, Việt Nam chuyển từ nhập khẩu gạo sang xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chiếm tỷ trọng 10-12% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên do chất lượng gạo không cao nên giá xuất khẩu chỉ giữ ở mức 200 - 280 USD/tấn thấp hơn giá thị trường thế giới nhưng Việt Nam vẫn cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu 3,6 triệu năm 97 và 3,74 triệu tấn năm 98; 4,5 triệu tấn năm 99; 3,5 triệu tấn năm 2000; 2,38 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2001. + May mặc: Từ năm 1994, đã có sự thay đổi lớn trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh đuổi kịp và vượt mặt hàng gạo, chỉ đứng sau dầu mỏ, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 1892 triệu USD, 7 tháng đầu năm 2001 đạt 1138 triệu USD. Sở dĩ như vậy vì chúng ta có hạn ngạch vào Châu Âu. Mặt hàng giày dép và hải sản cũng chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu chính ở trên, những mặt hàng khác như cao su, cà phê, hạt điều, đã tăng một cách đáng kể đồng thời đóng vai trò quan trọng trên thị thường thế giới. * Thành phần nhập khẩu : Nhóm hàng chủ yếu là tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu.. Những mặt hàng này chiếm 80%-90% tổng kim ngạch nhập khẩu trong khi hàng tiêu dùng nhập khẩu chỉ chiếm từ 10%-17%. Để hạn chế nhập khẩu, tháng 5/1996, chính phủ đã quy định giá trị tiêu dùng không vượt quá 20% kim ngạch nhập khẩu. Vì vậy năm 1997, tổng giá trị nhập khẩu của hàng tiêu dùng so với xuất khẩu giảm từ 20% xuống 11,27% năm 1997. Tuy nhiên, hàng nhập lậu vào Việt Nam đang rất phổ biến vì nhiều loại hàng tiêu dùng như quần áo, giày dép,.. từ các nước tràn vào thị trường nội địa và lấn át hàng nội địa trong nhiều năm qua. Giải pháp của chính phủ là quản lý chặt chẽ hàng lậu. Bảng 4: Những mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam Đơn vị:Triệu USD Tên 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 7t/2001 Hàng nhập khẩu 5245 7543 10483 10350 11622 11520 15635 9230 Dầu 696 856 1079 1094 827 1054 2058 1214 Phân bón 247 339 643 425 477 646 508 200 Thép 211 365 651 529 524 587 812 398 Sợi cotton 55 96 158 159 175 175 231 140 Ôtô 103 134 222 136 130 89 134 110 Xe máy 347 460 434 242 351 399 787 320 Máy và các phụ tùng 1815 2761 3132 1777 2052 2052 2571 1531 Hàng xuất khẩu 5054 5198 7330 9145 9365 10688 14449 9011 Dầu thô 866 1024 1346 1413 1232 3245 3502 2079 Gạo 429 549 955 970 1024 1035 667 365 May mặc 650 800 1150 1349 1450 1747 1892 1138 Giầy dép 115 296 530 965 1023 1392 1465 899 Thuỷ sản 551 621 651 782 818 971 1479 1021 Cao su 133 181 163 191 127 143 166 83 Hạt điều 59 130 130 133 117 129 167 70 Cà phê 328 495 337 491 594 563 501 277 Than 75 81 115 111 102 132 94 82 Nguồn: vneconomy.com.vn; 2000: báo cáo thống kê hàng xuất nhập khẩu của hải quan; 7 tháng đầu năm 2001: vitranet.com.vn B. Cán cân tài khoản dịch vụ. Thu dịch vụ chủ yếu liên quan đến vận tải, du lịch, bưu chính, chuyển giao công nghệ, các khoản lãi suất cổ tức, tiền thu chi về lao động,.. thu từ dịch vụ tăng từ 19 triệu USD năm 1993 lên 128 triệu năm 1996 (theo ngân hàng nhà nước). Sự mở rộng đó là do mở cửa nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bảng 5: Cán cân dịch vụ của Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2000. Đơn vị:Triệu USD 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Dịch vụ Các khoản thu Các khoản chi 55 1179 450 271 311 724 694 78 772 694 19 1283 1264 -159 2074 1915 -61 27092770 -623 2530 3153 -539 2604 3143 -705 2781 3486 -641 2895 3536 Nguồn: ngân hàng thế giới (World bank), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tạp chí ngân hàng số 10/2000 và world bank.com.vn Trong giai đoạn 1990-1995, khoản thu nhập dịch vụ có đôi chút thặng dư. Năm 1995, do tăng nhập khẩu, Việt Nam lại thường nhập khẩu theo CIF đồng thời mua bảo hiểm và thuê tàu của nước ngoài dẫn đến việc thâm hụt tài khoản này. Trong tổng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, dịch vụ chiếm 18% năm 1992, 27% năm 1996, và khoảng trên 20% trong giai đoạn từ 1997 đến nay. Chính phủ nên quan tâm đến ngành dịch vụ vì đây là lĩnh vực tạo thêm việc làm và đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư. C. Thu nhập đầu tư ròng nước ngoài. Theo nguyên tắc kế toán của IMF đưa ra, các khoản thu nhập của lao động như tiền thưởng,.. thu nhập đầu tư gián tiếp và trực tiếp coi như thu nhập và lợi nhuận của các yếu tố đó. Nhưng do thống kê chưa được đầy đủ, các số liệu về thu nhập lao động không có sẵn. Do đó, trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam cũng như các nước khoản thu nhập yếu tố chỉ bao gồm thu nhập đầu tư. Bảng 6: Thu nhập đầu tư của Việt Nam từ 1991 đến nay. Đơn vị: Triệu USD 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Thu nhập đầu tư ròng Các khoản thu Các khoản chi -411 28 439 -339 42 381 -382 43 425 -560 30 590 -328 27 355 -317 96 413 -427 140 567 -611 136 747 -669 133 802 -1020 133 1153 -1127 128 1201 Nguồn: ngân hàng thế giới ( WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tạp chí ngân hàng số 10/2000, world bank.com.vn Thu nhập của người Việt Nam chủ yếu là tiền lãi các khoàn tiền gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài (không cư trú). Tuy nhiên, những khoản đó rất nhỏ do tài sản ở nước ngoài của Việt Nam không nhiều. Trái lại, những khoản phải trả cho thu nhập đầu tư ngày càng tăng lên do phải trả lãi cho các khoản nợ nước ngoài có khi lên đến vài trăm triệu USD và đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam tăng lên dẫn đến chuyển lợi nhuận về nước tăng lên. Điều này làm cho thâm hụt trong thu nhập đầu tư ròng của Việt Nam ngày một tăng nhanh. D. Chuyển giao một chiều Chuyển giao một chiều (NT) bao gồm chuyển tiền tư nhân (PT) và chuyển tiền chính thức (OT). Chuyển giao tư nhân là luồng vốn quan trọng. Về bản chất không phải là tiền lương của công nhân, thu nhập đầu tư mà là chuyển tiền của người Việt Nam sống ở nước ngoài (kiều hối). Do bỏ thuế chuyển tiền từ năm 1995 (trước đó áp dụng thuế suất 5%), từ một thặng dư nhỏ 90 triệu USD năm 1991 đã nhảy vọt lên 1200 triệu năm 1996 và 885 triệu năm 1997, 1122 triệu năm 1998, 1248 triệu năm 1999 và 1371 năm 2000. Chính phủ ta thấy rõ tầm quan trọng của kiều hối do đó đã có các chính sách khuyến khích thích hợp để thu hút như bỏ thuế chuyển tiền, cho phép tư nhân được phép gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Nhưng do thủ tục ngân hàng còn phức tạp nên trên thực tế nhiều nhà phân tích cho rằng có một khoản chuyển tiền tư nhân bất hợp pháp vào Việt Nam. Vì vậy, chính phủ nên chú trọng thu hút và quản lý kiều hối. Bảng 7: Chuyển giao vãng lai của Việt Nam từ 1991 đến nay Đơn vị: Triệu USD Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 NT PT OT 138 90 35 65 123 59 64 264 70 194 302 170 132 627 474 153 120 1050 150 855 710 175 1122 950 172 1248 950 98 1083 948 135 Nguồn: Ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tạp chí ngân hàng số 10/2000 và vneconomy.com.vn Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta thấy cán cân vãng lai thâm hụt không phải là do thâm hụt trong cán cân thương mại mà còn do dịch vụ và chuyển giao vãng lai. Cụ thể, cán cân vãng lai đã giảm thiếu hụt do thặng dư nhỏ trong dịch vụ trong giai đoạn 1990-1994. Từ 1995, thiếu hụt vãng lai lại tăng lên do thâm hụt cán cân dịch vụ tăng nhưng sự thiếu hụt của cán cân vãng lai cũng giảm đi do thặng dư lớn trong chuyển giao vãng lai mà chủ yếu do kiều hối mang lại. Nói tóm lại, mặc dù cán cân vãng lai thâm hụt thường xuyên liên tục trong giai đoạn từ 1991-1999 nhưng chưa hẳn đã là một điểm xấu mà quan trọng là làm thế nào để đảm bảo khả năng chịu đựng của nó, vậy chúng ta chuyển sang phân tích tài khoản vốn và tài chính để xem xét khả năng chịu đựng đó. 2.2.2. Tài khoản vốn và tài chính Từ đầu thập kỷ này, Việt Nam đã thu hút được các luồng vốn nước ngoài để tài trợ cho thiếu hụt tài khoản vãng lai . Trong đó FDI (ròng) chiếm khoảng gần 80% tổng luồng vốn nước ngoài tính trung bình trong giai đoạn 1990-2000. So với các nước ASEAN tỷ trọng FDI trong tài khoản vốn và tài chính của Việt Nam là cao hơn. Ví dụ, năm 1996 tỷ trọng này ở Malayxia là 34%, Thái Lan là 10%, Inđonêxia là 68% (IMF, 1996b,p.30). Tính trung bình luồng vốn vay trung-dài hạn và ngắn hạn của Việt Nam không có thặng dư do Việt Nam không những trả nợ cũ mà còn cả nợ mới. Trong một số năm, những giải ngân vốn trung và dài hạn không đủ để trả những khoản nợ tích dần. Bảng 8: Tài khoản vốn và tài chính của Việt Nam từ 1993 đến nay Đơn vị: Triệu USD 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Cán cân vốn và tài chính 456 1476 2326 2079 1662 216 1953 809 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 936 1627 2276 1813 2074 800 630 600 Đầu tư vào giấy tờ có giá 697 1033 1287 891 1002 240 1200 1217 Tín dụng trung và dài hạn -597 -276 -253 98 375 432 1155 1238 -Giải ngân 54 272 443 772 1007 1121 1360 1317 -Nợ gốc đến hạn trả 651 547 696 674 632 690 570 944 +Thực trả 166 166 310 249 394 349 352 371 Vay ngắn hạn 117 124 311 224 -612 -644 689 255 Nguồn: Rút ra từ bảng 1 Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khoản vay khác là những nguồn tài trợ chính cho thiếu hụt cán cân vãng lai bởi việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của Việt Nam còn rất nhỏ. A. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành, FDI vào Việt Nam đã tăng đáng kể và được coi là phần lớn nhất trong tổng luồng vốn vào. Trong những năm 1994-1997, tổng FDI đạt bình quân 2 tỉ USD mỗi năm, những sau năm 1997 đầu tư đã sụt giảm 800 triệu năm 1998 và từ năm 1999 đến năm 2000 chỉ đạt 600 triệu USD. Sự sụt giảm nhiều nhất là đầu tư từ Nhật Bản và Đông Nam á, do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. Tổng nguồn vốn FDI bao gồm vốn cổ phần và vốn vay. Vốn cổ phần không làm tăng nợ nước ngoài nhưng vốn vay tạo nên dư nợ. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, tổng đầu tư của một dự án phải có ít nhất 30% là vốn pháp định do các bên đóng góp. Bên Việt Nam chủ yếu đóng góp dưới hình thức quyền sử dụng đất. Trong thực tế, hầu hết các dự án được cấp giấy phép đều có vốn pháp định tối thiểu. Phần vốn còn lại chủ yếu là đi vay và chủ yếu là vay nước ngoài (các công ty mẹ và tín dụng nước ngoài). Như vậy, luồng vốn FDI ở Việt Nam bao gồm một khoản vay đáng kể. Chính những khoản vay lớn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền về nước những khoản tiền kiếm được ngay cả khi lợi nhuận của xí nghiệp liên doanh là rất thấp. Hơn nữa, lãi suất đó lên tới 10-12%/năm (ngân hàng nhà nước). Trong trường hợp như vậy, lợi thế của FDI có thể giảm đối với Việt Nam. Trong thành phần của FDI ở Việt Nam, phần vốn vay càng tăng so với vốn góp của bên nước ngoài. Từ năm 1994, các luồng vốn vay FDI đã chiếm hơn 50% tổng luồng vốn FDI (cao hơn cả Thái Lan 17% FDI trung bình trong giai đoạn 1970-1990). Trong năm 1998 nó chiếm 2/3 tổng FDI. Nói chung, FDI là nhân tố khuyến khích tăng trưởng kinh tế của các nước. Nhưng tác động của nó đến cán cân thanh toán thì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Người ta cho rằng ban đầu luồng vốn FDI có tác động cải thiện cán cân thanh toán do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ và họ chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Đối với Việt Nam, từ năm 1990, luồng FDI vào đáng kể đã có tác động cải thiện trong tài khoản tư bản. Những năm sau đó, nó lại có tác động xấu đến cán cân vãng lai. Nguyên nhân đó là: Thứ nhất, nhập khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng cùng với luồng vốn FDI. Do vốn góp của họ dưới hình thức máy móc thiết bị và các xí nghiệp có nhập khẩu rất nhiều các hàng hoá đầu vào sản xuất. Thứ hai, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu không là mục đích của vốn đầu tư FDI. Thực tế cho thấy rằng một phần lớn FDI tập trung và thay thế hàng nhập khẩu. Chỉ một phần nhỏ FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp có mục đích để xuất khẩu. Do đó, phần xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng xuất khẩu của Việt Nam là thấp so với các nước trong khu vực (ở Singapore, Malayxia, Thái Lan là 60%). Tuy nhiên, tốc độ tăng của khu vực FDI là rất nhanh (khoảng 70% mỗi năm), tăng nhanh hơn tốc độ tăng xuất khẩu của cả nền kinh tế. Bảng 9: xuất khẩu và nhập khẩu của khu vực FDI ở Việt Nam năm 1994 đến 2001 Đơn vị: Triệu USD 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 7t/2001 Tổng xuất khẩu 4054 5449 7255 8759 9324 10688 14448 9011 xuất khẩu khu vực FDI 161 440 786 1498 1983 2417 3309 1997 Tổng nhập khẩu 5826 8155 11134 11131 11494 10841 15635 9230 nhập khẩu khu vực FDI 600 1468 2043 2902 2668 3177 4352 2548 CCTM -1772 -2706 -3888 -2398 -2170 -153 -1187 -219 CCTM khu vực FDI -439 -1028 -1257 -594 -685 -760 -1044 -551 Nguồn: Số liệu của hải quan không công bố và vitranet.com.vn Bảng 9 cho thấy rằng thiếu hụt thương mại có nguồn gốc từ khu vực FDI chiếm khoảng 30% tổng thiếu hụt thương mại của cả nước. Sau một thời gian hoạt động tại Việt Nam, một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước. Những khoản chuyển lợi nhuận về nước ngày càng tăng, và chiếm gần một nửa thanh toán lợi nhuận đầu tư cho nước ngoài năm 1998 (số liệu ngân hàng nhà nước). Hơn nữa, những thanh toán cho thuê kỹ thuật, bản quyền và lai vay vốn FDI cũng ngày càng tăng lên. Những số liệu này ẩn trong các khoản dịch vụ khác của cán cân thanh toán. Từ những phân tích FDI và mối quan hệ với cán cân vãng lai, một kết luận có thể được đưa ra là FDI có tác động xấu đến cán cân vãng lai trong giai đoạn 1990-2000 và cũng dẫn đến vay nợ nước ngoài. Vấn đề đặt ra ở đây đối với Việt Nam là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thì mới có thể cải thiện cán cân vãng lai trong tương lai. B. Các khoản vay nước ngoài Trong những năm qua những khoản vay từ nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong tài trợ thiếu hụt tài khoản vãng lai cùng với FDI. Đối với các khoản vay trung và dài hạn, mặc dù những cam kết tăng những giải ngân các khoản vay giao động theo các năm do các thủ tục hành chính.... Những khoản đến hạn trả tăng lên do một số lượng lớn những khoản nợ trước đây. Kết quả là trong một số năm, vốn trung và dài hạn ròng là âm. Điều đó có nghĩa giải ngân vốn vay không đủ để trả nợ. Do đó khoản này làm giảm thặng dư trong khu vực FDI. Từ năm 1996 khoản vay trung và dài hạn đã có thặng dư do số vốn được giải ngân tăng lên trung bình mỗi năm khoảng 1 tỷ USD và phần trả nợ gốc giữ ở mức không đổi khoảng gần 700 triệu. Từ năm 1992, các khoản vay ngắn hạn tăng lên rất nhanh mở rộng xuất khẩu dưới hình thức L/C trả chậm. Vốn ngắn hạn ròng thay đổi từ trạng thái âm năm 1991-1992 sang thặng dư năm 1992-1996 và trở lại âm năm 1997-1998 do hạn chế nhập khẩu dưới hành thức L/C trả chậm. Trong giới hạn tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, vay nước ngoài thể hiện không rõ ràng. Tuy nhiên, các khoản vay vào Việt Nam làm tăng nợ nước ngoài. C. Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay Các khoản nợ có các chi phí và rủi ro khác nhau phụ thuộc vào thời hạn vay, đồng tiền vay và loại vay. Để đánh giá được gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam cần phải tiến hành phân loại các khoản nợ. a. Phân loại nợ của Việt Nam : Nợ theo thời hạn vay Trước năm 1991, hấu hết các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam là vay Liên Xô cũ và các nước trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV). Từ năm 1991, Việt Nam đã nhận được những tài trợ từ những nước ngoài SEV. Mặc dù những khoản vay mới từ SEV không còn, nhưng Việt Nam vẫn còn tồn tại số lượng lớn nợ bằng Rúp chuyển nhượng. Do không có tỷ giá chính thức của Rúp chuyển nhượng so với USD cho nên việc xác định khoản nợ này là rất khó. Trong khoản nợ thế giới (World Debt Tables 1999), tổng nợ của Việt Nam bao gồm nợ dài hạn, sử dụng tín dụng IMF và nợ ngắn hạn. Nợ dài hạn là phần lớn nhất (khoảng 80-90%) trong đó nợ ngắn hạn và sử dụng tín dụng IMF chiếm khoảng 10-20% trong giai đoạn 1990-1997. Những khoản nợ ngắn hạn có mức rủi ro cao. Nói chung, các khoản vay ngắn hạn thường là tín dụng thương mại. Do tài trợ thương mại thường có thời hạn từ 90-120 ngày, cho nên nợ ngắn hạn sẽ không được vượt quá ba tháng xuất khẩu. ở Việt Nam, từ năm 1992, nợ ngắn hạn chủ yếu là những khoản vay dưới hình thức L/C trả chậm. Nếu không tính những nợ quá hạn của các khoản vay trung và dài hạn, nợ ngắn hạn tồn đọng của Việt Nam năm cao nhất là năm 1997 (1261 triệu USD) tương đương với 6 tuần nhập khẩu, thấp hơn nhiều so với giới hạn ba tháng nhập khẩu. Như vậy, nguồn tài trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu là các khoản vay trung và dài hạn. Tài trợ cho thiếu hụt tài khoản vãng lai bằng vốn trung và dài hạn ít gặp rủi ro hơn so với vốn ngắn hạn vào đảm bảo duy trì được khả năng chịu đựng của tài khoản vãng lai. Theo quan điểm đó, do nợ nước ngoài không lớn, Việt Nam dường như không gặp sức ép do mất khả năng chịu đựng của tài khoản vãng lai. * Nợ theo đồng tiền Trong bảng nợ thế giới, các khoản nợ của Việt Nam chủ yếu bằng Rúp chuyển nhượng, mà Rúp chuyển nhượng có xu hướng ngày càng giảm giá trao đổi so với các đồng tiền khác. Tính đến cuối năm 1997, nợ tồn đọng của Việt Nam bằng Rúp chuyển nhượng chiếm 60,6% trong khi nợ bằng USD chiếm 30,1%và đồng Yên Nhất chiếm 5,4%. Nếu không kể những khoản nợ bằng Rúp chuyển nhượng thì khoản nợ trung và dài hạn bằng USD chiếm phần lớn trong tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam. Đồng USD là đồng ngoại tệ có liên hệ chặt chẽ với đồng Việt Nam cho nên những rủi ro về tỷ giá sẽ tác động mạnh đến khả năng chịu đựng nợ nước ngoài của Việt Nam. Một vấn đề đặt ra ở đây là cần phải xem xét cẩn thận những tác động của phá giá đến gánh nặng nợ so với những tác động đến cán cân thương mại. * Nợ theo hình thức vay Các chỉ số của Việt Nam trong bảng nợ thế giới cho thấy rằng các khoản vay ưu đãi đã trên tổng số nợ là rất cao, khoảng 70-80% trong giai đoạn 1994-1997. b. Đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam Theo đánh giá của ngân hàng thế giới, nợ nước ngoài và việc thanh toán của Việt Nam ở mức ổn định và quản lý được. Tổng số nợ ngoại tệ chuyển đổi là 10,8 tỷ USD cho đến năm 1998 (bằng 42% GDP), 2/3 trong số nợ đó là nợ nhà nước hoặc do nhà nước bảo lãnh, khoảng một nửa trong số nợ là vay ưu đãi, nửa còn lại là không ưu đãi và hầu hết là từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng nợ dự tính sẽ tăng lên 1-1,4 tỷ vào năm 2002, với hầu hết là từ các khoản vay ưu đãi. Gánh nặn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0025.doc
Tài liệu liên quan