Đề tài Phân tích thực trạng ngành nuôi tôm sú của VN trong giai đoạn hiện nay và kiến nghị một số giải pháp phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới

 

 

Lời nói đầu 1

THỰC TRẠNG 2

1.Thực trạng ngành nuôi tôm sú ở VN 2

2 Đánh giá hiệu quả ngành nuôi tôm sú 9

3.Triển vọng thị trường tôm sú thế giới 17

4Phương hướng phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới 19

Một số ý kiến 26

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng ngành nuôi tôm sú của VN trong giai đoạn hiện nay và kiến nghị một số giải pháp phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à chất lượng không đảm bảo, bằng ấy yếu tố cộng thêm điều kiện thời tiết không thuận lợi đã khiến ở một số nơi tôm chết hàng loạt . Chẳng hạn như các tỉnh ven biển phía Bắc , các số liệu điều tra ban đầu cho thấy diện tích nuôi tôm toàn vùng của năm 2000là 22484 ha thì sang vụ tôm đầu năm 2001 đã lên tới 33000 ha .Tỉnh Quảng Ninh tăng diện tích nuôi tôm lên 2,4 lần ; các tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình tăng 2 lần ; các tỉnh từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế cũng tăng từ 30-50% diện tích nuôi tôm chỉ có sau 1 năm .Số tôm thả nuôi cũng tăng rất nhanh .Trong năm 2000, toàn vùng mới thả gần 500 triệu tôm giống , thì sang vụ tôm năm nay đã tăng gấp đôi . Do năng lực sản xuất tôm giống trong vùng còn hạn chế nên phần lớn tôm giống đều được chuyển từ miền Trung ra hoặc nhập từ Trung Quốc về. Mật độ thả tôm giống cũng tăng lên nhanh chóng. Những hộ nuôi năm trước thắng lợi đã mạnh dạn thả tới 20 con /m2, thậm chí tới 25-30 con/m2. Nhiều hộ chưa có kinh nghiệm nuôi , thấy các hộ khác có lãi lớn cũng thả tới 20 con/ m2 .Năm 2000, sản lượng nuôi tôm toàn vùng đạt khoảng 4200 tấn , xuất khẩu tôm đạt 100 triệu USD, chiếm 7% giá trị xuất khẩu tôm cả nước .Nhưng ngay từ cuối tháng 2 và đầu tháng 3/2001 , ở nhiều ao đầm thả sớm ở các tỉnh, tôm nuôi đã bị nhiễm bệnh , nhiều nơi tôm đã chết. Bệnh lan tràn ra khắp tỉnh (trừ Quảng Trị) trong tháng 4, tháng 5, và tháng 6. Theo số liệu điều tra ban đầu của Viện nghiên cứu nuôi trông thuỷ sản I, ở 8 tỉnh ven biển phía Bắc (từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh ), ở 21 huyện và 194 hộ nuôi tôm đã có166 hộ (85,5%)có tôm nuôi bị mang mầm bệnh . Phần lớn tôm nuôi bị các bệnh đốm trắng, đốn vàng, bệnh MBV, mức độ thiệt hại về bệnh của tôm nuôi cũng rất khác nhau . ở Hải Phòng một số ao tôm ở Đồ Sơn, Kiến Thuỵ bị tổn thất nặng, ước tính toàn thành phố có khoảng 400 ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh , ở Ninh Bình nơi có tốc độ chuyển đổi đất sang nuôi tôm rất nhanh thì ước tính có tới 59% diện tích nuôi tôm bị bệnh, ở 400 ha ao đầm tôm chết rải rác, ở 300 ha tôm chết hàng loạt; ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Quỳnh Lưu (Nghệ An) cũng bị tổn thất nặng. Thực trạng đó đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng; nhưng sau những lỗ lực của cán bộ khoa học, kỹ thuật , quản lý trong ngoài ngành và các địa phương, cùng bà con nông ngư dân khắc phục tình trạng trên, đem lại vụ tôm trúng lớn 2 Đánh giá hiệu quả ngành nuôi tôm sú Trong nền kinh tế quốc dân, thuỷ sản là một trong những ngành có nhiều khả năng và tiềm năng huy động để phát triển, có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao vào những năm tới và tiến kịp các nước trong khu vực nếu có các chính sách thích hợp và được đầu tư thỏa đáng Nuôi tôm sú là một nghề có lợi ,nó được nhận định rằng thực tế là giá cả hấp dẫn và ổn định của con tôm trên thị trường thế giới cùng giá đất tương đối thấp của vùng duyên hải đã đưa đến sự bùng nổ và phát triển nghề nuôi tôm , điều đáng chú ý là kỹ thuật nuôi tôm không quá phức tạp nhưng bản thân hệ sinh thái lại khá nhạy cảm với việc nuôi thâm canh ,hệ thống sản xuất thiếu tính bền vững dẫn đến nhiều thiệt hại cho nghề nuôi tôm . Theo tạp chí Thuỷ Sản 3/2000,một cuộc điều tra đánh giá toàn diện về hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà ,được thực hiện qua 134 phiếu điều tra các hộ nuôi tôm ở Nha trang , Ninh hoà ,Vạn Ninh và Cam Ranh về các chỉ tiêu : diện tích ,số vụ nuôi ,hình thức nuôi ,năng suất ,sản lượng ...Thông qua các số liệu điều tra nhận thấy có một số vấn đề sau : Bảng1: Mức đầu tư và hiệu quả sản xuất của các hộ nuôi tôm sú thương phẩm Khánh Hoà -1999 Chỉ tiêu Đơn vị Tổng số Quảng canh tiên tiến Bán thâm canh Thâm canh Diện tích ha 117.99 42.6 56.3 19.09 SS Số ao cái 216 56 119 41 Số vụ vụ 360 89 221 50 Tổng sản lượng kg 222250 19570 122990 79690 Tổng thu triệu đồng 22030.1 1732.5 11510.8 8786.8 Tổng chi triệu đồng 12617.4 1146 7004.9 4466.5 Chi vật chất và dịch vụ triệu đồng 11485.7 1013.3 6353.2 4119.2 Chi lao động triệu đồng 834.1 96.7 488.6 248.8 Chi khác - 297.6 36 163.1 98.5 Từ số liệu đó,tính được doanh thu ,chi phí sản xuất, lợi nhuận ..bình quân cho một ha ao nuôi như bảng sau: Bảng 2:Một số chỉ tiêu kinh tế cho 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999 chỉ tiêu đơn vị Tổng số quảng canh tiên tiến bán thâm canh Thâm canh 1-tiền mua đất triệu đồng 50 –70 100 –150 100 -150 100 2-giá đầu tư triệu đồng 30 – 50 50 –100 150 –200 100 3-diện tích trung bình ha/ao 0.76 0.47 0.47 0.55 4-số vụ nuôi vụ 1.6 1.9 1.2 1.7 5-doanh thu triệu đồng 40.67 204.45 460.28 186.71 6-chi phí sản xuất triệu đồng 26.9 124.42 233.97 106.94 7-năng suất kg/ha 459.39 2184.55 4174.44 1883.63 8-giá hoà vốn đồng 58560 56950 56050 56770 Xét về các khoản mục chi phí sản xuất trong các loại hình nuôi tôm khác nhau thì cơ cấu chi phí sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999: Bảng3 : Cơ cấu chi phí sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú thương phẩm ở Khánh Hoà -1999: Chỉ tiêu quảng canh cải tiến bán thâm canh thâm canh số tiền triệu đồng tỉ trọng % số tiền triệu đồng tỉ trọng % số tiền triệu đồng Tỉ trọng % -Chi vận chuyển và dịch vụ 23.78 88.4 112.84 90.7 215.78 92.2 -Giống 5.03 18.7 12.40 10 16.01 6.8 Thức ăn 12.39 46.1 68.12 54.8 128.59 55 -Phòng bệnh 1.23 4.6 6.69 5.4 16.32 7 -Năng lượng 1.42 5.3 6.46 5.2 20.12 8.6 -Khấu hao tài sản cố định 2.46 9.1 9.95 8 16.62 7.1 -Chi vật chất khác 0.96 3.6 6.89 5.5 14.35 6.1 -Chi dịch vụ khác 0.29 1.1 2.33 1.8 3.77 1.6 +Chi lao động 2.27 8.3 8.68 7 13.03 5.6 - Lao động thuê 0.74 2.8 1.43 1.1 1.57 0.7 +Chi phí khác 0.85 3.2 2.90 2.3 5.16 2.2 Tổng chi phí 26.90 100 124.42 100 233.97 100 Vì vậy, sự thay đổi các khoản mục chi phí sản xuất trong các loại hình nuôi tôm khác nhau: *- Chi phí thức ăn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tất cả các loại hình nuôi tôm sú thương phẩm :12,39 triệu đồng cho nuôi quảng canh cải tiến (46.1%); 68,12 triệu đồng cho nuôi bán thâm canh (54.8%) và 128.59 triệu đồng cho nuôi thâm canh (55%) *- Chi phí tôm giống, khấu hao tài sản cố định, tiền công lao động chiếm tỉ trọng tương đối cao, tăng dần về giá trị tuyệt đối và giảm dần về giá trị tương đối từ nuôi quảng canh cải tiến đến thâm canh *- Phòng trừ dịch bệnh, năng lượng chiếm tỉ trọng tương đối cao trong nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh, tăng cả về giá trị tuyệt đối lẫn giá trị tương đối từ quảng canh cải tiến đến thâm canh . Bảng 4: Chi phí và kết quả sản xuất trên 1 ha ao nuôi tôm sú ở Khánh Hoà-năm 1999 chỉ tiêu quảng canh cải tiến bán thâm canh thâm canh chi phí trung gian(IC) 2.91 107.22 205.89 khấu hao tài sản cố định(KH) 2.46 9.95 16.62 tiền công lao động gia đình (CL) 1.53 7.25 11.46 tổng chi phí (IC+CL+KH) 26.90 124.42 233.97 giá trị sản xuất (GO) 40.67 204.45 460.28 giá trị gia tăng(VA) 17.76 97.23 254.39 thu nhập hỗn hợp (MI) 15.30 87.28 237.77 lợi nhuận(Pr) 13.77 80.03 226.31 Như vậy, lợi nhuận thu được trên 1 ha mặt nước nuôi theo hình thức thâm canh bằng 2.8 lần nuôi bán thâm canh và bằng 16.4 lần nuôi quảng canh cải tiến . Ngành nuôi trồng tôm sú được xác định là nghành chính của nhiều địa phương nên việc chăm lo đầu tư rất được coi trọng. Khi so sánh giữa chi phí sản xuất và kết quả thu được đối với từng loại hình (với định mức lao động/ha nuôi tôm quảng canh cải tiến là 2, bán thâm canh là 3,thâm canh là 5) thì thấy hiệu quả của đồng vốn đầu tư đối với từng loại hình nuôi tôm là khác nhau (xem bảng 5) Bảng 5 : Hiệu quả kinh tế của 1 ha ao nuôi tôm sú ở Khánh Hoà -năm 1999: Chỉ tiêu Quảng canh cải tiến Bán thâm canh Thâm canh 1.Giá trị sản xuất/Chi phí trung gian (GO/IC) 1,77 1,9 2,24 -Giá trị sản xuất/tổng chi phí sản xuất (GO/TC) 1,51 1,64 1,97 -Giá trị sản xuất/1 lao động (GO/LĐ), triệu đồng 20,335 68,15 115 2.Giá trị gia tăng/Chi phí trung gian (VA/IC) 0,78 0,91 1,24 -Giá trị gia tăng/tổng chi phí sản xuất (VA/TC) 0,66 0,78 1,09 -Giá trị gia tăng /1 lao động(VA/LĐ) ,triệu đồng 8,88 32,41 63,6 3.Thu nhập hỗn hợp/Chi phí trung gian (MI/IC) 0,67 0,81 1,15 -Thu nhập hỗn hợp/tổng chi phí sản xuất (MI/TC) 0,57 0,7 1,02 -Thu nhập hỗn hợp/1 lao động (MI/LĐ), triệu đồng 7,65 29 59,4 4.Lợi nhuận/Chi phí trung gian (Pr/IC) 0,6 0,75 1,1 -Lợi nhuận/tổng chi phí sản xuất (Pr/TC) 0,51 0,64 0,97 -Lợi nhuận/1 lao động(Pr/LĐ), triệu đồng 6,9 26,7 45,2 *Giá trị sản xuất (GO) hay doanh thu -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 177 đồng doanh thu (giá trị sản xuất) đối với nuôi quảng canh cải tiến;190 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 224 đồng với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo ra 151 đồng doanh thu đối với nuôi quảng canh cải tiến ;164 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 197 đồng đối với nuôi thâm canh. -Một lao động trong năm tạo ra được 20.335 triệu đồng giá trị sản suất đối với nuôi quảng canh cải tiến; 68.15 triệu đồng đối vối nuôi bán thâm canh;115 triệu đồng đối với nuôi thâm canh. *Giá trị gia tăng (VA): -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 78 đồng giá trị gia tăng đối vơí nuôi quảng canh cải tiến; 91 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 124 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo ra được 66 đồng giá trị gia tăng đối với nuôi quảng canh cải tiến;78 đòng đối với nuôi bans thâm canh và 109 đồng đối với nuôi thâm canh . -Một lao động trong năm tạo ra được 8.88 triệu đồng giá trị gia tăng đối với quảng canh cải tiến; 32.41 triệu đồng đối với bán thâm canh; và 63.6 triệu đồng đối với nuôi thâm canh . *Thu nhập hỗn hợp -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 67 đồng thu nhập hỗn hợp đối vơí nuôi quảng canh cải tiến; 81 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 115 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo được 57 đồng thu nhập hỗn hợp đối với quảng canh cải tiến; 70 đồng đối với nuôi bán thâm canh và 102 đồng đối với nuôi thâm canh -Một lao động trong năm tạo ra được 7.56 triệu đồng thu nhập hỗn hợp đối với quảng canh cải tiến; 29 triệu đồng đối với bán thâm canh; và 59.4triệu đồng đối với nuôi thâm *Lợi nhuận (Pr) -Các hộ nuôi tôm khi bỏ ra 100 đồng chi phí trung gian sẽ tạo được 60 đồng lợi nhuận đối vơí nuôi quảng canh cải tiến;75đồng đối với nuôi bán thâm canh và 110 đồng đối với nuôi thâm canh; khi bỏ ra 100 đồng tổng chi phí sản xuất sẽ tạo được 51 đồng lợi nhuận đối với quảng canh cải tiến; 64đồng đối với nuôi bán thâm canh và 97 đồng đối với nuôi thâm canh -Một lao động trong năm tạo ra được 6.9 triệu đồng lợi nhuận đối với quảng canh cải tiến; 26.7triệu đồng đối với bán thâm canh; và 45.2triệu đồng đối với nuôi thâm canh . Tóm lại : * Mức đầu tư cho nuôi tôm theo các loại hình nuôi, khác nhau cả về vốn xây dựng cơ bản và chi phí sản xuất.Tổng vốn đầu tư cho 1 ha ao nuôi quảng canh cải tiến khoảng 100 triệu đồng, bán thâm canh khoảng 200 triệu đồng, thâm canh khoảng 300-400 triệu đồng * Chi phí sản xuất bình quân cho 1 ha ao nuôi quảng canh cải tiến là 27 triệu đồng, bán thâm canh là 124 triệu đồng, thâm canh là 234 triệu đồng. Trong đó chi phí thức ăn chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng chi phí ở các loại hình nuôi cả về gía trị tuyệt đối và giá trị tương đối, chi phí năng lượmg tăng theo các loại hình nuôi, từ quảng canh cải tiến đến bán thâm canh và thâm canh, cả về giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối . Các chi phí khác như: con giống, khấu hao tài sản cố định, phòng trừ dịch bệnh, tiền lương có xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về giá trị tương đối. * Giá thành sản xuất khoảng 57000 đồng /kg tôm thương phẩm * Lợi nhuận và doanh thu của 1 ha ao nuôi tăng dần theo các hình thức nuôi từ quảng canh cải tiến đến bán thâm canh và thâm canh Như vậy, lợi nhuận do nuôi thâm canh bằng 2.8 lần nuôi bán thâm canh,16.4 lần nuôi quảng canh cải tiến. Hiện nay, nuôi trồng thuỷ sản hầu hết ở mức độ nuôi quảng canh hoặc quảng canh cải tiến, chưa có các vùng nuôi qui mô lớn, nuôi công nghiệp để tạo ra sản lượng hàng hoá lớn, ổn định giá cạnh tranh. Năng suất nuôi còn thấp, khoảng 150 –200 kg/ha đối với nuôi quảng canh, mới bằng 1/4-1/10 năng suất trung bình hiện nay của các nước trong khu vực. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản còn có khả năng mở rộng, nếu sử dụng vùng đất cao triều và bãi triều ven biển thuận lợi để nuôi trồng thuỷ hải sản thì còn có thể tăng thêm 300.000 ha, chưa kể đến diện tích nhiều eo vịnh cũng có thể đưa vào nuôi trồng hải sản. Trên thực tế, rất nhiều hộ nông dân trở nên giầu có nhờ nuôi tôm, với mức thu nhập bình quân 30-50 triệu đồng /năm, kết quả đó khiến cho các hộ nông dân vùng ven biển đã sử dụng gần hết diện tích mặt nước ở các bãi bồi ven sông, biển đưa vào nuôi trồng thuỷ sản. Sự phát triển của nuôi tôm sú đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn ven biển đồng thời còn kéo theo sự phát triển của hàng loạt các nghành khác, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tạo điều kiện cho các vùng ngư dân ven biển xoá đói giảm nghèo. Mặc dù, các kết quả nghiên cứu cho thấy việc nuôi trồng thu được lợi nhuận cao nhưng thực tế rất nhiều hộ nông dân gặp rủi ro, bị thua lỗ mà nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh .Trong khi đó, dịch bệnh và sự suy thoái môi trường là những thách thức lớn đối với nghành nuôi tôm, song người nông dân hầu như thiếu quá nhiều những điều kiện cần thiết cho nghề này. Đó là thiếu kiến thức sinh vật học của con tôm, chưa nắm vững và thực hiện đúng qui trình kĩ thuật công nghệ nuôi tôm. 3.Triển vọng thị trường tôm sú thế giới Nét đặc sắc của thị trường thuỷ sản trên thế giới là trong khi phần lớn các hàng nông sản thực phẩm là loại hàng hoá trao đổi nhiều trên thị trường giữa các nước phát triển với nhau hay giữa các nước đang phát triển với nhau thì hàng thuỷ sản có giá trị cao lại được chia thành 2 thị trường rõ rệt: người mua là những nước có trình độ phát triển cao và giàu có còn người bán là các nước đang phát triển và nghèo. Thị trường thuỷ sản thế giới bị chi phối chủ yếu vẫn là các quốc gia có khả năng khai thác, chế biến và tiêu thụ thuỷ sản với khối lượng lớn như các nước Châu á (Nhật Bản, Thái Lan, …), Bắc Mỹ và EU. Chính vì vậy mà thông thường hàng thuỷ sản có giá trị cao thường được giá trên thị trường. Một mặt khác, nhu cầu về hàng hoá thuỷ sản giá trị cao lại tăng trưởng theo đà phát triển của nền kinh tế, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đã mở ra khả năng phát triển cho nhiều nền kinh tế khác và vì vậy nhu cầu về hàng thuỷ sản có giá trị cao ngày càng trở nên lớn hơn. Theo thống kê của tổ chức nông –lương thế giới –FAO, sản lượng thuỷ sản thế giới sau khi đạt tốc độ tăng trưởng cao vào thập niên 80 đã có xu hướng tăng chậm vào thập niên 90 với tốc độ tăng bình quân 2.5%/năm. Dự báo đến năm 2010, khả năng tăng sản lượng bình quân của thuỷ sản thế giới khoảng 0.32 %/năm. Nguồn cung cấp từ khai thác thuỷ sản có xu hướng giảm sút từ năm 1997 trở lại đây (từ tỷ trọng chiếm 86,17% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới giảm còn 76%năm 1997 và 73.7% năm 1998) trong khi tỷ trọng của thuỷ sản nuôi trồng trong tổng sản lượng thuỷ sản thế giới đã tăng từ 11.3% năm 1991 lên 26 % năm 1998. Việc tăng sản lượng thuỷ sản của thuỷ sản thế giới vào đầu thế kỷ XXI chủ yếu dựa vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản, còn khả năng tăng sản lượng khai thác thuỷ sản là rất hạn chế (sản lượng khkhai thác trong vài thập kỷ tới cao nhất chỉ ở mức 100 triệu tấn /năm ) do nguồn lợi thuỷ sản cạn kiệt cùng với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo FAO, trong 200 đối tượng khai thác hải sản chính có tới 35% bị khai thác quá giới hạn, 25% có nguy cơ tuyệt chủng, chỉ còn 40% có khả năng phát triển . Tới năm 2005, sản lượng nuôi tôm thuỷ sản thế giới sẽ là 51.9 triệu tấn và đạt gần 100 triệu tấn vào các thập kỷ tiếp theo. Khả năng cung ứng thuỷ sản ngày càng thấp: mức cung cấp thuỷ sản bình quân đầu người trong 10 năm tới của thế giới chỉ đạt 13.5kg/ năm, thấp hơn so với những năm 80 đạt 14 kg /người/ năm. Nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản thế giới hiện đang tăng mạnh ở tất cả các quốc gia ( bình quân phải 3%/ năm) do tăng dân số, tăng thu nhập và thay đổi thói quen tiêu dùng. Nhu cầu tiêu thụ thực phẩm thuỷ sản của thế giới sẽ tăng từ 17 kg/ người/ năm thời kỳ 1995-1997 lên 19-20 kg/ người/ năm vào năm 2030 và nhu cầu về thuỷ sản thế giới có thể vượt quá khả năng khai thác và nuôi trồng. Trong khi đó từ nay đến năm 2010, khả năng tăng sản lượng thuỷ sản không nhiều( khoảng 0.32%), vì vậy, sẽ dẫn đến việc tăng nhanh chu chuyển thuỷ sản trên qui mô toàn cầu.Trong thập kỷ qua, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới bình quân 25%/ năm.Theo dự báo trị giá chu chuyển thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục tăng ở mức 20-25%/ năm. Quan hệ cung cầu trong 15 năm tới sẽ mất cân đối và gay gắt hơn, mức giá của phần lớn các sản phẩm thuỷ sản sẽ tăng cao hơn hiện nay, tăng bình quân từ 4-6%. Về cơ cấu mặt hàng thuỷ sản, đến năm 2010 sẽ không thay đổi đáng kể so với hiện nay. Xu hướng sử dụng thuỷ sản tươi sống, đông lạnh vẫn có nhu cầu cao nhất. Đây là những nguyên nhân dẫn đến việc đẩy mạnh hoạt động buôn bán thuỷ sản thế giới trong thời gian qua. 4Phương hướng phát triển ngành nuôi tôm sú trong thời gian tới Hiện nay, phát triển nuôi trồng thuỷ sản được coi là một giải pháp hữu hiệu để bổ sung nguồn cung cấp cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ thực phẩm thuỷ sản ngày càng cao trên thế giới cũng như áp lực cho việc khai thác, thậm chí thay hoàn toàn việc khai thác tự nhiên của một số đối tượng. Các nước Châu á là khu vực nuôi trồng thuỷ sản chính của thế giới (năm 1998 chiếm 88.6% sản lượng và 81.3%giá trị nuôi trồng thuỷ sản thế giới ), trong đó, nước dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thuỷ sản là Trung Quốc (năm 1998 đạt 20.79 triệu tấn chiếm 68 % sản lượng nuôi trồng thuỷ sản thế giới ). Xu hướng chung hiện nay là các nước nuôi trồng chú trọng tăng sản lượng của những đối tượng nuôi trồng có giá trị cao, có giá trị cao nhất trong số các loài nuôi trồng hiện nay là tôm sú (đạt giá trị trung bình 66.57 USD/kg).Việt Nam cũng như các nước Châu á (Trung Quốc, Indonexia, Philipin ..) đã tập trung vào nuôi các loài: tôm sú, cá măng biển, cá rô phi, cá chép và đang dẫn đầu thế giới về nuôi tôm sú và cá măng biển Từ những đặc trưng của thị trường thuỷ sản thế giới như trên, đồng thời, tôm sú cũng là mặt hàng thuỷ sản có giá trị cao nên đầu ra cho mặt hàng này đã tìm được nơi tiêu thụ.Trong các phần trên đã trình bày, các nước có nhu cầu nhập khẩu nhiều hàng thuỷ sản có giá trị cao thường rất khó tính. Bạn ở Châu á nhưng bạn muốn xuất khẩu vào Châu Âu hay Bắc Mỹ, nếu bạn không đủ sức làm cho các cơ quan quản lý về chất lượng ở các nước nhập khẩu thừa nhận là bạn đã có một chương trình có hiệu lực vận hành trong các nhà máy chế biến của bạn thì các nhà nhập khẩu sẽ không được phép mua sản phẩm của bạn - đó là tiêu chuẩn HACCP. Cụ thể là tại thị trường Mỹ, năm 1987, Viện hàn lâm khoa học thực phẩm đã đề nghị sử dụng HACCP (Hazard Anlysis Critical Control Point) làm tiêu chuẩn kĩ thuật kiểm tra thực phẩm và được nhiều nước, tổ chức trên thế giới cộng nhận và áp dụng. Từ năm 1990,EU cũng công nhận HACCP làm tiêu chuẩn thực phẩm của mình, các nước muốn bán hàng thuỷ sản vào đây có giá cao hơn các nơi khác thì phải đáp ứng yêu cầu của HACCP. Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường nhập khẩu nên năm 1991,Việt Nam đã tiếp cận với HACCP thông qua việc cử các chuyên gia thuỷ sản đầu tiên của mình tham gia lớp tập huấn về HACCP với sự tài trợ của tổ chức quốc tế. Kết quả là trong những năm qua, ngành thuỷ sản VN đã tích cực hoàn thiện chính sách về an toàn thực phẩm thuỷ sản, thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng thuỷ sản cho nên năm 1998 có 27 nhà máy chế biến đông lạnh đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 có thêm 20 nhà máy, năm 2001 có 61 nhà máy đạt tiêu chuẩn là những nhà máy có có giấy thông hành vào Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời tháng 3 năm 1998, ngành thuỷ sản VN đã chủ động sang tham dự hội trợ quốc tế Boston (Mỹ), gian hàng cafatex với lời chú dẫn “Nhà XK hàng đầu của VN”đã gây được nhiều sự chú ý đối với các bạn hàng Mỹ và ký được nhiều hợp đồng có giá trị; có các cuộc tiếp xúc làm việc với cục nghề cá Hoa Kỳ (NMFS) và ký biên bản ghi nhớ về quan hệ hợp tác thuỷ sản việt- mỹ. Nhìn rõ vai trò của thị trường như vậy, Chính Phủ đã giao cho bộ thương mại, Bộ ngoại giao, các tham tán thương mại tại nước ngoài phải nắm chắc thị trường giá cả để làm đầu mối cho các doanh nghiệp thuỷ sản VN, việc làm đó đã có tác dụng tích cực góp phần làm cho con đường giao thương quốc tế được hình thành và mở rộng. Cụ thể là tại thị trường Mỹ, năm 1997 hàng thuỷ sản Việt Nam XK sang đạt 39,3 triệu USD năm 1998 lên 80,15 triệu USD tăng 104 % so với năm 1997; năm 1999 là 130 triệu USD tăng 162% so với năm 1998. Trong số những mặt hàng thuỷ sản vào thị trường Mỹ thì con tôm vẫn là mặt hàng chủ lực: năm 1997 xuất 3047 tấn tôm với giá trị kim nghạch 31,32 triệu USD, chiếm 79,64% tổng kim nghạch XK hàng thuỷ sản; năm 1998 xuất được 6125,7 tấn với giá trị kim ngạch 66,89 triệu USD, chiếm 83,37 % tổng kim ngạch. Năm 1999, xuất 9100 tấn với giá trị kim ngạch 96,5 triệu USD chiếm 74,23 % tổng kim ngạch. Tuy đến với thị trường Mỹ hơi muộn nhưng với sự nỗ lực vượt bậc của lãnh đạo ngành thuỷ sản, chữ tín của thương hiệu hàng thuỷ sản việt nam đã có mặt trên thị trường thế giới ngày càng cao và mở rộng, được FAO xếp hàng thứ 25 các nhà xuất khẩu thuỷ sản thế giới và thứ 3 ở khu vực Đông Nam á, là nhà cung cấp tôm lớn thứ 3 sang thị trường Nhật Bản và thứ 10 sang các thị trường khó tính đầy tiềm năng –Mỹ, đã có mặt trên 60 quốc gia ở khắp châu lục. Năm 2000, trong khi các mặt hàng nông sản quan trọng như gạo, cà phê, cao su đang bị rớt giá trên thị trường quốc tế thì tôm Việt Nam, mặt hàng chiếm 50 % XK đang được giá , từ 1 USD đến 1,5 USD/ kg ,cụ thể loại tôm sú vặt đầu từ 16 –10 con /kg năm 1999 Nhật Bản mua với giá 16,5 USD, năm 2000 lên 18,5 USD đến 19 USD /kg. Như vậy thị trường thuỷ sản luôn sáng sủa cộng thêm vào là sự nỗ lực chào hàng có chất lượng cao của doanh Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kỹ năng , luật lệ bán hàng, lựa chọn đối tác, mở rộng được thị trường tiêu thụ nhiều sản phẩm mới từ nuôi trồng. Xuất khẩu tôm sú vào thị trường Mỹ tháng 7/2000 đạt 35,74 triệu USD tăng gấp 3 lần cùng kì năm 1999, chiếm 80,79 % tổng kim ngạch tháng 7. Nhật Bản vẫn là thị trường lớn nhất chiếm gần 40 %.Mỹ chiếm khoảng 20%, các nước Châu á khoảng 25 % thị phần XK thuỷ sản VN .Mặc dù trong thời gian gân đây kim ngạch nhập khẩu của EU giảm song lại phát triển ở thị trường Trung Quốc, chỉ tính tronh tháng 9/2000 đã nhập 43 triệu USD vươn lên vị trí đầu bảng vượt cả Nhật Bản và Mỹ.Ngành thuỷ sản đã đạt mức xuất khẩu năm 2000 là 1.4 tỷ USD, trên đà phát triển của năm2000,sáu tháng đầu năm 2001 ngành thuỷ sản vẫn tiếp tục đạt được những thành tích lớn thực hiện trên 50% kế hoạch sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Tại quyết định số 251/1998/QĐ-TT của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đã xác định một trong các nhiệm vụ là phải “ phát triển nuôi trồng, khai thác bảo đảm đủ nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu”, trong đó khẳng định đưa nuôi trồng thuỷ sản trở thành nguồn chính cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu, cụ thể là phát triển nuôi tôm. Kết quả là: trước đây, khi thiếu nguyên liệu, những nhà sản xuất chế biến phải tranh mua, chỉ lo không có hàng để bán, không sợ ế thừa thì đến sáu tháng đầu năm 2001 người nuôi tôm trúng mùa, nguồn nguyên liệu cung cấp tăng lên đủ thoả mãn các nhà chế biến, tình hình tranh mua, gian lậu giảm đi thì giá cũng sụt xuống, xuất hiện một áp lực mới cho người chế biến: phải đẩy mạnh tiêu thụ. Cũng lúc đó, tình hình trên các thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu tôm, lại có nhiều chuyển biến tiêu cực . Các nước sản xuất tôm khác cũng được mùa, kể từ tháng 3, hàng chào bán ngày một tăng lên với giá không ngừng hạ xuống. Ngược lại, Nhật Bản –khách tiêu thụ tôm nhất nhì trên thế giới – lại đắm chìm trong khó khăn, chính trị xã hội thiếu ổn định, kinh tế hồi phục chậm đồng tiền chao đảo mất giá khiến cho sức mua của dân tiếp tục giảm sút. Nhập khẩu tôm của họ trong 6 tháng đầu năm 2001 giảm 10% so với cùng kì năm ngoái, giá nhập khẩu trung bình cũng giảm khoảng 20%. Kết quả là lượng sản phẩm tôm tăng lên được dồn sang thị trường Mỹ. Trong 6 tháng qua thị trường này đã nhập khẩu tôm tăng 11% so với cùng kì năm trước, trong đó từ Việt Nam tăng tới 108% tức gia tăng thêm 25%, đạt trên 37 ngàn tấn tôm xuất khẩu với giá trung bình chỉ giảm khoảng 11%. Có thể nói rằng 6 tháng đầu năm 2001vừa qua là thời kì mà nhiều khó khăn dồn dập đến với ngành thuỷ sản song các kết quả mà ngành đạt được đã đánh dấu những cố gắng vượt bậc của các nhà chế biến xuất khẩu nước nhà và chứng minh được sự trưởng thành vững chắc của ngành . Một yếu tố thuận lợi nữa để phát triển ngành thuỷ sản là trong năm 2000, hiệp định thương mại Việt Mỹ ký ngày 13/7/2000 tại Oasinhton và chính t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0058.doc
Tài liệu liên quan