Đề tài Pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay

Thừa kế thế vị được qui định và đảm bảo thực hiện ở nước ta từ rất lâu, bắt đầu từ Thông tư 1742, Thông tư 594, Thông tư 81, Pháp lệnh thừa kế, Bộ luật dân sự 1995 và hiện nay là Bộ luật dân sự 2005. Các văn bản pháp luật này khi qui định về thừa kế thế vị đều tuân theo một đặc điểm chung là nếu một người con không còn vào thời điểm người để lại di sản chết thì các con của người này được thay thế cha mẹ để hưởng di sản của ông bà hoặc của các cụ. Tuy nhiên, văn bản pháp luật được ban hành phải phù hợp với tình hình thực tế của thời kỳ tương ứng. Vì vậy, dù mang đặc điểm chung nói trên nhưng các văn bản này vẫn có sự khác nhau trong việc xác định cụ thể các trường hợp được thừa kế thế vị.

Trước hết, phải nói rằng thừa kế thế vị bao giờ cũng là quá trình dịch chuyển di sản theo “dòng chảy xuôi” và là sự tiếp nối giữa các thế hệ (không còn con thì đến cháu, không còn cháu thì đến chắt) trong việc thừa hưởng di sản của đời trước để lại nên thường có sự đan xen các mối quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng giữa các đời với nhau. Trong khi đó việc xác định mối quan hệ thừa kế theo huyết thống và nuôi dưỡng của các văn bản pháp luật ở mỗi tmột thời kỳ luôn khác nhau nên vấn đề thừa kế thế vị cũng khác nhau ở mỗi thời kỳ. Chẳng hạn, do Thông tư 81 quy định rằng: “Người đang làm con nuôi của người khác không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ” nên trong thời kỳ Thông tư 81 được áp dụng thì con của người đang làm con nuôi của người khác sẽ không được thừa kế thế vị để hưởng di sản của ông bà dù cha hoặc mẹ mình đã chết trước ông bà.

 

doc104 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2406 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phần bảo vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật thừa kế được qui định trong Bộ luật dân sự là nhằm bảo vệ quyền bình đẳng, tự nguyện của công dân tham gia quan hệ thừa kế di sản và quyền được hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Quyền thừa kế theo pháp luật của công dân được quy định trong Bộ luật dân sự là một bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp ở Việt Nam, nhằm khắc phục kịp thời sự thiếu tập trung, không đầy đủ của pháp luật về thừa kế đựơc qui định trước đó. Pháp luật thừa kế không xuất hiện một cách ngẫu nhiên và cũng không phản ánh thụ động các quan hệ trong xã hội. Những nguyên tắc, trình tự và thủ tục chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế được pháp luật điều chỉnh trên cơ sở các quan hệ tài sản qua mỗi thời kỳ phát triển của xã hội có giai cấp và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Quyền thừa kế của công dân Việt Nam được bảo đảm trên cơ sở chế độ xã hội mà nền kinh tế nói chung và các quan hệ tài sản nói riêng được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất XHCN. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở nước ta dưới chế độ XHCN kể từ năm 1945, như một định hướng chủ đạo trong việc xây dựng và áp dụng các qui phạm pháp luật thừa kế trong việc phân chia di sản và giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế. Những nguyên tắc mà dựa trên đó để đảm bảo cho việc để lại di sản và hưởng di sản thừa kế của công dân được thực hiện một cách triệt để nhất. Quyền thừa kế của công dân Việt Nam được bảo đảm thực hiện trong môi trường xã hội mà ở đó nền kinh tế nói chung và các quan hệ tài sản nói riêng được xây dựng trên cơ sở các quan hệ sản xuất XHCN. Pháp luật thừa kế hiện hành luôn quan tâm tới khía cạnh xã hội là vấn đề hiếu và lễ trong các quy định. Thừa kế di sản là việc dịch chuyển tài sản của một người đã chết cho những người khác còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. bản chất pháp luật thừa kế có nhiều đặc điểm, nhưng đặc điểm Hiếu, Nghĩa và Lễ được bảo đảm thực hiện rõ nhất trong những qui định của pháp luật thừa kế ở nước ta. Nhận định này không những xuất phát từ căn cứ xác định diện những người được thừa kế và những người trong hàng thừa kế được hưởng, mà còn xác định nội dung pháp luật quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng. Bản chất pháp luật thừa kế nhằm để bảo vệ lợi ích của các con, các cháu dưới quyền, theo truyền thống đời trước để lại di sản cho đời sau và được hiểu như bổn phận của cá nhân. Thừa kế theo quan hệ huyết thống xuôi, đã góp phần củng cố tài sản của dòng tộc và tài sản của một gia đình truyền thống ăn chung, ở chung theo cơ cấu gia đình hạt nhân và gia đình gồm nhiều thế hệ, bề bậc khác nhau theo quan hệ tam đại đồng đường, tam đại đồng cư, tứ đại đồng đường, tứ đại đồng cư… Tuy nhiên, pháp luật thừa kế ở nước ta luôn coi trọng vấn đề Hiếu, Nghĩa và Lễ. CHƯƠNG II QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỪA KẾ 2.1. Quy định của pháp luật thừa kế về di sản. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng của nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cỏ nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Vì thế, di sản thừa kế và việc xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế là xác định đúng khối di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế theo kỷ phần mà người thừa kế có quyền được hưởng. Quan niệm về di sản thừa kế từ tục lệ, cổ luật, luật cận đại cho đến luật hiện đại luôn có sự thay đổi trong việc nhận thức về nghĩa vụ tài sản có phải là di sản thừa kế hay không? Hiện nay, Bộ luật dân sự của nước ta cũng như Bộ luật dân sự của một số nước trên thế giới chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về di sản thừa kế, mà chỉ qui định di sản thừa kế bao gồm những tài sản nào. Vì thế, khi nói về di sản thừa kế có nhiều cách hiểu khác nhau. Hiện nay, trong khoa học pháp lý vấn đề di sản thừa kế vẫn còn tồn tại ba quan điểm khác nhau: * Quan điểm thứ nhất cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Những người theo quan điểm này hiểu rằng khi còn sống, người để lại di sản thừa kế ngoài những tài sản có “trong tay” thì họ còn có những khoản nợ (nghĩa vụ tài sản). Những nghĩa vụ tài sản phát sinh từ các quan hệ dân sự, như nghĩa vụ phải trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả tiền thuê trong hợp đồng thuê tài sản, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nghĩa vụ trả tiền công lao động trong hợp đồng sử dụng lao động... Khi họ chết đi họ để lại các nghĩa vụ về tài sản, các nghĩa vụ này phải được dịch chuyển sang cho những người thừa kế thực hiện. Có như vậy thì mới đảm bảo được quyền lợi cho người có quyền đối với các nghĩa vụ mà người chết phải thực hiện hết nếu còn sống, đồng thời cũng đảm bảo cho các quan hệ dân sự đã phát sinh được thực hiện đúng theo cam kết cũng như theo qui định của pháp luật. Quan điểm này chỉ có thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và tài sản của gia đình không tách bạch được. * Quan điểm thứ hai lại cho rằng, di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại. Quan điểm này hiểu theo nghĩa rộng về tài sản bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ, tài sản có và tài sản nợ ngang bằng nhau có nghĩa là việc xác định di sản của người chết để lại thừa kế không chỉ là tài sản mà còn bao gồm cả nghĩa vụ cũng được xác định ngang bằng trong khối di sản mà họ để lại, thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà người chết để lại. Khác với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản ở quan điểm thứ nhất, ở đây, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được hưởng, họ không phải thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại bằng tài sản riêng của mình. Nhưng nội dung căn bản mà hai quan điểm này thống nhất là đều xác định nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại là di sản thừa kế. * Quan điểm thứ ba cho rằng, di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Tồn tại một thực tế hiển nhiên là khi còn sống, một người cần đến tài sản để sản xuất và sinh sống. Tài sản đó có được dựa trên nhiều căn cứ hợp pháp, họ hoàn toàn có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên cạnh đó họ có thể còn có các nghĩa vụ tài sản đối với các chủ thể khác. Các nghĩa vụ này phát sinh từ giao dịch dân sự, từ hành vi gây thiệt hại hoặc từ các quan hệ pháp luật khác, chưa kịp thực hiện thì khi người này chết, toàn bộ tài sản cũng như các nghĩa vụ tài sản sẽ được để lại là tất yếu. Theo qui định tại Điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản thuộc về những người hưởng di sản thừa kế: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại...”. Quy định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới “bước vào quan hệ nghĩa vụ”, có nghĩa là họ không thay thế vị trí chủ thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết để lại, hay nói cách khác, họ phải trả nợ chỉ vì họ tiếp nhận tài sản có của người chết để lại (nợ của người chết không phải là nợ của người hưởng di sản). Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn (nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác bằng hoặc lớn hơn khối tài sản mà người chết để lại) thì khi đó không còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản thừa kế. Ví dụ: Một người để lại khối di sản thừa kế trị giá 360 triệu đồng nhưng lúc còn sống, người đó vay nợ 200 triệu đồng và nợ tiền thuế Nhà nước là 160 triệu đồng; trước lúc chết người đó chưa kịp thực hiện các nghĩa vụ này. Như vậy, di sản để lại ngang bằng với các khoản nợ. Sau khi thanh toán không còn di sản để chia cho những người thừa kế. Thứ nữa, theo quy định tại Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 thì người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc trả nợ thay cho người để lại di sản. Nếu từ chối nhận di sản cũng có nghĩa từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, vì không phải là món nợ của bản thân họ. Điều này chứng tỏ rằng, người thừa kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ. Nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện việc trả nợ. Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự là món nợ của người đó lúc còn sống phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế, phải coi nghĩa vụ đó là của chính bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để thanh toán. Nếu sau khi đã thanh toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác liên quan đến di sản mà vẫn còn di sản (dù ở mức độ nào, ít hay nhiều) để chia cho những người có quyền hưởng di sản, phần di sản còn lại này mới được gọi là di sản thừa kế. Trong đó có thể có phần di sản dùng cho thờ cúng, phần di sản dành cho di tặng, phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và phần di sản dành chia cho những người thừa kế. Nếu sau khi thanh toán mà không còn di sản để dịch chuyển cho người hưởng di sản thì rõ ràng là người chết không để lại di sản thừa kế. Như vậy, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết mà chỉ bao gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên những căn cứ hợp pháp mà người chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Hiểu một cách tổng quan nhất, thì di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại cho những người có quyền hưởng thừa kế, mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của người đó. Chúng tôi cho rằng “quyền hưởng di sản” và “thực hiện quyền hưởng di sản” được diễn ra ở hai thời điểm khác nhau. Nếu “quyền hưởng di sản” và “thực hiện quyền hưởng di sản” diễn ra cùng một thời điểm (thời điểm mở thừa kế) chỉ đúng trong một phạm vi rất hẹp. Đó là, di sản “đang nằm trong tay”, “đang nằm trong sự chiếm hữu một cách hợp pháp của người hưởng di sản” (người có quyền hưởng thừa kế) và loại tài sản này không bị phân chia và không phải đăng ký quyền sở hữu. Chẳng hạn, người hưởng thừa kế đang giữ một khoản tiền, một số đồ trang sức hoặc một số đồ dùng khác... mà các tài sản này là “phần” mà chính họ được hưởng thừa kế. Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người hưởng thừa kế có quyền hưởng di sản (quyền thừa kế), thời điểm này những người thừa kế chưa có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Mặc dù về nguyên tắc, người có quyền hưởng di sản có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế bất cứ lúc nào, kể từ thời điểm mở thừa kế, nhưng việc chia thừa kế không thể diễn ra ngay sau khi người có tài sản chết. Khác với các quan hệ dân sự khác, quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi có cá nhân bị chết. “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (khoản 1 Điều 633 Bộ luật dân sự); “kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” (khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự). Chính tính chất đặc biệt này của quan hệ thừa kế mà một số các nội dung trong quan hệ này cũng có tính đặc thù của nó như: Thai nhi được bảo lưu tư cách hưởng di sản thừa kế, mặc dù chưa có năng lực chủ thể (khoản 1 Điều 635 Bộ luật dân sự); người thừa kế thực hiện quyền và nghĩa vụ mà người chết để lại mặc dù không được chuyển giao. Họ chỉ và phải thực hiện quyền đó với tư cách nhân danh, thay mặt, kế quyền và bằng tài sản của người chết để thực hiện nghĩa vụ. Chính vì thế mà các quyền này cũng giao một phần cho người quản lý di sản. Những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế được xác định là di sản thừa kế có ý nghĩa trong việc xác định chính xác khối di sản mà người chết để lại, đảm bảo đúng phần di sản mà từng người thừa kế được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đồng thời xác định được ai là người thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu di sản gây thiệt hại. Chẳng hạn như nhà bị đổ, cây bị gãy... và nếu dùng tài sản để bồi thường, thì lấy tài sản đó từ đâu? Từ một người thừa kế hay của tất cả những người thừa kế? Lấy từ khối di sản hay từ tài sản thuộc sở hữu riêng của người thừa kế. Cũng từ đó để xác định 2/3 của một suất thừa kế theo luật thì lấy tổng di sản từ thời điểm mở thừa kế trở về trước hay tính cả những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế để xác định. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phần của từng người thừa kế, kể cả người được di tặng và cả những người được hưởng “kỷ phần bắt buộc” theo Điều 669 Bộ luật dân sự... Di sản thừa kế là yếu tố vật chất của thừa kế, khoa học Luật Dân sự thừa nhận về mặt nội dung của thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản thừa kế từ người chết sang cho những người còn sống. Sự biểu hiện của nó là việc để lại và nhận di sản thừa kế mà đối tượng là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết. Pháp luật dân sự Việt Nam từ trước đến nay chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm về di sản thừa kế mà chỉ hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp qui định về thành phần của di sản thừa kế. Từ lập luận của các khía cạnh trên đây, theo chúng tôi, khái niệm di sản thừa kế có thể được xây dựng trên các phương diện sau đây: - Xét trên phương diện đạo đức - xã hội: Di sản thừa kế là của cải vật chất (tài sản), là phương tiện thực hiện bổn phận tiếp theo của người chết nhằm gây dựng và chăm lo cho tương lai đối với những người hưởng thừa kế. - Xét trên phương diện kinh tế: Di sản thừa kế là của cải vật chất (tài sản) của người chết để lại cho những người khác còn sống để dùng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt, và tiêu dùng. - Xét trên phương diện khoa học luật dân sự: Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ dịch chuyển tài sản của người đó sang cho những người hưởng thừa kế, được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Về mặt pháp lý, có thể mô hình hoá mối quan hệ giữa di sản, di sản thừa kế và nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại cùng với các chi phí khác liên quan đến di sản theo mô hình dưới đây. Nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác Di sản thừa kế Di sản thừa kế Nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác Quy ước hình tròn là toàn bộ khối di sản mà người chết để lại, trong đó bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là những nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại cộng với các chi phí liên quan khác (như đã phân tích ở trên) thể hiện trên sơ đồ là phần hình tròn màu trắng. Phần thứ hai là di sản thừa kế: phần có nét gạch. > Xác định di sản thừa kế Thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của cá nhân, từ đó cá nhân có được các quyền năng trong sở hữu là một trong những tiền đề vật chất cho sự quy định về quyền thừa kế. Nó là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của quan hệ thừa kế và các quyền cụ thể trong lĩnh vực thừa kế của từng cá nhân. Từ việc quy định về quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản hoặc tập hợp các tài sản mà cá nhân có được dựa trên những căn cứ hợp pháp, đó là cơ sở pháp lý cho cá nhân thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Lúc còn sống một người có quyền sở hữu đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, khi họ chết thì có quyền để lại tài sản đó cho người khác còn sống. Thực hiện việc để lại di sản là chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt thông qua một hành vi pháp lý. Theo Điều 634 Bộ luật dân sự thì di sản mà người chết để lại bao gồm: Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người đó trong tài sản chung với người khác”. 2.1.1. Tài sản riêng của người chết. Đây là phần tài sản mà thông thường thì cá nhân nào cũng có bởi nó gắn liền với các quyền và nghĩa vụ lao động của mỗi cá nhân trong xã hội, gắn liền với những nhu cầu tất yếu về vật chất cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, tài sản của cá nhân công dân Việt Nam về phạm vi và thành phần tài sản qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì có sự thay đổi và có sự khác nhau trong qui định của pháp luật. Vì thế, di sản thừa kế qua các thời kỳ đó cũng được qui định khác nhau về thành phần cũng như phạm vi của nó. Tài sản riêng của người chết được hiểu là phần tài sản mà về phương diện pháp lý không bị chi phối hay phải chịu một ràng buộc nào với các chủ thể khác trong việc chiếm hữu, sử dụng và thực hiện quyền định đoạt. Tài sản riêng được sử dụng trong Điều 634 Bộ luật dân sự nhằm để xác định tài sản nào là tài sản riêng của người vợ, người chồng. 2.1.2. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác Đây là phần tài sản của người chết nằm trong tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng hoặc nằm trong khối tài sản thuộc sở hữu chung theo phần với nhiều người khác, tuỳ theo cách thức và căn cứ xác lập nên các hình thức sở hữu đó. Tài sản của người chết trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Cuộc sống chung đặt ra một yêu cầu khách quan là vợ chồng phải chung sức, chung ý chí trong việc tạo dựng nên khối tài sản phục vụ cho cuộc sống chung của gia đình. Vì thế, việc hình thành khối tài sản chung là một yêu cầu tất yếu của thực tế đời sống vợ chồng. Kế thừa và phát triển những quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 về tài sản chung cũng như về quyền và nghĩa vụ của họ đối với khối tài sản chung đó (Điều 14, Điều 15), Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định về căn cứ xác lập, về nguồn gốc, về thành phần các loại tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. 2.1.3. Thành phần của di sản và di sản thừa kế Di sản mà người chết để lại bao gồm cả phần nghĩa vụ (tài sản nợ) và cả phần di sản thừa kế (tài sản có) theo mô hình dưới đây. Nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác Di sản thừa kế Di sản thừa kế Nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác Hình 2.1 Công thức xác định di sản thừa kế: Di sản thừa kế bao gồm: Di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, di tặng, di sản thờ cúng và di sản chia thừa kế như mô hình dưới đây: H×nh 2.2 Di sản chia Thừa kế Di sản dành cho NTTKPTDC Di sản thờ cúng Di tặng Di sản thừa kế = Di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc + di sản thờ cúng + di tặng + di sản chia thừa kế (2) Di sản chia thừa kế = Di sản thừa kế – di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc - di tặng – di sản thờ cúng (3) Xin được lý giải thêm: Công thức (1) áp dụng đối với trường hợp người để lại di sản không lập di chúc hoặc có lập di chúc để định đoạt tài sản nhưng di chúc không hợp pháp hoặc bị mất hiệu lực pháp luật. Trong công thức này biểu hiện khi xác định di sản thừa kế cũng chính là việc xác định di sản chia thừa kế (sau khi dã thanh toán tất cảc khoản nợ và các chi phí liên quan khác, phần còn lại là di sản thừa kế, đây cũng chính là phần để chia cho nhũng người hưởng thừa kế theo pháp luật). Như vậy, việc phân định theo công thức (2) và (3) chỉ được áp dụng đối với trường hợp người để lại di sản có lập di chúc và tất cả các thành phần của di sản thừa kế được người lập di chúc định rõ trong di chúc. Đồng thời có sự xuất hiện của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Có nghĩa là người lập di chúc đã truất quyền hưởng di sản của những đối tượng được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo luật. Trường hợp không có một trong các thành phần kể trên hoặc không có thành phần nào thì giá trị của nó trong công thức được xác định nhỏ dần hoặc là bằng không. Lúc này di sản chia thừa kế được xác định tăng dần lên hoặc trùng với di sản thừa kế. 2.1.4. Phần di sản được dùng vào việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết Luật Dân sự nước ta tại Điều 34 PLTK và các Điều 636, 637 và Điều 683 Bộ luật dân sự quy định việc thanh toán di sản thừa kế: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế là những quyền và nghĩa vụ về tài sản từ khối di sản mà người chết để lại. Kể từ thời điểm mở thừa kế, thì phát sinh quyền hưởng di sản của những người thừa kế, đồng thời cũng phát sinh nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Điều 637 Bộ luật dân sự quy định :“Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Đây là qui định mang tính kế thừa và phát triển các qui định được ghi nhận tại Điều 10 Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950. Việc xác định người trả nợ, phạm vi di sản được dùng để thực hiện, thời điểm phát sinh nghĩa vụ, phần di sản được nhận tương ứng với phần phải trả nợ được qui định cụ thể hơn, đầy đủ hơn. 2.2. Về quan hệ thừa kế giữa những người thừa kế theo pháp luật. Đa phần, pháp luật của các nước khi phân chia thành các hàng thừa kế để xác dịnh trình tự dịch chuyển di sản từ người chết sang những người thừa kế theo pháp luật của người đó đều theo truyền thống “dòng chảy xuôi” (từ đời trước xuống đời sau) nên pháp luật của các nước thường xếp con của người chết ở hàng thừa kế thứ nhất, nhưng cha, mẹ của người chết không được xếp ở hàng thừa kế thứ nhất. Mặt khác, mỗi một quốc gia và thậm chí trong cùng một quốc gia ở mỗi một thời kỳ khác nhau có những quan niệm khác nhau về gia đình về bổn phận của các thành viên trong gia đình đối với nhau. Hơn nữa, trong quy định của pháp luật về thừa kế ngoài việc phụ thuộc vào pháp luật về sở hữu, thì pháp luật về thừa kế còn phụ thuộc rất nhiều về truyền thống văn hoá, hoàn cảnh xã hội, tập tục, đạo đức, tôn giáo của mỗi một dân tộc. Vì vậy, hàng thừa kế theo pháp luật được quy định trong pháp luật của các nước có nhiều điểm khác nhau. Bộ luật dân sự Nhật Bản dựa trên quan hệ huyết thống và hôn nhân giữa người thừa kế với người để lại di sản để xác định ba hàng thừa kế: Hàng thứ nhất bao gồm con của người chết, cháu của người chết sẽ thừa kế di sản của người đó ở hàng thứ nhất nếu con của người đó chết trước hoặc mất quyền hưởng di sản trước thời điểm mở thừa kế. (xem Điều 887 Bộ luật dân sự Nhật Bản). Hàng thứ hai bao gồm những người có quan hệ huyết thống với người chết thuộc trực hệ tôn thuộc (những người huyết thống bề trên), trong số đó người nào sẽ được ưu tiên hưởng di sản. Hàng thứ ba bao gồm anh chị em ruột của người để lại di sản. 2.2.1. Các quan hệ thừa kế Theo quy định của Điều 676, Bộ luật dân sự 2005 thì quan hệ thừa kế giữa những người trong cùng một hàng thừa kế được xác định như sau: - Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: + Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Vợ - chồng là mối quan hệ giiữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “thừa kế của nhau”, nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thứ nhất. Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo quy định tại Điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 (gọi tắt là Luật Hôn nhân 2000) thì “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. + Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều. Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ huyết thống thì đó là những người có cùng một dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứa nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha - con, mẹ - con hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là người đã nhận người đó làm con nuôi của mình theo qui định của pháp luật. Cha nuôi, mẹ nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi người con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết. - Ở hàng thừa kế thứ hai có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: + Quan hệ thừa kế giữa ông bà với cháu. Theo điểm b, khoản 1, Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì căn cứ để xác định mối quan hệ thừa kế này là hoàn toàn dựa vào quan hệ huyết thống mà không dựa vào quan hệ nuôi dưỡng. Pháp luật không đương nhiên thừa nhận giữa cha đẻ, mẹ đẻ của một người với người con nuôi của người đó có quan hệ thừa kế. Vì vậy, ông nội, bà nội của một người là người đã sinh ra cha đẻ của người đó, ông ngoại, bà ngoại của một người là người đã sinh ra mẹ đẻ của người đó. Trước đây, trong Bộ luật dân sự 1995 không xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông bà nên quan hệ th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPháp luật thừa kế ở việt nam từ thế kỷ xv đến nay.doc
Tài liệu liên quan