Đề tài Phương hướng và giải pháp nâng cao tính hiệu quả của tiền lương tối thiểu

Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên chế độ tiền lương trong nền kinh tế này vừa mang tính chất thị trường, vừa mang tính chất định hướng XHCN. Nghĩa là chế độ tiền lương vừa chịu sự chi phối bởi thị trường lao động, vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc phân phối theo lao động. Điều này cho thấy, không nên cực đoan cho rằng, tiền lương chỉ là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, hoặc ngược lai, tiền lương chỉ là kết quả của việc phân phối theo lao động. Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay, năng suất lao động xã hội rất thấp, sự cạnh tranh gay gắt, bộ máy quản lý cồng kềnh, các khoản khấu trừ quá lớn nên quỹ tiền lương sẽ thấp. Trong điều kiện đó, nếu tiền lương chỉ là kết quả của phân phối theo lao động thì tiền lương sẽ thấp, thậm chí không đủ để duy trì cuộc sống cho bản thân người lao động.

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3809 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp nâng cao tính hiệu quả của tiền lương tối thiểu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong điều kiện ngân sách khó khăn thì đương nhiên quyết định chính sách là ấn định mức lương tối thiểu thuộc miền xác định gần cận dưới. Đây là nhược điểm cơ bản của việc xác định tiền lương tối thiểu ở nước ta từ năm 1993 đến nay; đồng thời do mức lương tối thiểu chung là “nền” của chế độ tiền lương đã dẫn đến chính sách tiền lương rất lạc hậu so với thực tiễn, gây khó khăn cho cải cách cơ bản chính sách tiền lương theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. 3.3 .2 Xác định mức lương tối thiểu vùng     Mức lương tối thiểu vùng có thể được xác định theo 5 yếu tố: (1) mức sống tối thiểu của người lao động trong vùng; (2) mức sống chung đạt được trong vùng (vùng mức sống); (3) mặt bằng tiền lương trong vùng; (4) giá cả tiêu dùng trong vùng; và (5) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của vùng.  3.3.3 Xác định mức lương tối thiểu ngành     Mức lương tối thiểu ngành có thể được xác định theo 3 yếu tố: (1) chất lượng và điều kiện lao động theo yêu cầu của ngành; (2) quan hệ cung cầu lao động của ngành; và (3) các yếu tố về vị trí, vai trò, mức độ hấp dẫn của ngành. Thực trạng 1.Cải cách tiền lương ở Việt Nam  Từ năm 1993 trở lại đây, Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và được điều chỉnh từng năm theo mức độ trượt giá để bù đắp tiền lương thực tế và cải thiện đời sống theo mức độ tăng trưởng GDP. Cụ thể là: +) Năm 1993 :          120.000đ/tháng +) Năm 1997:          144.000đ/tháng +) Năm 1999:          180.000đ/tháng +) Năm 2001:          210.000đ/tháng +) Năm 2003:          290.000đ/tháng +) Từ 01/10/2005 đến 01/10/2006: 350.000đ/tháng +) Từ 01/10/2006 đến nay: 450.000đ/tháng Như vậy tính ra từ năm 1993 đến tháng 10/2006 đã có đến 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu. Tính bình quân, chưa đến 2 năm thì lại có một lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2006, chỉ trong vòng 6 năm, Nhà nước đã phải thực hiện 5 lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Xét về mặt bản chất, việc điều chỉnh lương tối thiểu trong thời gian qua có cả yếu tố tăng thu nhập thực tế cho người lao động, và có cả yếu tố bù đắp phần thu nhập thực tế bị mất đi do giá của nhiều mặt hàng thiết yếu tăng lên. Tất nhiên, đây là cả một sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống của người lao động trong khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, nhìn vào diễn biến của chỉ số lạm phát tiền tệ trong những năm gần đây thì chỉ số giá hàng tiêu dùng vẫn cao; do vậy, tác động làm tăng thu nhập thực tế cho người lao động qua các lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu vẫn chưa đủ độ để “khoả lấp” phần tiền thu nhập thực tế bằng tiền lương bị giảm sút do tốc độ tăng giá vẫn cao hơn tốc độ tăng của tiền lương. Để khắc phục được nhược điểm này, có thể có nhiều giải pháp khác nhau. Trong số các giải pháp đó thì hoặc là ổn định được giá cả; hoặc là tiền lương tối thiểu cần được điều chỉnh kịp thời hơn mỗi khi giá cả hàng hoá - dịch vụ tiêu dùng tăng lên. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã kết hợp cả hai giải pháp này. Tuy nhiên, việc kết hợp đó còn những hạn chế nhất định nên hiệu quả của mỗi lần điều chỉnh lương tối thiểu là chưa cao; thậm chí còn có những tác động ngược lại đối với phát triển kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng, việc điều chỉnh tiền lương đã được mọi người “biết trước” một cách quá sớm, nên lương chưa được điều chỉnh thì giá cả đã tự động tăng lên. Vì vậy, ý nghĩa kinh tế - xã hội của mỗi lần điều chỉnh tiền lương không được thể hiện một cách rõ nét. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này được bắt nguồn từ việc quan niệm quan hệ giữa giá cả trong nước với giá cả trên thị trường thế giới qua một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu, sắt thép, phân bón chưa thật phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Đó là quan niệm về sự thống nhất giữa các hệ thống giá cả nội địa ở từng quốc gia với giá cả trên thị trường mang tính toàn cầu. Do quan niệm như vậy, nên mỗi lần giá cả trên thị trường trong nước tăng lên là được giải thích ngay là, do giá dầu thô, giá sắt thép, giá phân bón trên thị trường thế giới tăng lên, thì giá trên thị trường trong nước cũng phải tăng theo. Những cách quan niệm còn khác nhau trong giới hoạch định chính sách là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiền lương tối thiểu đã được điều chỉnh một cách liên tục. Bên cạnh đó là các quan niệm còn khá xa nhau về tiền lương tối thiểu. Lương tối thiểu được sử dụng để làm cơ sở cho việc trả lương cho những người lao động trong bộ máy Nhà nước có gì khác với mức lương tối thiểu của các thành phần kinh tế không phải là Nhà nước. Tình trạng chưa rõ ràng về quan niệm lương tối thiểu là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự không công bằng về thu nhập trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ Nhà nước ra làm ngoài. Vấn đề đáng lưu tâm hơn là, do chưa có sự rõ ràng trong quan niệm về lương tối thiểu, về thu nhập giữa các thành phần kinh tế khác nhau nên đã và đang tồn tại tình trạng không ít khu vực Nhà nước có mức lương rất cao; đặc biệt là ở một số ngành dịch vụ. Rõ ràng là, với những ngành như vậy, Ngân sách Nhà nước đã và đang bị mất đi một khoản thu khá lớn. Do vậy, ý nghĩa của việc xác định lương tối thiểu là rất lớn. Hệ thống tiền lương tối thiểu ở nước ta hiện nay Bộ luật Lao động hiện hành đã quy định hệ thống tiền lương tối thiểu ở nước ta có mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng và mức lương tối thiểu ngành.  Mức lương tối thiểu chung là mức lương sàn thấp nhất (lưới an toàn) bắt buộc áp dụng chung trong mọi quan hệ lao động. Ở nước ta hiện nay, mức lương tối thiểu chung được dùng làm "nền" để tính các mức lương trong các thang, bảng lương và phụ cấp của người hưởng lương và là căn cứ để tính các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc (trừ khu vực kinh tế có  vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có mức lương tối thiểu riêng). Mức lương tối thiểu vùng (cao hơn mức lương tối thiểu chung) được quy định để nhấn mạnh yếu tố đặc thù vùng mà khi xác định mức lương tối thiểu chung chưa tính đến. Mức lương tối thiểu vùng có 3 chức năng cơ bản: (1) bảo đảm sức mua ngang nhau của mức lương tối thiểu tại các vùng khác nhau; (2) điều tiết cung cầu lao động; và (3) khuyến khích phân bố đầu tư hợp lý giữa các vùng. ở nước ta hiện nay, khu vực kinh tế FDI đã được áp dụng các mức lương tối thiểu vùng (còn khu vực trong nước chưa áp dụng).     Mức lương tối thiểu ngành (cao hơn mức lương tối thiểu vùng) được hình thành từ thoả ước lao động tập thể ngành (yêu cầu của thị trường lao động phát triển) để áp dụng chung trong ngành đó. Mức lương tối thiểu ngành có 3 chức năng cơ bản: (1) bảo đảm mức lương phù hợp với mức độ phức tạp thấp nhất trong ngành; (2) điều tiết cung cầu lao động; (3) loại trừ cạnh tranh không công bằng giữa các ngành. ở nước ta hiện nay chưa áp dụng các mức lương tối thiểu ngành. định mức lương tối thiểu chung Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên chế độ tiền lương trong nền kinh tế này vừa mang tính chất thị trường, vừa mang tính chất định hướng XHCN. Nghĩa là chế độ tiền lương vừa chịu sự chi phối bởi thị trường lao động, vừa chịu sự chi phối bởi nguyên tắc phân phối theo lao động. Điều này cho thấy, không nên cực đoan cho rằng, tiền lương chỉ là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, hoặc ngược lai, tiền lương chỉ là kết quả của việc phân phối theo lao động. Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay, năng suất lao động xã hội rất thấp, sự cạnh tranh gay gắt, bộ máy quản lý cồng kềnh, các khoản khấu trừ quá lớn nên quỹ tiền lương sẽ thấp. Trong điều kiện đó, nếu tiền lương chỉ là kết quả của phân phối theo lao động thì tiền lương sẽ thấp, thậm chí không đủ để duy trì cuộc sống cho bản thân người lao động.. Nhưng, nếu tiền lương là giá cả của hàng hoá sức lao động, thì vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp luôn luôn muốn trả lương thấp. Thêm vào đó, do sức ép của cạnh tranh, của thất nghiệp, làm cho người công nhân phải chấp nhận lương thấp tới mức chỉ tạm đủ cho bản thân sống, miễn là có được việc làm. Vì vậy, yêu cầu của cải cách chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay là tiền lương phải bảo đảm cho người lao động duy trì được năng lực lao động, nuôi con cái và chi phí đào tạo cho bản thân người lao động ở điều kiện bình thường. Điều đó đòi hỏi, trong các doanh nghiệp nhà nước, việc trả lương vừa tuân theo cơ chế thị trường là thuận mua vừa bán sức lao động (tức phải được thoả thuận giữa người lao động với doanh nghiệp về mức lương), vừa đảm bảo tính chất XHCN là phân phối theo lao động, nhưng mức lương không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiền lương công nhân cũng không được thấp hơn lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, việc xác định lương tối thiểu là vấn đề quan trọng và cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nước mà cả cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. 3. Tác động của tiền lương tối thiểu 3.1 Mối quan hệ giá – lương - tiền   Giá - lương - tiền là quan hệ kinh tế vĩ mô rất nhạy cảm. Khi quan hệ giá - lương - tiền hợp lý sẽ có tác dụng kích thích sản xuất, bảo đảm đời sống cho người lao động  và góp phần vào ổn định kinh tế đất nước. có 2 loại tiền lương là tiền lương danh nghĩa phụ thuộc vào cường độ, năng suất, hiệu quả công việc và tiền lương thực tế. Tiền lương thực tế chính là khối lượng hàng hoá có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt. Tiền lương thực tế bị ảnh hưởng bởi giá cả, lạm phát. Khi giá cả tăng, tiền lương thực tế giảm. Nếu tiền lương danh nghĩa không tăng, thì tiền lương thực tế sẽ giảm đi, cuộc sống của người lao động sẽ giảm. Khi  giá tăng, lương không tăng thì đời sống của người hưởng lương sẽ khó khăn. Nếu giá tăng, lương cũng tăng sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng mạnh,  một mặt góp phần tạo ra tăng trưởng kinh tế cao song mặt khác sẽ tạo ra tâm lý "bù giá vào lương" của người lao động và làm giảm lòng tin của người lao động vào giá trị của đồng tiền. Hiệu quả tăng lương bị triệt tiêu bởi giá. Hiện nay, Việt Nam đang trong tình trạng mức giá luôn tăng và lương cũng tăng theo. Hoặc nhìn theo cách tích cực hơn, lương tăng và giá cũng tăng theo. Tuy nhiên, trong khi tiền lương tăng với nhịp độ chậm rãi thì chỉ số giá cả luôn tăng với tốc độ chóng mặt. Mặc dù, nếu thử làm phép so sánh, thì tốc độ tăng lương vẫn đủ để bù đắp chỉ số tăng giá nhưng cơ bản do nền lương cơ bản hiện nay quá thấp nên việc điều chỉnh lương bị mất đi ý nghĩa tăng thu nhập cho người làm công ăn lương. Việc điều chỉnh lương mới chỉ mang ý nghĩa bù trượt giá chứ chưa thực sự đem lại niềm vui tăng lương. Mặt khác, lương không phải là thu nhập chính của nhiều đối tượng. Ngay cả những công chức mẫn cán nhất cũng phải thừa nhận rằng tiền lương của họ không đủ để... tái sản xuất. Nhất là khi giá cả leo thang với tốc độ tên lửa như trong năm vừa qua Bên cạnh đó, cứ khi nào lương chuẩn bị tăng thì giá đã tăng trước. Điều này càng đúng vào thời điểm hiện nay, khi mà áp lực tăng giá vốn đã rất lớn. Đơn cử, vào thời điểm tháng 10/2006, khi mức lương tối thiểu tăng lên 450.000 đồng/tháng thì ngay cả đến mớ rau - không có liên quan trực tiếp đến tiền lương cũng tăng trung bình khoảng 20%. Hiện tượng tăng giá này phản ánh đúng quy luật kinh tế. Khi tất cả mọi người đều biết rằng vào một thời điểm nhất định trong tương lai, nhiều người dân sẽ được tăng thêm 20% tiền thu nhập, cảm nhận chung của thị trường là nền kinh tế đột nhiên có thêm một lượng lớn tiền trong khi lượng hàng hoá vẫn vậy nên giá tăng là phải. Những tác động đến đời sống kinh tế-xã hội  Qua nghiên cứu những biến động về giá, lương và cung tiền thời gian qua có thể  rút ra một số nhận xét sau:  Thứ nhất, theo  kết quả  khảo sát tiền lương (Vietnam Salary Survey 2005) đã phân tích dữ liệu 208 công ty trong và ngoài nước với 35.000 nhân viên làm việc ở mọi ngành nghề cho thấy, lao động phổ thông có mức lương cơ bản hàng năm tăng khoảng 7,8% giai đoạn 2004-2005; nhân viên văn phòng bao gồm các chuyên gia và giới quản lý tăng 10%. Riêng các lao động làm trong khu vực Nhà nước, tiền lương năm 2004 tăng 31%, nhưng tiền lương trong năm 2005 lại chỉ tăng có 3,4%. Trong khi đó, tốc độ tăng giá năm 2004 là 9,5%, năm 2005 lên tới xấp xỉ 8%. Như vậy, nhìn chung tốc độ tăng lương của lao động phổ thông hiện mới chỉ theo kịp tốc độ tăng giá. Điều này đồng nghĩa với việc tiền lương thực tế của người lao động hầu như không tăng do tốc độ tăng giá quá cao. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho dòng dịch chuyển "chất xám" từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế FDI trở nên mạnh mẽ trong khoảng 2 năm lại đây. Tóm lại, trong những năm gần đây tăng trưởng kinh tế cao dựa trên giá tăng, lương tăng, cung tiền tăng cho thấy nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đang phát triển theo chiều rộng tiêu hao nhiều nguyên nhiên vật liệu mà hiệu quả thấp và giá trị VND chưa thực sự được nâng cao. Thêm nữa, hiện tượng giá tăng - lương tăng - cung tiền tăng trên thực tế đã tạo ra tăng trưởng "ảo", thiếu tính bền vững. Điều này rất đáng lo ngại khi nền kinh tế Việt Nam đang trên đà hội nhập với kinh tế quốc tế. Tác động của tiền lương tối thiểu tới người lao động trong các khu vực Theo điều tra cho thấy thu nhập bình quân một lao động trong doanh nghiệp Nhà nước là 2.142.000 đồng mỗi tháng, của lao động trong doanh nghiệp dân doanh là 1.303.000 đồng, của lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.945.000 đồng, tiền công của một lao động làm việc trong khu vực phi chính thức khoảng 15- 45 nghìn đồng mỗi ngày. Theo đánh giá, tiền lương, tiền công bắt đầu tuân theo hướng thị trường, nghĩa là sức lao động được trả giá theo khả năng. Tuy nhiên mức lương tối thiểu chung chưa bảo đảm mức sống tối thiểu. Từ năm 2000 đến nay, đã có bốn lần điều chỉnh lương tối thiểu chung từ 180 nghìn đồng một tháng lên 450 nghìn đồng một tháng, trong khi chỉ số giá tiêu dùng tăng 35% (so với năm 2000), là cơ sở để hình thành giá tiền công trên thị trường lao động, bước đầu khắc phục tính bình quân trong phân phối. Tiền lương và thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp nói chung được cải thiện. Năm 2006, tiền lương bình quân một lao động trong doanh nghiệp Nhà nước đạt 2,1 triệu đồng mỗi tháng (những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, lao động giỏi đạt mức lương bình quân  cao hơn 4 - 5 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp dân doanh, tiền lương bình quân đạt 1,6 triệu đồng một người mỗi tháng (người có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao, tiền lương gấp 5-6 lần mức bình quân chung); trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mức tiền lương bình quân đạt 2,2 triệu đồng một người mỗi tháng (lao động quản lí, có chuyên môn, kĩ thuật cao, lương gấp 15-20 lần so với mức bình quân chung). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc trả lương theo năng suất lao động là hoàn toàn phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động cũng như xu thế chung. Tuy nhiên, các chính sách tiền lương, tiền công hiện nay trong nhiều loại hình doanh nghiệp vẫn còn chưa hợp lý, chưa sát với cung-cầu của thị trường đặc thù này. Theo Vụ Tiền lương - Tiền công thì so với mức sống tối thiểu hiện nay, mức lương tối thiểu của NLĐ vẫn chưa được bảo đảm. Ngoài ra, trong mỗi loại hình doanh nghiệp, mỗi ngành thì mối quan hệ này có điều chưa hợp lý. Đó là, doanh nghiệp nhà nước tốc độ tăng tiền lương quá nhanh so với tốc độ tăng năng suất lao động (năm 2004 năng suất lao động tăng 8,2% thì tiền lương bình quân lại tăng 16,9%). Ngược lại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh tiền lương tăng chưa tương ứng với tốc độ lợi nhuận và tốc độ tăng năng suất lao động. Năm 2004 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi nhuận tăng 41,2%, năng suất lao động tăng 18,3% thì tiền lương của NLĐ chỉ tăng 12,6%. Đối với doanh nghiệp dân doanh, lợi nhuận tăng 54,3%, năng suất lao động tăng 10,3% thì tiền lương của NLĐ chỉ tăng 3%. Theo Vụ trưởng Vụ Tiền lương - Tiền công (Bộ LĐ-TB&XH), lương tối thiểu hiện nay cũng đang có những tồn tại do việc quy định không thống nhất giữa các khu vực đã tạo ra mâu thuẫn, chưa theo nguyên tắc bình đẳng trong kinh tế thị trường. Mức lương tối thiểu chung thấp hơn mức thực trả trên thị trường lao động, chưa phản ánh đầy đủ được sự chênh lệch về giá cả sinh hoạt, chi tiêu, mức sống dân cư giữa các vùng, các loại hình doanh nghiệp. Chính vì thế, tiền lương trả cho NLĐ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu vực nhà nước vẫn chưa gắn với thị trường lao động...Tuy nhiên, theo đánh giá của Vụ Tiền lương - Tiền công (Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội), mức lương tối thiểu chung chưa bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động; mặt khác, cũng chưa tách được mức lương tối thiểu áp dụng trong khu vực sản xuất, kinh doanh và mức áp dụng trong khu vực hành chính, sự nghiệp. Việc điều chỉnh mức lương tối thiểu khu vực sản xuất, kinh doanh phải phụ thuộc vào ngân sách, chưa phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường. Đặc biệt, tiền lương trong công ty nhà nước chưa gắn với thị trường lao động, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chưa thu hút, khuyến khích người có tài, có trình độ. Một số doanh nghiệp “ép” tiền công, không thực hiện đầy đủ chính sách với người lao động... Giá cả sức lao động của người lao động hiện được coi là thấp, không đủ để trang trải cho các chi phí hằng ngày, nhất là chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng. Để bảo đảm tiền lương, tiền công cho NLĐ theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, không hạn chế mức thu nhập tối đa đối với những lao động chuyên môn kỹ thuật cao, Bộ LĐTB&XH cho rằng, chính sách tiền lương cần phải tuân thủ theo nguyên tắc thị trường. Đó là không phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp tự chủ trong việc chi trả lương thông qua cơ chế thương lượng, không khống chế mức trần (đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh). Với cơ chế này, các doanh nghiệp lớn được quyền thuê giám đốc, tổng giám đốc và trả lương theo đóng góp của NLĐ đối với doanh nghiệp. 3.3 Tác động của cung cầu lao động và một số yếu tố khác trên thị trường lao động tới tiền lương tối thiểu Thị trường lao động được xác định là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế, chủ trương này đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: " Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm những thị trường quan trọng nhưng còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ Quá trình đổi mới và phát triển kinh tế cùng với những cải cách đáng kể của đất nước đã đặt ra các tiền đề quan trọng cho sự phát triển thị trường lao động. Hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, tác động đồng bộ đến cung, cầu lao động kết hợp với việc thiết lập các thể chế, chính sách thị trường lao động như: ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Lao động và các luật liên quan; ban hành nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn, quy định các thể chế về thị trường lao động như chế độ tuyển dụng, hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động, tiền lương và thu nhập…để thiết lập mối quan hệ lao động, góp phần thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Chính vì vậy, các hoạt động liên quan đến cung, cầu và sự chắp nối cung cầu trên thị trường lao động ngày càng được phát triển cả về quy mô và hình thức hoạt động. Các hoạt động giao dịch, tư vấn, cung cấp thông tin về thị trường lao động đang ngày càng sôi động, đa dạng và phong phú. Hệ thống tổ chức giới thiệu việc làm đã có những bước đột phá đáng kể (đến nay cả nước đã có 161 trung tâm giới thiệu việc làm, khoảng 3.000 doanh nghiệp họat động giới thiệu việc làm và nhiều tổ chức cung ứng lao động), cả nước đã tổ chức trên 90 hội chợ việc làm ở cấp tỉnh và hàng trăm hội chợ việc làm ở các trung tâm giới thiệu việc làm, các trường, các doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động của thị trường lao động, tiền lương, tiền công đã được xác định tuỳ theo từng loại lao động trên thị trường. Giá cả sức lao động được hình thành và điều chỉnh theo quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Như vậy các yếu tố này đã tác động qua lại và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thị trường lao động. Khi thị trường được xác lập người lao động và người sử dụng lao động tự do thỏa thuận mức tiền lương, tiền công theo yêu cầu công việc và trình độ năng lực làm việc và đương nhiên mức thỏa thuận này bị chi phối bởi các quy luật nêu trên. Có thể nhận thấy, các hoạt động phát triển thị trường lao động đang được lành mạnh hóa, các giao dịch thuê mướn, sử dụng lao động được thực hiện công khai, minh bạch, người lao động có quyền làm việc cho bất cứ ai, miễn là công việc đó không bị pháp luật cấm và được trả lương xứng đáng với công sức bỏ ra. Chính vì vậy mức lương cho các vị trí công việc đang được điều chỉnh phù hợp với quy luật thị trường. Chênh lệch mức lương giữa người làm quản lý, kỹ thuật, khoa học ngày được phân định rõ hơn. Thu nhập tiền lương giữa các công việc, ngành nghề ngày càng phân biệt rõ và đã trở thành động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động, khuyến khích người lao động nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn để có thể làm việc ở những vị trí có mức lương cao hơn. Thị trường lao động ở nước ta vẫn ở giai đoạn đầu, xét về tổng thể, cung lao động lớn hơn cầu lao động, được phát triển tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm quốc gia; ở các vùng kinh tế chậm phát triển thì thị trường lao động còn ở mức độ sơ khai. Vì vậy, tình trạng di chuyển lao động diễn ra ngày càng mạnh, chủ yếu theo hướng Bắc – Nam, nông thôn – thành thị, và vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cung lao động có chất lượng cao ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các thị trường khác. Tiền lương, tiền công chưa thoả đáng, chưa khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng; chưa thực hiện được kích cầu để sản xuất phát triển. Hệ thống thông tin thị trường lao động vẫn chưa được thiết lập một cách đồng bộ trong cả nước để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Theo báo cáo thống kế gần đây, mức thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp từng bước được cải thiện, năm 2005, bình quân đạt 1.840 nghìn đồng/người/tháng, tăng 11,5% so với năm 2004. Tuy nhiên, tiền lương bình quân tháng của một lao động trong các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp mặc dù tăng qua các năm, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập so với giá cả sức lao động của họ. Số vụ đình công vẫn tiếp tục tăng, đặc biệt là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp tư nhân và chủ yếu tập trung ở các tỉnh/thành phố có thị trường lao động phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai cho thấy dấu hiệu bộc lộ các mâu thuẫn giữa người lao động và sử dụng lao động mà nguyên nhân sâu xa là bất hợp lý về tiền công, tiền lương và một số quyền lợi khác 4. Ưu nhược điểm của tiền lương tối thiểu 4.1 Ưu điểm Đánh giá việc thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu từ 1993 đến nay có thể thấy những điều chúng ta làm được như sau: - Từng bước hoàn thiện cơ sở lý thuyết về tiền lương tối thiểu, đã xá định được hệ thống khung lý thuyết về tạô điều kiện cho việc xây dựng, áp dụng, quản lý tiền lương tối thiểu ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới - Đã xác định được mức lương tối thiểu ngày càng khoa học qua các thời kỳ. Hệ thống tiền lương trong một chừng mực nhất định đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định chính sách tiền lương mang đặc thù của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bước đầu làm cơ sở cho việc điều tiết quan hệ lao động trong xã hội cũng như trong các tổ chức doanh nghiệp - Hoàn thiện dần cơ chế tiền lương tối thiểu. Từ chỗ chỉ có một mức lương duy nhất nay đã được mở rộng theo ngành, theo vùng, theo khu vực. Từ chỗ quy định việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thuộc quyền của Nhà nước đến chỗ cho phép các doanh nghiệp có thể nâng lương tối thiểu trong khuôn khổ nhất định. Thêm vào đó mức lương tối thiểu không chỉ bị cố định mà được điều chỉnh theo biến động của thị trường Với kết quả như trên, từng bước phát huy vai trò của tiền lương tối thiểu như là một công cụ của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, điều tiết thu nhập giữa người lao động và người sử dụng lao động, thu hút và điều tiết nguồn nhân lực giữa các ngành, các vùng . Đã thực hiện được tiền tệ hoá tiền lương và loại bỏ dần các khoản bao cấp, phân phối ngoài tiền lương từ ngân sách nhà nước. Đây là điểm thay đổi cơ bản nhất trong cải cách tiền lương năm 1993. Lần đầu tiên mức lương tối thiểu do Nhà nước công bố được áp dụng trong cả khu vực Nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh làm thay đổi nội dung và bản chất của chế độ tiền lương. Việc cho phép các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1997 được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm theo ngành, vùng so với mức tiền lương tối thiểu chung đã thúc đảy các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức sản xuất, tổ chức lao động tính đúng chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí, tăng tiền lương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc78565.DOC
Tài liệu liên quan