Đề tài Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Vệt Nam và các cam kết về mở cửa thị trường

Mục lục

Mở đầu 1

Mục lục 2

1. Sơ lược về lĩnh vực bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay 3

2. Những cơ hội và thách thức khi mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm 5

2.1. Cơ hội 5

2.2. Thách thức đặt ra 5

3. Một số vấn đề trong cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm

của Việt Nam 6

3.1. Những phân ngành dịch vụ bảo hiểm theo cam kết mở cửa thị trường 6

3.2. Về thiết lập hiện diện thương mại của doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài 6

3.3. Tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp bảo hiểm

Việt Nam 7

3.4. Sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài 7

3.5. Về tái bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài 8

4. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trước cam kết hội nhập 9

4.1. Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành và một số vấn đề liên quan 9

4.2. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và yêu cầu phải

phù hợp với thực tiễn 13

5. Một số nội dung sửa đổi theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm sẽ được Quốc hội xem xét và thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII 14

5.1. Về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới 14

5.2. Về chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài 14

5.3. Về nhượng tái bảo hiểm bắt buộc 15

6. Kết luận 16

 

doc17 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2401 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Vệt Nam và các cam kết về mở cửa thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn trong hoạt động của ngành bảo hiểm tại Việt Nam, kể từ khi Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, số lượng doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng từ 14 lên 50 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng từ 3.056 tỷ đồng (năm 2000) lên 25.510 tỷ đồng (năm 2009), với tốc độ tăng bình quân trên 27%/năm; tổng số tiền các DNBH đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế tăng từ 5.000 tỷ đồng (năm 2000) lên gần 69.000 tỷ đồng (năm 2009). Đến cuối năm 2009, tổng doanh thu bảo hiểm cả nhân thọ và phi nhân thọ đạt 25.510 tỷ đồng, đạt 2% GDP. Đây là một kết quả đáng ghi nhận. Thực tế cho thấy thị trường bảo hiểm hiện nay vẫn còn nhiều tiềm năng với nhu cầu bảo hiểm ngày càng lớn. Cùng với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế về quy mô hoạt động, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý cũng xuất hiện ngày càng nhiều góp phần làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam càng thêm sôi động. Tính đến tháng 3/2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm nói riêng lên đến hơn 1 tỷ USD, chưa kể các hoạt động đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực khác do sự có mặt của các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu thế giới tại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường bảo hiểm trong thời gian qua cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp cũng như công tác quản lý, giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà một vài nguyên nhân có thể điểm qua như sau: Về khách quan, thị trường bảo hiểm Việt Nam còn rất mới so với các nước trên thế giới và trong khu vực, đang trong giai đoạn phát triển, tự hoàn thiện đối với cả phía DNBH, cơ quan quản lý và bên mua bảo hiểm. Nhân lực của ngành còn thiếu rất nhiều, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia, có kinh nghiệm cao trong lĩnh vực bảo hiểm, ví dụ các chuyên gia tính phí bảo hiểm, chuyên gia tái bảo hiểm, chuyên gia phân tích tài chính, đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp,.. Về chủ quan, thực tiễn cho thấy khuôn khổ pháp luật về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh: Có sự thiếu nhất quán trong các quy định liên quan đến kinh doanh bảo hiểm giữa Luật kinh doanh bảo hiểm và Bộ luật dân sự. Còn nhiều quy định trong Luật còn mang tính chung chung, thiếu rõ ràng dẫn đến khó khăn nhất định trong việc áp dụng Luật và giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kể từ năm 2000 đến nay, hệ thống luật có liên quan đến các vấn đề quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm đã thay đổi, ví dụ: Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, theo đó, các quy định về hình thức doanh nghiệp, về đầu tư cần được quy định rõ trong Luật Kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt là khi Việt Nam đã ký các thoả thuận hợp tác song phương (BTA với Hoa Kỳ), là thành viên của WTO với các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm; Bộ Tài chính đã là thành viên của Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS) cho nên công tác quản lý, giám sát bảo hiểm dần từng bước theo các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế và phải được thể hiện trong các quy định của Pháp luật. Xuất phát từ những lý do trên, một vấn đề quan trọng và cấp bách được đặt ra và cần thực hiện ngay đó là phải sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành nhằm đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam cũng như đáp ứng được các cam kết về mở cửa thị trường. 2. Những cơ hội và thách thức khi mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu của mọi nền kinh tế mà Việt Nam không thể đứng ngoài. Tham gia vào sân chơi lớn bên cạnh những quy định của riêng mình, chúng ta bắt buộc phải tuân thủ những nguyên tắc chung được đặt ra cho tất cả các nước và quan trọng là phải đảm bảo cho chúng phù hợp với nhau. Trước sự hội nhập sau rộng của nền kinh tế, ngành bảo hiểm cũng phải mở cửa thị trường của mình với thế giới cụ thể là thực hiện những gì mà Việt Nam đã cam kết với các nước khác và đặc biệt là khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc mở cửa thị trường theo tham cam kết chắc chắn sẽ làm cho ngành bảo hiểm trong nước chịu tác động mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung. Các tác động sẽ bao gồm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.1. Cơ hội Theo đánh giá sơ bộ việc mở cửa thị trường theo các cam kết WTO về cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước: Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Quá trình hội nhập sẽ làm giảm chi phí dịch vụ, chất lượng dịch vụ được nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng, thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành: công nghệ quản lý tiên tiến được chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được nâng cao... góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước.Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước chuyển đổi cơ cấu để tăng khả năng cạnh tranh. 2.2. Thách thức đặt ra Bên cạnh những cơ hội cho ngành bảo hiểm Việt Nam vươn lên thì việc mở cửa cho các công ty nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm cũng tạo ra những thách thức nhất định đối với ngành bảo hiểm trong nước, đó là: Việc thực hiện các cam kết cũng dẫn đến các khả năng gây bất ổn định nói chung của thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hệ thống quy định quản lý chưa theo kịp được với mức độ mở cửa thị trường... Cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn và mức độ gay gắt. Trước hết là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam cả về sản phẩm bảo hiểm, chất lượng phục vụ, nguồn nhân lực và phát triển kênh phân phối sản phẩm. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam với các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài về cung cấp sản phẩm bảo hiểm trong khuôn khổ đã cam kết tại WTO cũng gay gắt không kém. Thị trường phát triển nhanh về quy mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống. 3. Một số vấn đề trong cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam 3.1. Những phân ngành dịch vụ bảo hiểm theo cam kết mở cửa thị trường Việt Nam có cam kết mở cửa thị trường trong các phân ngành dịch vụ bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ (trừ bảo hiểm y tế); Bảo hiểm phi nhân thọ; Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; Trung gian bảo hiểm (môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm); Các dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường). 3.2. Về thiết lập hiện diện thương mại của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài Theo cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được quyền hiện diện ở Việt Nam dưới các hình thức: Văn phòng đại diện (tuy nhiên các văn phòng đại diện không được phép kinh doanh sinh lời trực tiếp); Liên doanh với đối tác Việt Nam; Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (với những hạn chế về loại dịch vụ được phép cung cấp theo lộ trình);[1] Chi nhánh (với điều kiện mở sau 11/1/2012 và chi nhánh chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ). 3.3. Tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam Trong phần cam kết chung về dịch vụ (còn gọi là cam kết nền), Việt Nam cam kết sau 1 năm kể từ ngày gia nhập, tức là từ 11/1/2008, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tại các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phù hợp với mức mà họ được phép nắm giữ trong trường hợp đầu tư trực tiếp. Trong khi đó, Việt Nam đã cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài kể từ khi gia nhập, do đó tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng sẽ là 100%. 3.4. Sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài (không có hiện diện thương mại tại Việt Nam) Theo cam kết của Việt Nam trong WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không có hiện diện thương mại (văn phòng đại diện, chi nhánh, liên doanh, doanh nghiệp con) tại Việt Nam được quyền cung cấp các dịch vụ bảo hiểm sau cho khách hàng tại Việt Nam: Dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài tại Việt Nam; Dịch vụ tái bảo hiểm; Dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế (vận tải biển, vận tải hàng không quốc tế; hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh quốc tế); Dịch vụ môi giới bảo hiểm, môi giới tái bảo hiểm; Các dịch vụ môi giới, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro, giải quyết bồi thường. Lưu ý: Hạn chế về loại dịch vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài được phép cung cấp Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba; Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt; Bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường Cũng theo cam kết thì tất cả các hạn chế này đã được bãi bỏ từ ngày 1/1/2008. Ngoài các hạn chế liệt kê trong Biểu cam kết (như đã trình bày ở trên), Việt Nam hoàn toàn có quyền áp dụng các điều kiện kỹ thuật khác để đảm bảo năng lực của nhà cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ. Đặc biệt đối với các dịch vụ tài chính thì các Thành viên WTO còn được áp dụng các điều kiện thận trọng khác để đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính. Các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài trong những trường hợp đã nêu đều có thể mua các dịch vụ này từ các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam. Theo cam kết, Việt Nam không hạn chế loại doanh nghiệp bảo hiểm có thể cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu theo đường biển đi hoặc đến Việt Nam. Vì vậy, chủ hàng Việt Nam có thể mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài (dù họ không có hiện diện tại Việt Nam). Việt Nam cam kết không có hạn chế gì đối với việc tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài (phương thức 2) trong lĩnh vực bảo hiểm. Vì vậy, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam ra nước ngoài hoạt động, học tập, lao động, hoạt động kinh doanh có quyền mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. 3.5. Về tái bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài Theo cam kết, đối với vấn đề tái bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm vốn FDI hay chi nhánh của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thì Việt Nam không được đưa ra hạn chế nào đối với hoạt động tái bảo hiểm (kể cả tái bảo hiểm ra nước ngoài) của các hiện diện thương mại của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam (chi nhánh, liên doanh, công ty con). Vì vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hay chi nhánh của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam không bắt buộc phải tái bảo hiểm với bất kỳ một doanh nghiệp cụ thể nào của Việt Nam mà có thể trực tiếp tái bảo hiểm toàn bộ với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. 4. Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trước cam kết hội nhập Các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành về cơ bản đã đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên vẫn còn những điểm chưa phù hợp với các cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam, nội dung của phần này sẽ phân tích những điểm đó, đồng thời bàn về một số yêu cầu nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trong bối cảnh các thời hạn bãi bỏ các hạn chế mở cửa thị trường đã cận kề. 4.1. Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành và một số vấn đề liên quan Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm là một phân ngành của dịch vụ tài chính. Gia nhập vào WTO, Việt Nam đã cam kết đối với bảo hiểm gốc, gồm bảo hiểm nhân thọ (trừ bảo hiểm y tế) và bảo hiểm phi nhân thọ; tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; trung gian bảo hiểm (như môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm); dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường). Cam kết này bao gồm hầu hết những hoạt động được xem là kinh doanh bảo hiểm và những hoạt động liên quan thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật Kinh doanh bảo hiểm).[1] Như vậy, các loại bảo hiểm có tính chất kinh doanh đều thuộc đối tượng mở cửa thị trường, mặc dù ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 đã không thể dự liệu những tình huống mới phát sinh theo như các cam kết khi gia nhập vào thị trường thế giới và như vậy đã không có đầy đủ các công cụ pháp lý cũng như một số công cụ pháp lý đã không còn phù hợp để thực hiện các cam kết này. [1] Luật số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm Thứ nhất, Việt Nam cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài (hay “tiêu dùng ngoài lãnh thổ”). Điều này được hiểu là việc người tiêu dùng của một Thành viên WTO di chuyển sang lãnh thổ Việt Nam để sử dụng dịch vụ bảo hiểm thì được quyền tham gia thị trường và không có sự đối xử phân biệt so với người tiêu dùng trong nước khi sử dụng dịch vụ bảo hiểm tương tự. Nội dung cam kết này đặt ra vấn đề liên quan đến cơ chế thiết lập quan hệ bảo hiểm thương mại một cách bình đẳng cho các giao dịch bảo hiểm liên quan đến người tiêu dùng nước ngoài. Tuy nhiên hiện nay điều này dường như còn khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm cũng không đề cập việc tham gia bảo hiểm theo phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ có điểm gì đặc biệt không. Nói cách khác, chưa có cơ chế điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với thực thể di chuyển trong trường hợp phát sinh quan hệ hoặc có tranh chấp xảy ra. Trong khi đó đặc tính “di chuyển” không ổn định của thực thể tiêu dùng ngoài lãnh thổ sẽ làm nảy sinh các vấn đề khác biệt cần được xác định như: đối tượng bảo hiểm (tài sản, trách nhiệm, con người), phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm.. Các nội dung này sẽ thay đổi một khi họ dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác. Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường đối với phương thức cung cấp qua biên giới đối với dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm; dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế (gồm vận tải biển quốc tế, hàng không thương mại quốc tế, hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh quốc tế); dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường. Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Như vậy, cam kết này mở ra nhiều cơ hội cho các dự án hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lựa chọn doanh nghiệp để thiết lập quan hệ bảo hiểm thay vì chỉ được phép giao dịch với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Điều này đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến loại hình bảo hiểm phi nhân thọ mà hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đang nắm giữ thị phần lớn. Tuy nhiên, cam kết này làm phát sinh mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm được ghi nhận tại Luật Kinh doanh bảo hiểm, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam”[2]. Thậm chí, nguyên tắc này còn được tái khẳng định bởi văn bản dưới luật ngay cả khi cam kết của Việt Nam với WTO đã có hiệu lực, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm và chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam”[3]. Mặc dù, mâu thuẫn này được giải quyết bởi nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật quốc tế trước luật quốc gia” và được ghi nhận ngay trong Luật Kinh doanh bảo hiểm[4] cũng như Nghị quyết số 71/2006/QH11[5], tuy nhiên phần lớn các quy phạm luật quốc tế là cần được nội luật hóa, vì chỉ một số ít các cam kết quốc tế là được quy định “đủ rõ, chi tiết” mới có thể áp dụng trực tiếp. Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Nghị quyết số 71/2006/QH11 chỉ mới nhận thấy các cam kết gia nhập WTO “đủ rõ, chi tiết” để không áp dụng một quy định của Luật KDBH, theo đó “Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm trong nước theo quy định của Chính phủ”[6]. Nhưng mặt khác Quốc hội cũng đã không loại trừ rằng còn có các cam kết khác “đủ rõ, chi tiết”, nên cũng còn giao cho Chính phủ , Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trách nhiệm rà soát các cam kết được quy định đủ rõ, chi tiết nhưng chưa được ghi trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết này để áp dụng trực tiếp và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội[7]. Các cam kết khác không được quy định “đủ rõ, chi tiết” cần phải được nội luật hóa [2] Khoản 1 Điều 6 Luật KDBH. [3] Điều 3 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật KDBH (Nghị định số 45/2007/NĐ-CP). Đáng chú ý là Nghị định này được ban hành sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam (Nghị quyết số 71/2006/QH11). [4] Khoản 2 Điều 2 Luật KDBH. [5] Đoạn 2 mục 2 Nghị quyết số 71/2006/QH11. [6] Xem khoản 2 Điều 9 Luật KDBH, mục 3 Phụ lục kèm theo Nghị quyết số 71/2006/QH11. [7] Điểm a mục 3 Nghị quyết số 71/2006/QH11 thông qua việc các cơ quan này “rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới”[8]. Thứ hai, đối với phương thức hiện diện thương mại, Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường, kể từ ngày 01/01/2008 thị trường bảo hiểm bắt buộc hoàn toàn được mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và sau 5 năm từ khi gia nhập WTO, doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài mới được thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, “căn cứ vào các quy định quản lý thận trọng”[9]. Việc quản lý những chi nhánh này sẽ được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn và nguyên tắc trong ngành bảo hiểm được quốc tế thừa nhận của Hiệp hội Các nhà quản lý Bảo hiểm Quốc tế (IAIS)”[10]. Chi nhánh được cấp phép thành lập, với tư cách là đơn vị phụ thuộc có chức năng kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, đương nhiên được phép kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cam kết đối với phương thức hiện diện thương mại. Cam kết này làm cho các hạn chế về nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không còn phù hợp,[11] bởi vì các doanh nghiệp loại này được hưởng quy chế đối xử quốc gia.[12] [8] Điểm b mục 3 Nghị quyết số 71/2006/QH11. [9] “Các quy định quản lý thận trọng” được đề cập tới trong cam kết về dịch vụ tài chính (Biểu cam kết dịch vụ: 7. Dịch vụ tài chính), theo GATS được hiểu là “những biện pháp vì lý do thận trọng, bao gồm các biện pháp để bảo hộ nhà đầu tư, người gửi tiền, người nắm giữ hợp đồng bảo hiểm hoặc những người nắm chứng từ tài chính đáo hạn thuộc sở hữu của một người cung cấp dịch vụ tài chính, hoặc để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính” (GATS, Phụ lục về các dịch vụ tài chính, mục 2(a)). [10] Xem mục 494 Báo cáo của Ban công tác. [11] Xem Điều 119 Luật KDBH, Điều 39 NĐ 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chi thiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm (nghị định này đã hết hiệu lực). [12] Mặc dù Điều 119 Luật KDBH không trực tiếp quy định các hạn chế nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng thừa nhận quyền quy định các hạn chế đó. Bởi vậy bản thân quy định tại Điều 119 Luật KDBH cần phải được bãi bỏ, mặc dù Nghị định số 45/2007/NĐ-CP không còn có các quy định hạn chế riêng đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài như Nghị định số 42/2001/NĐ-CP tiền thân. Cam kết này cũng còn làm cho các quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm về hình thức hoạt động tại Việt Nam của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không còn phù hợp, vì Luật này chỉ mới cho phép doanh nghiệp bảo biểm nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam[13]. Các quy định liên quan của Luật này và các quy định chi tiết thi hành các điều khoản đó[14] theo đó cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung trước khi thời hạn 5 năm kết thúc. Thứ ba, Việt Nam chưa cam kết hiện diện thể nhân trừ các cam kết chung được áp dụng cả đối với dịch vụ bảo hiểm. Theo cam kết chung, Việt Nam cho phép nhập cảnh và lưu trú tạm thời đối với các thể nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, nhân sự khác, người chào bán dịch vụ, người chịu trách nhiệm về thành lập hiện diện thương mại, cũng như nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng. Như vậy với việc cho phép có sự hiện diện thương mại của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, hoặc thông qua việc thực hiện cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (có thể theo phương thức cung cấp qua biên giới), hoặc đơn giản là chào bán dịch vụ (có thể xem là một hình thức xúc tiến thương mại) thì thể nhân có thể hiện diện tại Việt Nam để thực hiện những hoạt động có liên quan đến việc cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Việc không cam kết hiện diện thể nhân trong phân ngành dịch vụ bảo hiểm giúp bảo vệ thị trường lao động trong lĩnh vực này. Trong khi đó các cam kết chung về hiện diện thể nhân tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài có thể thực hiện được phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới cũng như phương thức hiện diện thương mại trong phạm vi mở cửa thị trường của Việt Nam. 4.2. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và yêu cầu phải phù hợp với thực tiễn Trước những vấn đề được đặt ra đối với Pháp luật Kinh doanh bảo hiểm của VN trong trong giai đoạn bắt đầu thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO, Quốc hội cơ bản tán thành với đề nghị của Chính phủ là cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm để phù hợp với cam kết Tổ chức WTO của Việt Nam trong [13] Xem khoản 2 Điều 105 Luật KDBH. [14] Điều 34, 35 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP. lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, phù hợp với các luật có liên quan và sửa đổi, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thúc đẩy phát triển thị trường bảo hiểm ổn định và bền vững. Ngay trong thời gian đề tài tiểu luận này được thực hiện thì “ dự thảo Luật sửa dổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm” do Chính phủ đệ trình cũng đang được thảo luận để thông qua tại kỳ hop thứ 8 Quốc hội khóa 12. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH nhằm làm cho Luật phù hợp hơn với tình hình thực tiễn của nước ta, tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm vận động phát triển ổn định, hội nhập khu vực và quốc tế. 5. Một số nội dung sửa đổi theo Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH sửa đổi, bổ sung 12 điểm, thuộc 03 nhóm vấn đề liên quan đến 14 điều trong tổng số 129 điều của Luật, trong đó có các sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cam kết WTO của Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm và các nguyên tắc bảo hiểm quốc tế. 5.1. Về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới Theo cam kết với WTO, Việt Nam cho phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới, tuy nhiên, Luật KDBH chưa quy định về hoạt động này. Vì vậy Khoản 1, Điều 6 được sửa đổi, bổ sung như sau: “1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam; Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có nhu cầu bảo hiểm có thể lựa chọn tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam hoặc sử dụng dịch vụ bảo hiểm được cung cấp qua biên giới.” 5.2. Về chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài Luật KDBH hiện hành không quy định hình thức chi nhánh của DNBH nước ngoài. Theo cam kết WTO, sau 5 năm kể từ ngày cam kết gia nhập WTO có hiệu lực, Việt Nam cho phép mở cửa đối với chi nhánh của DNBH nước ngoài. Vì vậy, Điều 59 sẽ bổ sung hình thức này, đồng thời, Điều 105 về hình thức hoạt động của DNBH, DNMGBH nước ngoài và Điều 108 về thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài chính cũng sẽ được sửa tương ứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm việt nam và một số vấn đề pháp lý liên quan.doc
Tài liệu liên quan