Đề tài Phân tích và xây dựng biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở Xí nghiệp than Nam Mẫu - Công ty TNHH một thành viên than Uông Bí

 Hiệu quả sản suất xuất kinh doanh là nền tảng cho khả năng sinh lời của công ty hay xí nghiệp và nó được thúc đẩy bằng việc gia tăng hiệu quả của lực lượng lao động, của máy móc thiết bị. Khả năng sinh lời của một công ty hay xí nghiệp có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với hiệu quả sản suất và do đó, chúng ta phải phân tích mối quan hệ. Hiệu quả sản suất được đo bằng giá tri gia tăng.

 Giá trị gia tăng có nghĩa là giá trị mới tạo được thông qua hoạt động sản suất kinh doanh. Nói chung chỉ số này ngụ ý về giá trị mà công ty hay xí nghiệp bổ xung vào việc sản suất kinh doanh.

Có hai phương pháp để tính giá trị gia tăng

+ Một là phương pháp khấu trừ, tức là lấy doanh thu trừ đi chi phí. Cách thứ hai là phương pháp bổ sung, tức là bổ sung vào những khoản mục tạo ra giá trị gia tăng. Theo phương pháp bổ sung, tổng giá trị gia tăng bao gồm những chi phí nhân sự và lao động, chi phí thêm và các khoản khác, các khoản lệ phí., chi phí tài chính dòng và lợi nhuận hoạt động sau khi thanh toán lãi vay. Lấy tổng giá trị gia tăng trừ đi chi phí khấu hao sẽ được giá trị gia tăng dòng.

doc53 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và xây dựng biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở Xí nghiệp than Nam Mẫu - Công ty TNHH một thành viên than Uông Bí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên nhân, nguyên nhân chính từ thiếu sót của con người, không chỉ do những người trực tiếp điều khiển mà cả những nhân viên bảo quản, người giám sát, các nhà quản lý sản xuất, các nhà thiết kế, chế tạo thiết bị và người cung cấp thiết bị. Các sự cố kỹ thuật thường do thiếu sót của con người như bảo quản kém, sử dụng quá tải hoặc sử dụng không đúng quy trình. Vì thế sự chú ý nên hướng trực tiếp tới việc ngăn chặn các lỗi và thiếu sót của con người ở tất cả các cấp . Thông thường, một sự kiện hoặc một điều kiện có thể dẫn đến nhiều sai lầm hoặc thiếu sót được gọi là các thiếu sót chung. Hoạt động huấn luyện và hướng dẫn sơ sài cho người điều khiển sẽ dẫn đến một hành động sai lầm. Nếu doanh nghiệp chưa có một chương trình huấn luyện được tổ chức tốt điều đó có thể do những nhà quản lý của doanh nghiệp chưa quan tâm coi trọng công tác an toàn như là ưu tiên hàng đầu và chưa đầu tư thời gian và tiền của một cách tương xứng. Không chỉ việc huấn luyện và hướng dẫn cho người điều khiển, mà cả kỹ thuật an toàn và bảo dưỡng thiết bị cũng có xu hướng bị lơ là. Sai sót chung nguy hại nhất thuộc về tình trạng tổ chức giao trách nhiệm quản lý an toàn lao động không đầy đủ; Thiếu các bộ phận quản lý về an toàn, thiếu phối hợp giữa các phòng ban chức năng, thông tin tuyên truyền và hướng dẫn đến người lao động chưa tương xứng. Sai sót chung rơi vào sự phân cấp quản lý nhiều hơn thì có thể dẫn đến thiệt hại nhiều hơn. Do vậy trong quá trình sử dụng lao động người quản lý phải có cam kết đầy đủ về an toàn máy móc thiết bị và thông báo cam kết đó đến mọi thành viên Để đánh giá tình hình tai nạn lao động người ta căn cứ vào hệ số tần suất tai nạn( Sts) là tỷ số giữa người bị tai nạn trên số lượng người làm việc trong thời gian xác định x 1000 Kts = S N Trong đó: S - số người bị tai nạn N- số người làm việc bình quân hàng ngày Như vậy hệ số tần suất tai nạn chính là số người bị tai nạn tính theo tỷ lệ phần nghìn. Hệ số tần suất mới chỉ cho biết tình hình tai nạn xảy ra nhiều hay ít, chưa cho biết đầy đủ về tình trạng tai nạn nặng hay nhẹ. Để đánh giá tình trạng tai nạn, người ta xét thêm hệ số nặng nhẹ( Kn) là số ngày phải nghỉ việc trung bình tính cho mỗi người bị tai nạn. Kn = D S Trong đó: D- Tổng số ngày nghỉ việc do tai nạn lao động gây ra trong thời gian xét. S là số người bị tai nạn tại thời điểm đang xét Trong hệ số này chỉ kể đến các trường hợp tai nạn phải nghỉ việc tạm thời, còn các trường hợp tai nạn dẫn tới mất sức lao động hoàn toàn hoặc chết người phải xét riêng. Để đánh giá một cách tổng quát thể hiện đầy đủ đặc trưng về tình hình tai nạn, nên đưa thêm vào hệ số tai nạn nói chung (Ktn) hệ số này là phân tích hai hệ số trên, tức là: Ktn = Kts x Ktn Nhận xét: Chỉ tiêu trên đây đánh giá tình hình sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình trạng lao động của mình để có biện pháp khắc phục, giảm thiểu những rủi ro không đáng có xảy ra nhằm nâng cao chất lượng lao động, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Chỉ tiêu 4 : Hiệu quả sản xuất kinh doanh (giá trị gia tăng/ tổng số người lao động và giá trị gia tăng/ tổng số giờ lao động) Hiệu quả sản suất xuất kinh doanh là nền tảng cho khả năng sinh lời của công ty hay xí nghiệp và nó được thúc đẩy bằng việc gia tăng hiệu quả của lực lượng lao động, của máy móc thiết bị. Khả năng sinh lời của một công ty hay xí nghiệp có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với hiệu quả sản suất và do đó, chúng ta phải phân tích mối quan hệ. Hiệu quả sản suất được đo bằng giá tri gia tăng. Giá trị gia tăng có nghĩa là giá trị mới tạo được thông qua hoạt động sản suất kinh doanh. Nói chung chỉ số này ngụ ý về giá trị mà công ty hay xí nghiệp bổ xung vào việc sản suất kinh doanh. Có hai phương pháp để tính giá trị gia tăng + Một là phương pháp khấu trừ, tức là lấy doanh thu trừ đi chi phí. Cách thứ hai là phương pháp bổ sung, tức là bổ sung vào những khoản mục tạo ra giá trị gia tăng. Theo phương pháp bổ sung, tổng giá trị gia tăng bao gồm những chi phí nhân sự và lao động, chi phí thêm và các khoản khác, các khoản lệ phí., chi phí tài chính dòng và lợi nhuận hoạt động sau khi thanh toán lãi vay. Lấy tổng giá trị gia tăng trừ đi chi phí khấu hao sẽ được giá trị gia tăng dòng. Chi phí khấu hao chuyển đổi tài sản cố định thành chi phí trong thời gian hữu ích của tài sản. Hiệu quả sản suất được chia thành mức độ tập trung vốn và hiệu quả của vốn, được diễn giải dưới đây: Tổng giá trị gia tăng * Hiệu suất lao động = (Đồng) Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ Tổng giá trị gia tăng = Lợi nhuận từ hoạt động + chi phí nhân sự và lao động + chi phí thuê + thuế và các chi phí xã hội + Các khoản chi phí + chi phí khấu hao. Tổng giá trị gia tăng * Hiệu suất lao động = (đồng) Tổng số giờ lao động của công nhân * Tài sản cố định hữu hình trên số nhân công (Mức độ tập trung vốn) được đánh giá theo công thức: Giá trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ cho (Đồng) (Tài sản cố định hữu hình- Giá trị xây dựng dở dang) Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ Tỷ số này thể hiện giá trị đầu tư vào thiết bị trên đầu công nhân và giúp chúng ta hiểu được mức độ tiết kiệm lao động và sự hợp lý hoá các khoản đầu tưu vào thiết bị nhà máy trong quá trình sản xuất và bán hàng * Hiệu quả của đồng vốn = Tổng giá trị gia tăng Giá trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ cho ( Tài sản cố định hữu hình- giá trị xây dựng dở dang) Tỷ số này tính toán giá trị gia tăng trên một đồng vốn tài sản cố định hữu hình hoạt động. Đây là một chỉ số thể hiện hiệu quả sản xuất. * Hệ số chi phí lao động đối với giá trị gia tăng: Công thức tính: ( % ) Chi phí lao động và nhân sự Tổng giá trị gia tăng Chỉ tiêu này tính toán tỷ lệ giữa chi phí nhân sự phân bổ như là tiền công lao động đối với tổng gía trị gia tăng. Hệ số này dùng để xem xét gánh nặng của chi phí nhân sự. Nếu tỷ số này cao thì gánh nặng chi phí nhân sự lớn. Trong trường hợp đó có khả năng công ty gặp vấn đề trong quản lý do giảm lợi nhuận mà có thể dùng để tái đầu tư. Các chỉ tiêu trên nói nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, năng suất lao động cho biết một CBCNVC trong một thời gian nhất định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp. Điều này biểu hiện được chất lượng sử dụng lao động. Nó mang nhiều ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng gồm : Làm giảm giá thành sản phẩm Giảm số người làm việc, tiết kiêm được quỹ lương và làm tăng mức lương. Tạo điều kiện tăng quy mô và tốc độ tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Từ đó ta có các chỉ tiêu đánh giá về năng suất lao động. Thứ nhất : Cố định về thời gian Sản lượng sản phẩm Lượng thời gian lao động hao phí Thứ hai : Sản lượng cố định + Năng suất lao động bình quân giờ Sản lượng sản suất ra Tổng số giờ làm việc thực tế + Năng suất lao động bình quân ngày. Sản lượng sản phẩm sản suất ra Tổng số ngày công làm việc thực tế + Năng suất lao động bình quân một lao động Sản lượng sản suất ra Tổng số giờ làm việc thực tế Mức thu nhập bình quân một đầu người Thu nhập của người lao động là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thoả mãn các nhu cầu thiết yếu hàng ngày cho chính người lao động. Ngoài ra nó còn là yếu tố quan trọng trong việc bù đắp tái sản suất sức lao động cho người lao động. Thu nhập có cao người lao động mới có đủ điều kiện thực hiện mọi mong muốn của người sử dụng lao động, do vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng nhân lực cũng sử dụng yếu tố này. Thu nhập bình quân Của người lao động Tổng quỹ lương = các thu nhập khác = Số lao động bình quân Năng suất lao động là hiệu quả có ích của lao động cụ thể của con người trong quá trình sản xuất . Mức năng suất của lao động được biểu hiện bằng số lượng của sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động đã hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Từ đó năng suất lao động có nghĩa là người lao động sản xuất khối lượng sản phẩm nhiều hơn hoặc bằng một số lượng lao động hao phí ít hơn. Hay nói cách khác tăng năng suất lao động chính là nâng cao hiệu quả có ích của lao động cụ thể bằng cách thực hiện những sự cải tiến trong cách thức lao động, sao cho tổng số lao động hao phí để sản xuất ra trong đơn vị giảm xuống và số lượng sản phẩm sản xuất ra trong đơn vị thời gian tăng lên. Năng suất lao động được nâng cao có tác động tích cực đến việc tăng thêm khối lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Mặt khác nhờ đó mà cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện đời sống của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Do vậy tăng năng suất lao động là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi xí nghiệp, mọi người lao động trong xí nghiệp kể cả những người làm công tác quản lý, công tác kỹ thuật đều có trách nhiệm nâng cao năng suất lao động của phân xưởng, của toàn xí nghiệp. Mức năng suất lao động trong xí nghiệp được tính theo công thức tổng quát : Năng suất lao động Bình quân chung(W) = Khối lượng sản phẩm sản xuất ra(Q) Lượng lao động đã hao phí (T) Nhận xét: Nếu năng suất lao động cao sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đang đi đúng hướng và gặp phải những thuận lợi nhất định trong hoạt động sản xuất và ngược lại. 1.3. Các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực và phương hướng cải thiện. 1.3.1. Các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp SXCN. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Nhân lực là một yếu tố cấu thành nên hoạt động sản xuất. Việc sử dụng nhân lực là yếu tố mang tính quan trọng trong hoạt động sản xuất, nó quyết định tới năng suất và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Để sử dụng nhân lực có hiệu quả là vấn đề bất cứ doanh nghiệp nào cũng quan tâm, đây là yếu tố mang tính sống còn với bản thân doanh nghiệp. Với nguồn nhân lực hiện có doanh nghiệp phải cân đối tính toán đưa vào sử dụng như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình sử dụng nhân lực có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực, tuy nhiên có yếu tố ảnh hưởng nhiều, có yếu tố ảnh hưởng ít, có những yếu tố quyết định trực tiếp làm làm thay đổi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị, tổ sản xuất, phân xưởng, hoặc cả một doanh nghiệp. Những yếu ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực đó là: * Yếu tố số lượng và chất lượng lao động: Số lượng nhân lực của doanh nghiệp hiện có và huy động được để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích. Đây là nguồn nhân lực trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đánh giá yếu tố biến động lao động đến đâu hay như thế nào ta phải xem xét vào những nội dung như sau: Trước tiên cần xem xét lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất . Tổng số lao động của doanh nghiệp thường được phân thành các loại sau đây: + Công nhân sản xuất: Bao gồm công nhân sản xuất trực tiếp và nhân viên sản xuất gián tiếp. + Công nhân viên ngoài sản xuất bao gồm : Nhân viên bán hàng và nhân viên quản lý. Nhận xét: Thông qua các chỉ tiêu về nhân lực của doanh nghiệp cho thấy: - Nếu nhân lực thực có của doanh nghiệp vừa đủ để đáp ứng nhu cầu hoạt động sản suất kinh doanh , đây sẽ là điều kiện thuân lợi cho việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp. - Nếu một doanh nghiệp dù có khả năng sử dụng nhân lực tốt đến đâu, nhưng nhân lực thực có không đủ đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chắc chắn việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp cũng không được thuận lợi. Được thể hiện theo quy luật cung cầu. - Ngược lại nếu nhân lực thực có của doanh nghiệp lớn hơn nhu cầu nhân lực cần thiết phục vụ sản xuất của doanh nghiệp, có thể nói đây là điều kiện thuận lợi cho quá trình sử dụng nhân lực, nhưng lại là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến yêú tố lao động thì thừa ,công việc lại thiếu từ đó dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, do thừa nguồn nhân lực so với thực tế cần dùng. * chỉ tiêu thứ hai: Chất lượng nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp có chất lượng tốt hay xấu sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân công nhân lực của doanh nghiệp, cụ thể: + Với một khối lượng công việc sản xuất nhất định, nếu nhân lực có chất lượng tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để phân công nhân lực phù hợp và đảm bảo hoàn thành khối lượng công việc được phân công. Điều này sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc phân công nguồn nhân lực của doanh nghiệp được thuận lợi. + Nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp có chất lượng không tốt, cũng cùng với khối lượng công việc sản xuất đã xác định sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành khối lượng công việc được phân công. Do vậy trong quá trình sản xuất phải phân công điều chuyển nguồn nhân lực bổ xung từ vị trí này sang vị trí khác, vì vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bố trí và sử dụng nhân lực của doanh nghiệp không ổn định từ đó dẫn đến loãng phí về thời gian đi lại làm giảm năng suất trong lao động. Trên thực tế cho thấy nếu một doanh nghiệp có chất lượng nhân lực tốt sẽ là điều kiện thuận lợi trong quá trình sử dụng nhân lực và là tiền đề để bố trí nhân lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi. * chỉ tiêu thứ ba: Trình độ nhân lực. Trình độ nhân lực cũng là một yếu tố mang tính quyết định ảnh hưởng tới tình hình sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn sử dụng nhân lực có hiệu quả thì vấn đề đầu tiên phải thống kê đánh giá trình độ nhân lực của toàn xí nghiệp, phân loại theo trình độ đại học, trung cấp, công nhân kỹ thuật, thợ loa động lành nghề... Nếu trình độ nhân lực theo phân loại đạt thấp , không đáp ứng được yêu cầu thì dẫn đến việc sử dụng nhân lực bị hạn chế, năng suất chất lượng, hiệu quả kém. * Chỉ tiêu thứ tư: Phân công lao động Phân công lao động là một quá trình tách riêng các loại lao động khác nhau theo một tiêu thức nhất định trong một điều kiện xác định (Mà thực chất là chia quá trình sản xuất- Kinh doanh) thành các bộ phận tổ và giao cho mỗi cá nhân phù hợp với năng lực sở trường và đào tạo của họ. Một yêu cầu chung của sự phân công lao động là phải đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm sức lao động, phát huy tính chủ động và sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện duy trì và nâng cao khả năng làm việc lâu dài cũng như hứng thú của người lao động. đồng thời vẫn đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhân lực của mình Đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ với yêu cầu khách quan của sản xuất. Việc phân công lao động hợp lý sẽ là tiền đề để tổ chức sử dụng nhân lực có hiệu quả, đây là nhân tố quan trọng đảm bảo quá trình sử dụng nhân lực một cách thuận lợi. Nếu một doanh nghiệp dù có nhân lực đầy đủ đến đâu nhưng nếu không quan tâm chú ý đến việc phân công lao động hợp lý thì ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực của doanh nghiệp. * Chỉ tiêu thứ 5 : trả công người lao động : Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một bộ phận của thu nhập quốc dân, được nhà nước trả cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động mà người đó đã cống hiến cho xã hội. Tiền lương trong kinh tế thị trường được xem là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hiện nay trong các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức trả lương chính là: Trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian. Để trả lương theo sản phẩm tốt thì cần phải có biện pháp cụ thể: + Xây dựng được định mức lao động có căn cứ khoa học điều này tạo điều kiện để tính toán các đơn giá trả lương chính xác; + Đảm bảo tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sẽ tạo điều kiện để hoàn thành vượt mức kế hoạch + Làm tốt công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm được sản xuất ra đúng chất lượng đã quy định, tránh tình trạng chạy theo số lượng đơn thuần. Qua đó tiền lương sẽ được tính và trả đúng với kế haọch thực tế. + Giáo dục ý thức trách nhiệm cảu người alo động để họ vừa phấn đấu nâng cao năng suất lao động vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm vật tư nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả nhất máy móc thiết bị và các trang thiết bị khác. Hình thức trả lương theo thời gian: Phải thực hiện bố trí đúng người đúng việc, theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện thời gian làm việc Trong các doanh nghiệp ngoài hình thức trả lương còn áp dụng thực hiện chế độ tiền thưởng đây là khoản tiền bổ xung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động và nâng cao hiệu quả trong sử dụng lao động và trong sản xuất kinh doanh. Nhận xét Trong doanh nghiệp sản xuất muốn cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác thì ngoài các biện pháp cụ thể nêu trên doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lượng hàng hoá bán ra, thực hiện tốt công tác tiếp thị, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, cung cấp cho thị trường các sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn chất lượng. Để nâng cao sức cạnh tranh phải đưa ra các sản phẩm mới, hạ giá thành ở mức thị trường chấp nhận được. Đi đôi với công tác này, việc củng cố bộ máy tổ chức, củng cố nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ cho người lao động là rất quan trọng. Khi trình độ của người lao động được nâng lên thì sản phẩm làm ra đảm bảo đúng kỹ thuật, lợi nhuận xuất hiện . Mặt khác để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh tính đúng tính đủ các chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp cần có chiến lược đối với lao động, thường xuyên hoàn chỉnh quá trình sản xuất để tiếp cận với thị trường. Nếu có điều kiện nên có chế độ cử lao động đi công tác tại nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Doanh nghiệp cần phải tổ chức quản lý sao cho khoa học nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất nhịp nhàng liên tục tạo bầu không khí làm việc thoải mái. Bố trí lao động hợp lý khoa học tiết kiệm được nguồn nhân lực giữa người và máy rất thuận tiện khi sử dụng, bỏ qua các động tác thừa. Trong cơ chế mới chủ doanh nghiệp không chỉ quan tâm tới chiến lược kinh doanh mà còn phải quan tâm tới chiến lược con người đúng đắn đồng nghĩa với việc tăng năng suất lao động, sử dụng lao động có hiệu quả đây cũng là mục tiêu các doanh nghiệp phải chú ý. Qua vấn đề trên chúng ta có thể thấy quản lý và sử dụng nhân lực là khâu vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Trong một doanh nghiệp sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp được đánh giá qua việc doanh nghiệp có quản lý và sử dụng nhân lực tốt hay không, mức độ chú trọng theo cách quản lý sử dụng của từng doanh nghiệp như thế nào. Người quản lý, sử dụng nhân lực trong một doanh nghiệp phải là người biết nhìn xa trông rộng, phải nắm vững chuyên môn về quản lý nguồn nhân lực, vận dụng thành thạo các kỹ năng, am hiểu tường tận về mục tiêu hoạt động của tổ chức, phải có tâm huyết đối với người lao động. Đồng thời phải biết sắp đặt nhân lực cho phù hợp với năng lực của từng người. Từ đó họ có thể phát huy hết khả năng của mình để hoàn thành công việc một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. 1.3.2. Phương hướng cải thiện tình hình sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp SXCN. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được đặt trong sự cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải thường xuyên tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trong đó vấn đề mà các doanh nghiệp phải thực sự quan tâm đó là quản lý và sử dụng nhân lực. Để quản lý và sử dụng nhân lực một cách có hiệu quả các doanh nghiệp phải tìm ra được các biện pháp chủ yếu nhằm cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp. + Về số lượng lao động : Căn cứ vào số lượng lao động thực có của doanh nghiệp đã được phân công ở các bộ phận như cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, công nhân- nhân viên, để đánh giá xem tình hình sử dụng lao động của từng bộ phận đã hợp lý chưa, số lao động hiện có, có đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu không, bộ phận nào cần phải tuyển dụng thêm, bộ phận nào cần thiết phải đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ CNVC, thay thế cho số người về hưu, chuyển đi nơi khác Cân đối giữa nhân lực thực có và nhu cầu nhân lực để từ đó có biện pháp xây dựng kế hoạch dự kiến về nhân lực. + Về phân công lao động : Căn cứ vào nguồn lao động hiện có doanh nghiệp phải thực hiện thiết kế công việc chuẩn xác. Để phân công, bố trí lao động một cách hợp lý, khoa học. Trong quá trình sản xuất người lao động chỉ hoàn thành một phần công việc chế biến sản phẩm do đó cần phải phân chia công việc chính xác, bố trí lao động hợp lý vào các vị trí làm việc thích hợp. Việc bố trí lao động phải xem xét đến nhu cầu của sản xuất, đến năng khiếu, trình độ nghề nghiệp của mỗi người theo công việc chính, công việc phụ hoặc bố trí phân công lao động theo ngành nghề, trình độ phức tạp của công việc. Để từ đó người lao động phát huy được sở trường năng khiếu của mình. Việc phân công lao động hợp lý, khoa học trong doanh nghiệp là biện pháp cơ bản giúp cho doanh nghiệp sử dụng và quản lý nhân lực có hiệu quả, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, kinh doanh có lãi. + Về quản lý thời gian lao động: Để sử dụng thời gian lao động có hiệu quả thì doanh nghiệp phải lập kế hoạch sử dụng thời gian lao động của công nhân, đưa ra số ngày làm việc bình quân của một công nhân sản xuất trong năm kế hoạch, theo dõi chặt chẽ giờ công của công nhân hàng ngày, dựa vào bảng chấm công ở các tổ sản xuất, các bộ phận theo dõi công tác của tổ, giấy báo ngừng việc và sổ tổng hợp thời gian lao động của công nhân trong xí nghiệp. Trong quá trình sản xuất người lao động phải hao phí thời gian, việc nghiên cứu một cách có hệ thống tình hình sử dụng thời gian lao động nhằm xác định những hao phí thời gian có ích ( để quy định mức thời gian lao động) cũng như thời gian lãng phí ( để có biện pháp khắc phục). Do đó quản lý thời gian lao động là biện pháp cần thiết để sử dụng nhân lực có hiệu quả. + Chính sách tuyển dụng nhân lực. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp bình thường khi nào cũng thừa người không đảm bảo chất lượng và thiếu người đảm bảo chất lượng. Khi doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh cao hơn, quyết tâm chuẩn bị cho đầu tư tưong lai nhu cầu tuyển người càng lớn. Doanh nghiệp cần thiết phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ năng lực đảm nhiệm nhũng công việc trọng yếu. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp loại trung và lớn cần phải có đội ngũ nghiên cứu triển khai mạnh có khả năng cung cấp cơ sở, căn cứ cho lãnh đạo quyết định và hướng dẫn triển khai về đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ và đổi mới quản lý điều hành như vậy doanh nghiệp hàng năm có nhu cầu tuyển thợ lành nghề, chuyên môn, nghỉ chế độ đáp ứng nhu cầu trong việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp. + Chính sách đào tạo nhân lực. * Đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, rèn luyện tay nghề, xây dựng phong cách lao động mới cho người lao động : Đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức là vấn đề không kém phần quan trọng. Đào tạo về mặt kỹ thuật lao động sản xuất- kinh doanh và đào tạo về khả năng tiếp ứng các tác động quản lý, tham gia quản lý. Đào tạo về mặt kỹ thuật lao động phải thích hợp với trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ cơ giới hoá, tự động hoá trong sản xuất kinh doanh. Đào tạo và nâng cao trình độ cho công nhân trong điều kiện sản xuất công nghiệp phát triển là một việc làm vô cùng quan trọng và phức tạp đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch đào tạo hợp lý, khoa học. Thực hiện đào tạo tại chỗ, đào tạo bằng cách cử đi học tại các trường, lớp tập huấn kiến thức, đào tạo tại nước ngoài nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng phong cách cho cán bộ công nhân viên chức tự giác trong lao động sản xuất hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. * Tổ chức hợp lý hoá chế độ làm việc nghỉ ngơi của cán bộ công nhân viên: Người lao động khi tham gia vào quá trình lao động sản xuất sẽ bị tiêu hao sức lực, nếu lao động không có chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, khoa học sẽ không đem lại hiệu quả lao động, chất lượng cuộc sống thấp. Lao động cần được tổ chức một cách khoa học. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là sự luân phiên một cách hợp lý giữa các kỳ làm việc và các kỳ nghỉ ngơi trên cơ sở phân tích khoa học khả năng làm việc và điều kiện lao động của người lao động Không có nghỉ ngơi, không có lao động sau đó. Nghỉ ngơi xen kẽ hợp lý với lao động là sự cần thiết. Khi xây dựng chế độ nghỉ ngơi phải xác định tổng số thời gian nghỉ ngơi theo các yếu tố gây mệt, doanh nghiệp phải thực hiện xây dựng chế độ lao động và nghỉ ngơi cho một ca, cho một ngày đêm, cho một tuần, một năm. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý nhằm ngăn ngừa bảo vệ sức khoẻ cho người lao động, duy trì lâu dài kết quả lao động cao. * Cải thiện môi trường lao động: Môi trường lao động là tất cả những yếu tố mang tính chủ qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7477.doc
Tài liệu liên quan