Đề tài Pháp luật Quốc tế và Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu, thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi

LỜI NÓI ĐẦU

LỜI CẢM ƠN

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU

1.1. Khái niệm hoạt động nhập khẩu

1.2. Tính tất yếu của sự phát triển hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam

 

CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỘ PHÁP LÍ QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU

2.1. Những quy định của Luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam về Hợp đồng nhập khẩu

2.1.1. Các điều khoản cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế

2.1.2. Các quy định về chào hàng trong Thương mại Quốc tế

2.2. Các phương thức thanh toán thông dụng trong Thương mại Quốc tế

2.3. Các điều kiện giao hàng theo Incoterms

2.4. Các công cụ kinh tế chủ yếu trong quản lí hoạt động nhập khẩu

 

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM VÀ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ THẮNG LỢI

3.1. Những thành tựu chủ yếu về nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam những năm vừa qua

3.2. Thực trạng sử dụng các công cụ kinh tế quản lí hoạt động nhập khẩu

3.3. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi

 

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỂ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ ĐỂ ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA PHÍA VIỆT NAM

4.1. Điều chỉnh các công cụ quản lí kinh tế

4.1.1. Quản điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện các công cụ trong quản lí hoạt động nhập khẩu

4.1.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm từng bước hoàn thiện các công cụ kinh tế thúc đẩy hoạt động nhập khẩu

4.2. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu

4.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển hoạt động nhập khẩu

4.2.2. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp

 

doc69 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật Quốc tế và Luật Việt Nam quy định Hoạt động nhập khẩu, thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản mới ra đời không làm vô hiệu các phiên bản trước đó. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận chọn bất cứ một phiên bản nào dù là mới hay cũ. Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Theo điều kiện FOB, người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi hàng qua lan can tàu mà người mua chỉ định ở cản bốc hàng quy định vào ngày hoặc thời hạn các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Kể từ thời điểm này, người mua chịu mọi chi phí và rủi ro về mất mát và hư hỏng hàng hóa. Theo điều kiện này, người bán phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu và chịu mọi chi phí liên quan đến thủ tục đó. Nghĩa vụ của người bán giao hàng lên tàu do người mua chỉ định trong thời gian quy định chính là bản chất cảu điều kiện FOB. Nhưng nếu người mua không thông báo cho người bán về tên con tàu, về địa điểm bốc hàng và thời gian yêu cầu giao hàng thì có thể dẫn đến việc rủi ro chuyển từ người bán sang người mua trước khi hàng hóa được bốc lên tàu. Người ta gọi đây là trường hợp rủi ro chuyển sớm. Do vậy, nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho người bán về những chi tiết cần thiết cho việc giao hàng thi rủi ro về những mất mát và hư hỏng hàng hóa sẽ được chuyển từ người bán sang người mua kể từ ngày quy định hoặc ngày cuối cùng của thời hạn quy định cho việc giao hàng với điều kiện là hàng hóa sẽ được cá biệt hóa theo hợp đồng. CIF là điều kiện buôn bán Quốc tế rất phổ biến theo đó giá hàng hóa bao gồm giá của bản thân hàng hóa đó cộng với chi phí bảo hiểm và cước vận chuyển hàng hóa tới cảng đến quy định. Do vậy, nghĩa vụ của người bán là phải thuê tàu để chở hàng đến cảng đích quy định, cung cấp hàng theo hợp đồng và bốc hàng lên tàu tại cảng bốc quy định trong thời hạn quy định, mua bảo hiểm cho hàng hóa với mức bảo hiểm tối thiểu và bằng đồng tiền dùng để thanh toán trong hợp đồng, cung cấp cho người mua một vận đơn đã bốc hàng hoàn hảo, lưu thông được, và một đơn bảo hiểm lưu thông được, chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa cho đến khi hàng đã qua hẳn lan can tàu ở cảng bốc hàng. Người mua phải trả tiền hàng và nhận các chứng từ phù hợp với hợp đồng, và chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua hẳn lan can tàu \ tại cảng bốc hàng. Cả hai điều kiện này đều chỉ được áp dụng khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển và đường thủy nội địa. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn. 2.4. Các công cụ kinh tế chủ yếu trong quản lí hoạt động nhập khẩu 2.4.1. Công cụ thuế quan Thuế là một công cụ quan trọng để Nhà nước huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu khi qua hải quan của một nước. Như vậy, thuế quan nhập khẩu là khoản thu do Nhà nước đặt ra đối với hàng hóa nhập khẩu khi hàng hóa đó làm thủ tục thông quan tại cửa khẩu hải quan hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Chính sách thuế quan của Nhà nước thể hiện trước hết thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Còn công cụ thuế quan thể hiện trước hết và chủ yếu là qua các biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu. Có nhiều loại thuế quan nhập khẩu khác nhau, nhưng nhìn chung chúng được phân chia thành 3 loại như sau: Thuế phần trăm thông thường: được thể hiện là một con số phần trăm của giá tính thuế hàng nhập khẩu. Hiện nay, trên Thế giới, đây là loại thuế được sử dụng rộng rãi nhất. Thuế phi phần trăm, gồm: Thuế tuyệt đối: thuế xác định bằng một khoản cố định trên một đơn vị hàng nhập khẩu. Trong số các loại thuế phi phần trăm thì loại thuế này được các nước áp dụng nhiều nhất. Thuế tuyệt đối thay thế: quy định quyền lựa chọn áp dụng thuế phần trăm hoặc thuế tuyệt đối, tùy thuộc vào mức nào cao hơn. Thuế kết hợp: kết hợp cả thuế phần trăm và thuế tuyệt đối. Một số loại thuế quan đặc biệt: Hạn ngạch thuế quan: là một loại thuế với hai mức thuế suất căn cứ vào số lượng hàng hóa nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng theo phương thức: trong một khoảng thời gian xác định trước, một mức thuế suất thấp hơn được áp dụng đối với một số lượng hàng hóa nhập khẩu trong hạn ngạch còn tất cả số lượng hàng hóa nhập khẩu ngoài hạn ngạch phải chịu mức thuế suất cao hơn. Hạn ngạch thuế quan có 3 tác động chính là: Kiểm soát nhập khẩu theo số lượng hàng được cấp hạn ngạch; Cân bằng cạnh tranh và bảo hộ ở số lượng và thuế suất trong hạn ngạch; Hạn chế cạnh tranh bằng thuế suất cao khi khối lượng hàng nhập khẩu vượt quá mức hạn ngạch. Thuế đối kháng hay còn gọi là thuế chống trợ cấp Đây là một loại thuế đánh vào sản phẩm nhập khẩu để bù lại việc các nhà sản xuất và xuất khẩu sản phẩm đó được Chính phủ nước xuất khẩu trợ cấp. Thuế đối kháng được áp dụng nhằm đối phó với hành vi thương mại không lành mạnh của nước khác. Khi một nước trợ cấp cho ngành công nghiệp nội địa hoặc ngành sản xuất xuất khẩu, lợi thế cạnh tranh tự nhiên của các đối tượng tham gia thị trường sẽ bị bóp méo. Hàng xuất khẩu của các nước không trợ cấp khó xâm nhập vào thị trường nước trợ cấp cho dù họ có lợi thế cạnh tranh cao hơn nếu xét trong thị trường cạnh tranh tự do. Hoặc xảy ra tình trạng hàng nhập khẩu được trợ cấp tràn vào gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó, các nước bị ảnh hưởng có thể sử dụng thuế đối kháng đánh vào hàng nhập khẩu được trợ cấp nhằm triệt tiêu tác động tiêu cực của trợ cấp. Trong khuôn khổ WTO, thuế đối kháng là biện pháp đối kháng mang tính đơn phương chỉ được phép áp dụng sau khi đã tiến hành điều tra theo đúng các quy tắc của WTO. Kết quả điều tra nếu chứng minh được rằng hàng hóa thực sự đã được trợ cấp, ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại vật chất, và xác định được có mối quan hệ nhân quả giữa trợ cấp và thiệt hại sẽ là cơ sở để áp dụng thuế đối kháng. Cũng theo quy định của WTO, thuế đối kháng chỉ được áp dụng tối đa là 5 năm, trừ khi cơ quan chức trách thấy rằng thiệt hại do trợ cấp gây ra vẫn tiếp tục hoặc có tiềm năng tái diễn. Thuế chống bán phá giá: là một loại thuế quan đặc biệt được áp dụng để ngăn chặn, chống lại và đối phó với hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá vào thị trường trong nước, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh. Việc bán phá giá một sản phẩm xảy ra khi giá xuất khẩu 1 sản phẩm thấp hơn giá hàng hóa tương tự bán tại nước xuất khẩu. Việc áp dụng thuế chống bán phá giá cũng có thể gây ảnh hưởng, cản trở đến hoạt động thương mại do sự kéo dài, bất ổn định, không chắc chắn vốn có của sự việc này. Hơn nữa, để thực thi biện pháp thuế chống bán phá giá, đòi hỏi các nước phải thiết lập các thể chế thương mại phù hợp mà việc này thì lại rất tốn kém, khó khăn đối với các nước đang phát triển. Thuế bổ sung: là loại thuế được đặt ra để thực hiện biên pháp tự vệ đặc biệt trong các trường hợp khẩn cấp. Các chính phủ có thể áp dụng thuế bổ sung cao hơn mức thuế thông thường nếu như kết luận hàng nhập khẩu của sản phẩm đó tăng lên quá nhanh với mức giá quá thấp gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ làm mất đi một ngành sản xuất nào đó trong nước. Cho đến nay, thuế quan nhập khẩu vẫn là một công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của các Chính phủ trên Thế giới. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả Thế giới. Nhưng đối với một nên kinh tế lớn, khi đánh thuế nhập khẩu cao sẽ làm ảnh hưởng đến giá cả Thế giới ở những mức độ khác nhau đối với các mặt hàng có dung lượng thị trường tiêu thụ lớn. Thuế nhập khẩu tạo ra sự phận phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận được mức giá cao hơn), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của Quốc gia khác. Thuế quan nhập khẩu có rất nhiều mặt tích cực. Ngoài ý nghĩa quan trọng nhất là bảo về nền sản xuất trong nước như đã nói ở trên, do thuế nhập khẩu có tính minh bạch nên dù đó là mức thuế cao hay thấp cũng cho phép nhà nhập khẩu lượng hóa được cơ hội tiếp cận thị trường tại mỗi Quốc gia để chủ động đề ra phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. 2.4.2. Công cụ tỉ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái phản ánh mối quan hệ về sức mua giữa nội tệ so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối đoái là loại giá cả Quốc tế quan trọng nhất, chi phối những loại giá cả khác và tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sồng kinh tế xã hội Quốc gia. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu tác động mạnh nhất và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỉ giá hối đoái. Một nền kinh tế càng mở ra bao nhiêu, quy mô và vị trí của nên kinh tế đó càng mở rộng bao nhiêu thì vai trò của đồng tiền nước đó, sức mua của nó so với các đồng tiền khác trong thương mại Quốc tế càng lớn bấy nhiêu. Là một loại giá cả Quốc tế, tỷ giá hối đoái dùng để tính toán và thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ xuất nhập khẩu. Tỷ giá hàng nhập khẩu liên quan đến lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng hàng nhập khẩu có giá trị theo đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá thực chất là một giá cả do cung cầu về ngoại tệ trên thị trường quyết định. Nhà nước sẽ ko can thiệp hay chỉ can thiệp một cách gián tiếp và có mức độ mà thôi. 2.4.3. Công cụ tín dụng Đây là một trong những công cụ Tài chính thường được Chính phủ các nước sử dụng dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm cung cấp các khoản tín dụng đầu tư phát triển và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, được thực hiện bằng cơ chế hỗ trợ về lãi suất tín dụng của Nhà nước đối với người đi vay. Ngoài 3 công cụ chủ yếu trên, Chính phủ còn có thể sử dụng nhiều loại công cụ kinh tế khác nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng, như: bảo hiểm xuất nhập khẩu, thưởng xuất khẩu, quy định về quản lí ngoại hối,… CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM VÀ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ THẮNG LỢI 3.1. Những thành tựu chủ yếu về nhập khẩu hàng hóa của Việt nam những năm vừa qua Bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra trên toàn Thế giới, thấm vào từng mạch máu kinh tế của Quốc gia, cộng thêm hệ thống pháp luật về thương mại Quốc tế ngày càng hoàn chỉnh, hoạt động xuất nhập của Việt Nam đã diễn ra vô cùng sôi động, đặc là trong khoảng 10 năm trở lại đây. Hoạt động nhập khẩu đã tạo được nguồn vốn và thị trường để đảm bảo nhập khẩu vật tư, vật liệu, máy móc, thiết bị và công nghệ đáp ứng cơ bản về nhu cầu đầu vào cho quá trình sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng hóa là tư liệu sản xuất, giảm nhanh tỷ trọng hàng tiêu dùng. Năm 2000, tư liệu sản xuất chiếm xấp xỉ 95% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt nam; trong đó, máy móc thiết bị chiếm khoảng 26- 27%. Từ năm 2001 trở đi, tỷ trọng máy móc, thiết bị, phụ tùng chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt nam Đơn vị: % Nhóm hàng nhập khẩu 1990 2000 2001 2002 2003 - hàng tư liệu sản xuất 85 95 92 92.5 93.3 + Máy móc, thiết bị, phụ tùng 27 30.5 30.7 29.8 + Nguyên vật liệu 68 61.5 62.2 63.5 - Hàng tiêu dùng 15 5 7.9 7.1 6.7 Tổng cộng 100 100 100 100 100 Nguồn: Niên giám thống kê 1991, 2001, 2002, 2003 Tổng cục Thống kê Sau gần 3 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, kim ngạch ngoại thương Việt Nam - Hoa Kỳ đã vượt ngưỡng 5 tỉ USD năm 2003, riêng 9 tháng năm 2004 đã đạt trên 4 tỉ USD, tăng 9,8% so cùng kỳ năm trước, đưa Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Điều đó cho thấy những ảnh hưởng tích cực của Hiệp định đối với thương mại Việt Nam. Đây là một tín hiệu tốt bởi Hoa Kỳ là thị trường công nghệ nguồn hàng đầu thế giới, nhập khẩu máy móc thiết bị từ Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta có được các trang thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nhập khẩu các nguyên liệu cần thiết mà trong nước chưa làm được để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ như nguyên phụ liệu của ngành dệt may, giày dép, linh kiện điện tử và vi tính, chất dẻo nguyên liệu, hay các vật tư cần thiết phục vụ sản xuất và đời sống như phân bón, sắt thép, tân dược... Điều này được phản ánh trong cơ cấu hàng nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ: năm 2002, các sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm tới 75% tổng trị giá nhập khẩu từ Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu là các sản phẩm máy móc và thiết bị giao thông, nguyên liệu và vật tư phục vụ cho sản xuất trong nước và cho xuất khẩu. Nhập khẩu hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2003, tỷ trọng nhập khẩu các sản phẩm chế tạo tăng lên 77% tổng kim ngạch nhập khẩu trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị đạt 709,4 triệu USD, chiếm 62% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 61,5% so với 2002, nhập khẩu các nguyên liệu và vật tư cần thiết khác đạt 173,7 triệu USD bằng 15% tổng kim ngạch nhập khẩu.... Trong lĩnh vực nhập khẩu, năm 2005 kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường khu vực và thế giới vào Việt Nam đạt 37 tỷ USD, tăng 15,79% so với năm 2004. Mặc dù ta vẫn nhập siêu nhưng tỷ lệ nhập siêu đó đã giảm so với trước và điều quan trọng hơn cả: sự nhập siêu đó là cần thiết cho quá trình CNH,HĐH đất nước. Tuy còn nhập siêu ở mức cao nhưng vẫn ở trong tầm kiểm soát của nhà nước ta như Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã nhận định. Điều cần nói thêm là nhập siêu cao đã trở thành tính quy luật đối với các nước đang phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH nền kinh tế. Ví dụ giai đoạn 1980-1985 tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc là 11% (năm cao nhất là 20%), của Thái Lan là 39%, của Philippin là 40%...Nhìn chung, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam những năm vừa qua đã đảm bảo phục vụ tốt cho nhu cầu phát triển sản xuất và nhu cầu tiêu dùng hợp lý của nhân dân. Những mặt hàng thiết yếu vẫn được nhập khẩu cân đối cung cầu như: xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, thuốc chữa bệnh, các máy móc, thiết bị kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại… Nhập khẩu chủ yếu trong thời gian qua là máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu đầu vào... phục vụ cho nhu cầu đầu tư của Nhà nước và của doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước cho thấy, khi tăng nhập khẩu thông qua tăng đầu tư trong nước thì hoàn toàn có thể kỳ vọng vào một sự tăng trưởng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Nhìn dưới góc độ này, nhập khẩu cao là một dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Ở Việt Nam, khi tình hình tài chính, tiền tệ diễn biến có lợi cho việc cung ứng ngoại tệ như thời gian qua, thì việc tranh thủ nhập khẩu để đầu tư cũng là điều cần thiết. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng quan trọng trong nhập khẩu hàng hóa, nhất là trong nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại. Đến nay, phần lớn các loại máy móc này đều được nhập khẩu bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nhờ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. 3.2. Thực trạng sử dụng các công cụ kinh tế quản lí hoạt động nhập khẩu 3.2.1. Công cụ thuế quan Thực hiện cam kết giữa Chính phủ Việt Nam với IMF trong chương trình ESCAP về việc giảm thuế nhập khẩu, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX đã thông qua biểu thuế nhập khẩu áp dụng từ 1/1/1996 với 6 loại thuế suất, thuế suất tối đa chỉ còn 160%. Thực hiện chính sách thuế nhập khẩu theo nguyên tắc có phân biệt đối xử, ngày 2/5/1998, Quốc hội đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, trong đó quy định thuế nhập khẩu chỉ có 3 loại thuế suất: Thuế suất thông thường: áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ những nước không có thỏa thuận tối huệ quốc, mức thuế suất này cao hơn mức thuế suất ưu đãi 50%; Thuế suất ưu đãi: áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ những nước có thỏa thuận tôi huệ quốc; Thuế suất ưu đãi đặc biệt: áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ những nước có thỏa thuận đặc biệt với Việt Nam. Đến nay, biểu thuế nhập khẩu hiện hành có mức thuế suất từ 0 – 100%. Thuế suất 0% chủ yếu áp dụng đối với các loại hàng vật tư, thiết bị, máy móc. Mức thuế suất 80 – 100% chủ yếu áp dụng với hàng tiêu dùng cao cấp như rượu, bia, ôtô,… Như vậy, mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm từng bước, phù hợp với quy trình tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường nội địa và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống thuế quan nhập khẩu của Việt nam đã ngày càng được điều chỉnh, đổi mới về cơ cấu cũng như cơ chế định giá theo hướng minh bạch hóa, làm cho thuế quan trở nên dễ tính toán và dễ dự đoán hơn đối với các doanh nghiệp. Qua đó cho phép các nhà Xuất khẩu nước ngoài lượng hóa được cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam. Và các nhà nhập khẩu Việt Nam cũng lượng hóa được cơ hội tiếp cận các thị trường nhập khẩu cũng như hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, tiên đoán chính xác hơn mức độ cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu để đề ra phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động nhập khẩu phù hợp với mục tiêu phát triển chung của Quốc gia. Tuy nhiên, mức thuế quan nhập khẩu bình quân gia quyền của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển là thành viên của WTO và cũng còn cao hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á (trong biểu thuế của Việt Nam, mức thuế suất trung bình cho tất cả các mặt hàng là 15,9% và riêng mức thuế suất trung bình cho các mặt hàng có thuế suất từ 10% trở lên là 23,6%). Hơn nữa, trong tổng kim ngạch nhập khẩu, các mặt hàng thuộc diện miễn thuế nhập khẩu, hàng gia công và hàng có thuế suất 0% chiếm tỉ lệ rất lơn. Điều này cho thấy mức bảo hộ của chính sách thương mại Việt Nam ở mức thấp hơn mức bảo hộ trung bình của các nước. Thêm nữa, sự sửa đổi nhiều lần biểu thuế nhập khẩu (cả về cơ cấu và mức thuế suất) đã tác động gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là trong việc dự đoán và đón bắt các cơ hội thị trường cũng như trong hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. 3.2.2. Công cụ tỷ giá hối đoái Trong khoảng chục năm trở lại đây, tỷ giá giữa VNĐ so với USD tăng dần với biên độ dao động khá mềm dẻo và linh hoạt theo xu hướng giá VNĐ giảm dần. Sau “cú sốc tỷ giá” tháng 8/1998 (phá giá mạnh đồng Việt Nam) đã đẩy giá thị trường tự do lên, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cũng tăng mạnh (năm 199 là 14.004 VNĐ/1USD, năm 2000 là 14.501 VNĐ/1USD, năm 2002: 15.430 VNĐ/1USD, năm 2003: 15.560 VNĐ/1USD, và đến nay là khoảng 16.050 VNĐ/1USD). Thực tiễn biến động tỷ giá hối đoái theo xu hướng tỷ giá giữa VNĐ và đôla Mỹ ngày càng tăng và thường xuyên bị điều chỉnh đã gây một số khó khăn cho các nhà nhâp khẩu. Hơn một thập kỷ qua, việc Nhà nước ta sử dụng công cụ tỷ giá chủ yếu là nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô nên tác động của tỷ giá này đến xuất nhập khẩu hàng hóa chưa rõ nét. Việc sử dụng công cụ kinh tế này nhằm mục tiêu điều chỉnh nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ chưa thể hiện rõ hiệu quả. 3.2.3. Công cụ tín dụng Hiện nay, Nhà nước đang sử dụng công cụ tín dụng dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư phát triển, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tiêu dùng và các hình thức hỗ trợ tín dụng khác. Dịch vụ tín dụng do các ngân hàng Thương mại, các công ty cho thuê Tài chính, Quỹ hỗ trợ phát triển, các Quỹ đầu tư… thực hiện. Dịch vụ này bao gồm các loại cho vay bằng tiền dưới dạng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, chiết khấu và cho vay bằng tài sản dưới dạng cho thuế tài chính. Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã tận dụng được một số nguồn vốn tín dụng để mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động của mình, nhưng chủ yếu đó lại là các doanh nghiệp nhà nước (chiếm khoảng 80%), khu vực kinh tế tư nhân còn bị hạn chế rất nhiều. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp không có hoặc it khi có đủ tài sản để thế chấp và các ngân hàng vân có khuynh hướng hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn sẽ ít rủi ro hơn, và một nguyên nhân nữa là do thủ tục cho vay của các ngân hàng còn rườm rà, gây tốn kém về thời gian và công sức. 3.3. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi Một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế Việt Nam tụt hậu so với kinh tế thế giới là do sự tụt hậu về khoa học kỹ thuật. Năm 1986, chúng ta bắt đầu thực hiện lộ trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đất nước với mục đích đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất vào trong nước, tận dụng lợi thế của người đi sau so với những Quốc gia đi trước đã rất phát triển, với phương châm “đi tắt, đón đầu”. Khi mà rất nhiều nước đã phát triển nền đại công nghiệp với nhiều thiết bị siêu hiện đại thì một đất nước có tài nguyên “rừng vàng biển bạc” như Việt Nam lại vẫn là một nền kinh tế vô cùng thô sơ và nghèo nàn. Chúng ta không chỉ cần mang về Việt Nam các loại máy móc thiết bị mà hơn như thế, chúng ta cần những máy móc thực sự hữu dụng và có chất lượng để phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế, để Việt Nam không trở thành bãi rác công nghệ của các nước phát triển. Những nhu cầu bức thiết đó cũng như sự kiện Việt Nam mở cửa nền kinh tế, hội nhập thị trường thế giới, đã mở ra rất nhiều hứa hẹn cho các lĩnh vực kinh doanh về máy móc công nghệ, thiết bị điện tử. Nắm bắt được thời cơ đó, rất nhiều doanh nhân, dựa trên cơ sở sự hiểu biết của mình trong lĩnh vực máy móc thiết bị, đã tìm cho mình con đường kinh doanh trong lĩnh vực này, và cũng trong những năm đầu đổi mới ấy, công ty TNHH Thắng Lợi đã được thành lập. Công ty được thành lập từ năm 1993, có tên giao dịch đối ngoại là Victory Company Limited và đến tháng 7/2005 thì chuyển thành Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi (Victory Instrument Jsc). Ngay từ đầu, công ty đã xác định hướng kinh doanh với các hoạt động được coi là rất mới mẻ so với thời điểm lúc bấy giờ, đó là kinh doanh các loại máy móc, thiết bị đo lường có tính kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, các phòng thí nghiệm, cũng như các ngành nghề đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại chứ không tiến hành sản xuất. Là đại diện của nhiều hãng sản xuất thiết bị nổi tiếng thế giới, chủ yếu của Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu và các nước tiên tiến khác, Công ty Cổ Phần Thiết Bị Thắng Lợi cung cấp thiết bị, vật tư và giải pháp trong các lĩnh vực sau. - Thiết bị đo lường, thử nghiệm điện, điện tử, cơ khí - Thiết bị mô phỏng và thực hành vật lý, hoá học, sinh học và các chuyên ngành điện, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, tự động hoá, xử lý môi trường,.v..v… - Thiết bị an ninh, bảo vệ, kiểm soát nhân sự - Linh kiện điện, điện tử, cơ khí - Thiết bị phân tích và thiết bị cơ bản trong phòng thí nghiệm - Thiết bị nghiên cứu, quan trắc, xử lý ô nhiễm môi trường - Thiết bị nghiên cứu, kiểm tra chất lượng sản phẩm cho các ngành công nghiệp, thuỷ sản, dược phẩm, thực phẩm và nước giải khát - Thiết bị cho ngành công nghệ sinh học - Thiết bị y tế - Thiết bị nghiên cứu và thử ngiệm vật liệu xây dựng - Thiết bị trắc đạc và định vị vệ tinh - Thiết bị thi công xây dựng - Các giải pháp tự động hoá: tự động hoá toà nhà, tự động hoá trong giao thông, giải pháp tổng thể cho nhà máy - Cung cấp các dây chuyền tự động hoá cho các ngành công nghiệp. Hoạt động điển hình của công ty là nhập khẩu các loại thiết bị, máy móc từ nước ngoài về để cung cấp cho khách hàng trong nước. Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi đã và đang cung cấp vật tư, thiết bị, giải pháp cho rất nhiều khách hàng trên khắp các vùng miền của Tổ quốc. Với đội ngũ cán bộ đông đảo, năng động, nhiệt thành và giàu năng lực, cùng với kênh cung cấp rộng khắp, Victory đang càng ngày càng khẳng định vị trí và uy tín của mình trong cả nước. 3.3.1. Quá trình xác lập và ký kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty Thắng Lợi Hợp đồng nhập khẩu của công ty với đối tác nước ngoài thông thường được ký kết với nội dung rất đơn giản, chỉ gồm các điều khoản cơ bản về loại hàng hoá, giá cả, số lượng và phương thức vận chuyển hàng. Sở dĩ như vậy là do các đối tác nước ngoài đa phần là những nhà cung cấp rất có uy tín, là đối tác quen thuộc của công ty, và hơn nữa, trong số đó cũng có cả những hãng sản xuất lớn đã lựa chọn công ty Thắng Lợi làm đại lí độc quyề

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36707.doc
Tài liệu liên quan