Đề tài Phân tích kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay ở nước ta

M ỤC L ỤC

A.LỜI NÓI ĐẦU

B.NỘI DUNG

 I. Một số vấn đề lí luận về kinh tế tư nhân.

 1. Quan niệm về kinh tế tư nhân.

 1.1. Cái nhìn tổng quan và toàn diện thông qua nền kinh tế của Việt Nam.

 1.2. Kinh tế tư nhân tại Việt Nam - chiếc phao an toàn của nền kinh tế.

 1.3. Việt Nam và quyền tạo ra giá trị gia tăng thông qua kinh doanh.

2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân.

 II. Những vai trò và điều kiện, sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.

1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế.

2. Điều kiện, sự phát triển kinh tế tư nhân.

2.1 . Những nghịch lý trong nền kinh tế tư nhân.

2.2 . Điều kiện, sự phát triển.

 III. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.

1. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.

2. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì mới.

C.KẾT LUẬN

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động hay đơn giản là những người nghèo khổ luôn luôn là lực lượng chính trị của các nhà chính trị. Nhà chính trị theo chủ nghĩa nào thì họ cũng đều dựa vào lực lượng này; nhưng tuyệt đối hóa người lao động để vĩnh viễn biến họ thành làm thuê như một số phận thì đấy là hành vi thiếu nhân hậu. Con người không ai chịu vĩnh viễn làm thuê và cũng không ai có quyền vĩnh viễn làm chủ. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng thay đổi nhanh chóng bao nhiêu thì chu kỳ lao động làm thuê cũng như chu kỳ làm chủ càng ngắn bấy nhiêu đối với từng cá nhân. Vấn đề không phải là có không gian tự do cho nền kinh tế tư nhân mà là không gian tự do cho các cá nhân, bởi vì không gian tự do cho các cá nhân còn làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân trong đó có cả những người mà các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội Xô Viết gọi là người lao động. Bản chất của khoa học kinh tế là khoa học về các lợi ích. Khoa học kinh tế là triết học của kinh doanh. Làm gia tăng các giá trị cụ thể chính là bản năng, là phẩm chất không thể thiếu của nhà kinh doanh. Nhà kinh doanh là những người ý thức về sự gia tăng các giá trị thông qua hành vi của mình. Bất kỳ nhà kinh doanh nào không ý thức được như vậy thì nhà kinh doanh đó khó có thể tồn tại. Gia tăng các giá trị có nghĩa là biến các nguyên liệu thành sản phẩm bán được có giá hơn, biến những người lao động đơn giản trở thành những người sản xuất ra những hàng hóa có thu nhập lớn hơn để tạo ra mức sống cao hơn, đồng tiền mình bỏ ra có lợi nhuận cao hơn. Tóm lại, mỗi nhà kinh doanh phải có khả năng nhận thức chính xác và đầy đủ, ý thức một cách trọn vẹn về cái gọi là giá trị gia tăng. Nhà kinh doanh có giá trị xã hội thì có ý thức về giá trị gia tăng của hành vi của mình đổi với xã hội, nhưng sự gia tăng các giá trị xã hội của nhà kinh doanh nằm ngoài ý thức của nhà kinh doanh. Nếu nhà kinh doanh chỉ ý thức về việc làm giá trị gia tăng cho xã hội thì hoặc là họ đã đạt tới đỉnh cao của sự kinh doanh hoặc là họ không bao giờ kinh doanh được. 2.2 Điều kiện, sự phát triển. Có thể khẳng định rằng, Đảng ta đã hoàn toàn đúng và sáng suốt khi đưa ra chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ở đó, mọi thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, kinh tế tư nhân là bộ phận hợp thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu Đảng ta đã có được quan điểm như vậy về vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân. Sau 5 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với đường lối “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, khi kinh tế tư nhân đã có bước phát triển đáng kể và có những đóng góp không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân, mặc dù xác định rõ kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, song trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta mới chỉ coi nó là thành phần kinh tế có thể cần được phát triển. Khi đó, quan điểm của Đảng ta về thành phần kinh tế này là: “Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác… Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định… Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập”. Thêm 5 năm nữa, nghĩa là sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, kinh tế tư nhân vẫn chỉ là thành phần kinh tế được Đảng ta xác định là cần “tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi” để cho nó “yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài”, với điểm nhấn mạnh là: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài… Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước”. Thêm 5 năm nữa, nghĩa là sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã thực sự có được những bước khởi sắc đáng kể, tỏ rõ sự năng động cũng như tính hiệu quả trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy đời sống kinh tế – xã hội nước ta phát triển theo hướng ngày càng ổn định và bền vững. Trên thực tế, nhờ chính sách đổi mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta, lại được sự đồng tình, hưởng ứng và tham gia một cách tích cực của đông đảo người lao động, sau 10 năm (từ 1991 đến 2001), khi đã chính thức được Đảng ta thừa nhận là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân nước ta đã có được sự phát triển rộng khắp trong cả nước, từ các thành phố lớn, thị xã, thị trấn đến các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và từ các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đến các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ. Với sự phát triển rộng lớn đó, với tiềm năng kinh tế ngày càng mạnh và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn, kinh tế tư nhân nước ta đã có những đóng góp, có thể khẳng định, là hết sức quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế đất nước, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, tăng ngân sách nhà nước và góp phần tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Không chỉ thế, cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển rộng khắp và ngày càng lớn mạnh của kinh tế tư nhân nước ta đã góp phần đắc lực vào việc giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm khá nhiều số lượng công nhân, lao động và doanh nhân, thúc đẩy một cách có hiệu quả thực sự tính năng động và năng lực sáng tạo của người lao động, đồng thời góp phần không nhỏ vào việc hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa các ngành văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế,…, nhất là chủ trương xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra. Đánh giá đúng sự phát triển và những đóng góp to lớn đó của kinh tế tư nhân nước ta trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế “có vị trí quan trọng lâu dài” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được “khuyến khích phát triển rộng rãi”, được “tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý”, được “phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài”. Đặc biệt, với mục đích làm cho đông đảo người lao động nước ta có được sự thống nhất, nhất trí cao với quan điểm mới của Đảng về kinh tế tư nhân với tư cách bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là nhằm khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước, tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX (từ 18-2 đến 2-3-2002), khi thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, Đảng ta đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Có thể nói, đó là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với quan điểm này, khi một lần nữa nhìn nhận lại tiến trình phát triển của thành phần kinh tế này trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là sự phát triển của nó trong những năm gần đây, từ 2001 đến 2005, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định, trong chiến lược phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Để kinh tế tư nhân có thể thực hiện ngày một tốt hơn vai trò này và thực sự trở thành một động lực thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương cho phép mọi công dân không những có quyền tham gia vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ, mà còn có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin. Để các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân có được sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, Đảng ta còn nhấn mạnh chủ trương xóa bỏ mọi rào cản, tạo môi trường tâm lý xã hội và kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển với quy mô không hạn chế trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, kể cả các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân mà pháp luật không cấm. Trên thực tế, trong hơn 5 năm qua, kinh tế tư nhân nước ta đã có được sự phát triển năng động, ngày càng đáp ứng được và thích ứng được với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khả năng đóng góp vào nền kinh tế quốc dân ngày một tăng; khả năng thu hút lao động cũng ngày một tăng; sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới đã được nâng lên một bước đáng kể. Trình độ sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân nước ta cũng theo đó mà ngày một đổi mới và có sự tiến bộ rõ rệt, nhiều sản phẩm mang thương hiệu doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã có được uy tín nhất định trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam đang từng bước trưởng thành, tăng về số lượng, phát triển về chất lượng, mạnh dần về bản lĩnh kinh doanh thương trường. Số doanh nhân “có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội” và thực sự xứng đáng tôn vinh ngày một nhiều. Tuy nhiên, so với những đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì kinh tế tư nhân nước ta, có thể nói, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, “quy mô còn nhỏ, sức cạnh tranh còn yếu và chưa được quản lý tốt”. Hiện tại, chúng ta mới chỉ xây dựng được một số doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, vốn lớn, công nghệ sản xuất hiện đại, còn phần lớn các doanh nghiệp tư nhân vẫn là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ sản xuất yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường, không chỉ thị trường nước ngoài, mà cả thị trường trong nước, nhìn chung còn yếu. Nguyên nhân chính làm cho tốc độ phát triển của kinh tế tư nhân nước ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi của tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do, một mặt, quan điểm của Đảng ta trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất cao, một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân mà đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa, quản lý có phần buông lỏng và còn có những sơ hở; mặt khác, “kinh tế tư nhân chưa được tạo đủ điều kiện thuận lợi để phát triển”. Thêm vào đó, kinh tế tư nhân nước ta, ngoài việc phải đối phó với những khó khăn, vướng mắc về vốn, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, về môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội, về khả năng tiếp cận và xử lý thông tin, còn phải đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn về môi trường kinh doanh, về năng lực cạnh tranh, về trình độ công nghệ, chất lượng, giá thành và khả năng tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, để kinh tế tư nhân nước ta thực sự có được bước phát triển vượt bậc, đúng hướng, ngày càng tương xứng với vai trò quan trọng, vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết chúng ta cần phải quán triệt, tạo sự thống nhất, nhất trí cao và quyết tâm thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân. Cùng với đó, chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cả về thể chế lẫn tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân; tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách cho phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân nước ta hiện nay. Ngoài việc hỗ trợ về vốn, về cơ sở hạ tầng, Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ về đào tạo nhân lực, về khoa học, công nghệ và thông tin, xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, cần phải tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức quần chúng, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội doanh nghiệp trong sự phát triển kinh tế tư nhân. “Xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp” và “thực sự tôn vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội”. III. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 1.Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta đã trải qua hơn 2 thập niên, đã giành được những thắng lợi về kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, an ninh quốc phòng, tạo thế vững chắc để nước ta vững bước trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong thắng lợi to lớn có tính chiến lược đó phải kể đến tác động của chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung và quan điểm, chính sách đối với kinh tế tư nhân nói riêng, từ đó tạo nền tảng và căn cứ để đổi mới cơ chế quản lý‏‎ kinh tế cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm đổi mới vừa qua, kinh tế tư nhân là một vấn đề gay cấn, lúng túng, gây tranh cãi nhiều nhất, đụng chạm đến những vấn đề chính trị - xã hội như định hướng XHCN, đảng viên làm kinh tế, bóc lột và bị bóc lột, phân hóa giàu nghèo, v.v.. Tuy nhiên, với sự nhất quán trong đường lối đổi mới của Đảng, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng sự thật, nói đúng sự thật, cùng với sự nỗ lực của các nhà lý‏‎ luận, các nhà quản lý và sự hưởng ứng của toàn dân, cho tới nay, kinh tế tư nhân đã được hồi phục, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế lớn mạnh, góp phần vào công cuộc đổi mới nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có thể nói, cho tới nay không còn một người nào, dù là bảo thủ nhất, còn nghi ngờ và phủ nhận vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta, nhưng những vướng mắc về lý‏‎ luận liên quan đến kinh tế tư nhân vẫn chưa được làm sáng tỏ, giải quyết dứt điểm. Một là, nhận dạng và đánh giá kinh tế tư nhân nước ta. Trước thời kỳ đổi mới, đường lối kinh tế của Đảng ta là xây dựng một nền kinh tế quá độ đi lên CNXH với cơ cấu kinh tế một thành phần – XHCN – gồm hai bộ phận, quốc doanh và tập thể, được quản lý‏‎ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, còn các thành phần kinh tế khác được gọi là phi XHCN, được nằm trong diện cải tạo và xóa bỏ, để tiến tới một nền kinh tế thuần khiết, do đó phạm trù kinh tế tư nhân không còn tồn tại trong lý‏‎ luận và trong đời sống thực tiễn.Ngay cả tại Đại hội VI của Đảng, khởi xướng công cuộc đổi mới và đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần nhưng tư tưởng cải tạo, xóa bỏ các thành phần kinh tế không được coi là XHCN vẫn được nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội VI đã ghi rõ: “đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác” . Kinh tế tư nhân mặc dù vẫn tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế quốc dân nhưng không còn tên gọi, bị cấm kỵ, thành kiến và bị xa lạ không chỉ trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước mà cả trong các phương tiện thông tin đại chúng và trong cuộc sống đời thường. Nó được gọi dưới các tên hợp thời hơn như kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế phi XHCN, kinh tế tư bản tư nhân… Tuy nhiên, thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn của chân lý, tư duy lý luận và quan điểm đường lối cũng không thể né tránh hiện thực xa hội, nên trước sự phát triển khách quan của kinh tế tư nhân, các văn kiện của Đảng đã từng bước đề cập tới kinh tế tư nhân. Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị khóa VI (15-7-1988) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cũng trong năm 1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý‏‎ hợp tác xã nông nghiệp đã tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu đáng quý‏‎ đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn sau này. Từ Đại hội VII và đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (1922) kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến khích phát triển, trong đó nhấn mạnh: “Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ được sức mạnh, là một trong các động lực phát triển đất nước, đến Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, lần đầu tiên, vấn đề phát triển kinh tế tư nhân đã được đưa ra thảo luận trong một chuyên đề riêng và ra Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đây là một bước tiến đáng kể về tư duy lý‏‎ luận và quan điểm, đường lối kinh tế của Đảng ta, thể hiện tính nhất quán của đường lối đổi mới theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo nên động lực và sự yên tâm cho các doanh nhân và nhà đầu tư được tự do kinh doanh theo pháp luật. Về mặt quản lý‏‎ nhà nước, sự phát triển kinh tế tư nhân từng bước được thể chế hóa bằng các nghị định và một số bộ luật, trong đó phải kể đến Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực từ 1-1-2000, tồn tại song song với Luật Doanh nghiệp Nhà nước, trong đó quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý‏‎ và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân…, là các hình thức tổ chức doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Sau 5 năm thực hiện, hai bộ luật này đã được thống nhất chung vào Luật doanh nghiệp 2005, có hiệu lực từ 1-7-2006, cùng các bộ luật có liên quan như Luật Đất đai, Luật Đàu tư, Luật Thương mại… được sửa đổi, bổ sung theo hướng thống nhất hóa về mặt pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế. Nhờ sự khơi thông về mặt lý‏‎ luận và mở đường về đường lối, cơ chế, chính sách mà kinh tế tư nhân nước ta vốn có sức sồng bền bỉ, năng động đã được phát triển với tốc độ khá cao, trở thành một trong những lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Đánh giá về vai trò của kinh tế tư nhân, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX khẳng định:”Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa IX cũng đánh giá một cách lạc quan: ”Khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển vượt bậc so với những năm trước đây, đóng góp nhiều cho việc tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động và cho ngân sách nhà nước“. Sự phát triển vượt bậc đó được thể hiện trên các số liệu chủ yếu sau đây: Từ đầu năm 2000, tức là từ khi Luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành đến tháng 9-2003 đã có 72.600 doanh nghiệp đăng k‏‎ý kinh doanh với số vốn đăng ký‏‎ trên 9,5 tỷ USD, tức là gấp 1,7 lần về số doanh nghiệp và gấp hơn 4 lần về vốn đăng ký‏‎ so với giai đoạn 10 năm trước đó (1991-1999). Vốn đầu tư năm 2005 của khu vực dân doanh đã lên đến 32,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (vốn đầu tư nhà nước chiếm 53,1%, vốn đầu tư nước ngoài 14,5%); Theo Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XI ngày 20-3-2007 thì vốn đầu tư toàn xã hội năm 2006 đạt 393,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP; trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt 86,4 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đạt 26,3 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 61,1 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân đạt 132,6 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,6 nghìn tỷ đồng; các nguồn vốn khác đạt 21 nghìn tỷ đồng, tức là vốn đầu tư của kinh tế tư nhân đạt 31% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, trong khi vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đạt 17,2% so với 14,5% năm 2005. Số việc làm năm 2003 trong khu vực kinh tế tư nhân khoảng 6 triệu người, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội (không tính số lao động trong nông nghiệp), cơ cấu lao động khu vực dân doanh năm 2005 chiếm tới 88,8% (nhà nước – 9,6%, đầu tư nước ngoài -1,6% ). Từ năm 2002 đến năm 2006, có khoảng 170 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 17%. Hiện nay, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh chiếm gần 34% trong tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Hằng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tiếp nhận hơn 90% số lao động mới. Các doanh nghiệp dân doanh, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ đã tạo ra 45% GDP . Đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP và tăng trưởng GDP cũng có sự vượt trội. Trong khi tỷ lệ đóng góp của kinh tế nhà nước giảm từ 40,2% năm 1995 xuống còn 39,2% năm 2004, kinh tế tập thể giảm tương ứng từ 10,1% xuống còn 7,1% thì kinh tế tư nhân (chưa tính kinh tế cá thể) tăng tương ứng từ 6,3% lên 15,2%. Tốc độ tăng trưởng GDP của kinh tế tư nhân cũng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung: năm 2000 tăng 9,7% so với 6,79%, con số tương ứng năm 2001: 13,43% / 6,89%; năm 2002: 12,02% / 7,08%; năm 2003: 10,2% / 7,34%; năm 2004: 11,9% / 7,69%. Ngoài những con số biết nói đã nêu, kinh tế tư nhân còn có những đóng góp quan trọng như: góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của toàn xã hội nhờ hàng hóa và dịch vụ ngày càng tăng cả về lượng và chất; nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, làm cho hoạt động kinh tế năng động hơn; mở rộng thị trường trong nước ra thị trường thế giới, đặc biệt làm cho thị trường chứng khoán sôi động hẳn lên; góp phần xóa đói, giảm nghèo; hình thành đội ngũ doanh nhân tài giỏi, có chí, có tâm huyết và năng lực kinh doanh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, biết tự mình làm giàu chân chính, góp phần xây dựng đất nước mạnh giàu; có ảnh hưởng và tác động tới hệ thống chính trị- xã hội theo hướng dân chủ hóa, thúc đẩy quá trình cải cách hành chính nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Những thành tựu và tiến bộ của khu vực kinh tế tư nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý‏‎ của Nhà nước là quá rõ ràng và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, không chỉ thấy mặt tích cực của kinh tế tư nhân mà không thấy mặt hạn chế, tiêu cực của nó, đó là năng lực kinh tế còn nhỏ bé, trình độ công nghệ và quản lý‏‎ kinh doanh phần lớn còn yếu kém, sức cạnh tranh còn yếu, còn nhiều tiêu cực trong kinh doanh. Mặt khác, sự phát triển kinh tế tư nhân vẫn còn gặp nhiều vướng mắt, lúng túng cả về tư duy lý‏‎ luận, quan điểm, chính sách đến thực tiễn, như Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã nêu: “Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để có sự thống nhất cao. Một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quản l‏‎ý có phần buông lỏng và có nhiều sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng”. Tới nay, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về cơ bản nhận định đó vẫn còn giá trị. Hiện nay, nhận thức và quan niệm về kinh tế tư nhân trong xã hội vẫn còn chưa thống nhất. Mặc dù những thuật ngữ trước đây tới nay không còn phù hợp, như kinh tế ngoài quốc doanh hoặc kinh tế phi XHCN, nhưng hiện nay trong xã hội vẫn còn quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân là kinh tế tư bản tư nhân, trong khi cho tới nay chúng ta vẫn chưa xác định được tiêu chí thế nào là tư bản tư nhân, nên còn gây ra mặc cảm đối với các chủ doanh nghiệp tư nhân. Hai là,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10755.doc
Tài liệu liên quan