Đề tài Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam

Kể từ sau Đại hội VII của Đảng công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, trong đó việc đổi mới bảo hiểm xã hội để phù hợp với điều kiện kinh tế -xã hội mới là một yêu cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu bằng việc tách với một bộ phận cấu thành của bảo hiểm xã hội - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau cho người lao động thành một qũy độc lập: Bảo hiểm y tế (Nghị định 299/HĐBT) ngày 15-8-1992 ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế) với việc qui định không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng phải tham gia đóng phí. Tiếp theo đó, ngày 22 tháng 6 năm 1993, Chính phủ lại ban hành Nghị định 43/CP qui định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện bảo hiểm xã hội chằm vào mục đích xóa sự bao cấp của ngân sách nhà nước đối với bảo hiểm xã hội, mở rộng diện bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước như trước đây mà đối với tất cả người lao động hưởng lương, qui định lại nguồn thu chi, cơ cấu nguồn thu dùng cho mỗi loại chế độ

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3106 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khuôn khổ các quy định của pháp luật, được gọi là quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội. Như vậy, quan hệ pháp luật về bảo hiểm xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chỉ trả các chế độ bảo hiểm xã hội, được quy phạm pháp luật điều chỉnh. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đinh họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Cứu trợ xã hội. Trong cuộc sống, một số người không may gặp phải những rủi ro do thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng khác mà bản thân họ cũng như những người thân của họ không thể tự khắc phục được. Bên cạnh đó, còn có một số người bị thiệt thòi, yếu thế bởi nhiều lý do khác nhau như người gìa cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật. Những đối tượng này cần đến sự trợ giúp của nhà nước, của xã hội, của cộng đồng để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, có điều kiện để tồn tại và có cơ hội tái hòa nhập vào cộng đồng. Với tư cách là chủ thể quản lý và đại diện chính thức cho toàn xã hội, các nhà nước cũng đảm bảo và tổ chức cả cộng đồng thực hiện việc trợ giúp cho các gia đinh, cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn nói trên. Tuy là vấn đề trợ giúp nhưng nó cũng thuộc lĩnh vực phân phối trong xã hội, đặc biệt khi ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện nên cần có sự công bằng và hợp lý theo những nguyên tắc chung. Để đảm bảo yêu cầu đó, pháp luật cũng điều chỉnh vấn đề này ở mức độ phù hợp. Quan hệ cứu tế, trợ giúp của nhà nước, xã hội và cộng đồng đối với những đối tượng nói trên trong khuôn khổ những quy định của pháp luật được gọi là quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội. Như vậy, quan hệ hợp pháp về cứu trợ xã hội là những quan hệ xã hội hình thành trong việc người cứu trợ hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và nhu cầu thiết yếu để giải quyết khó khăn cho người cần cứu trợ, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Ưu đãi xã hội. Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử của nước ta, đất nước đa trải qua một thời gian dài có chiến tranh, một bộ phận dân cư, nhiều thế hệ đa có những đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Họ có thể đa hy sinh cả tính mạng, một phần thân thể và cả những người thân yêu của mình cho đất nước. Ngày nay, khi đất nước đa bình yên và phát triển, họ trở thành những người có công với nước, được Nhà nước và dân tộc ghi nhận. Những người có công hoặc người thân của họ xứng đang được hưởng những chế độ ưu tiên, ưu đãi đó không chỉ dựa vào lòng biết ơn của các thành viên trong xã hội mà phải được pháp luật ghi nhận, trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước và quyền của người có công. Việc thực hiện trách nhiệm đó đa hình thành nên quan hệ giữa Nhà nước, người ưu đai và những người có công được ưu đãi. Đó là một trong những quan hệ xã hội quan trọng được pháp luật điều chỉnh, trở thành quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội. Như vậy, quan hệ pháp luật ưu đãi xã hội là quan hệ xã hội hình thành trong việc Nhà nước ưu đai người có công và một số thành viên gia đinh họ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Dưới góc độ kinh tế, ưu đãi xã hội là sự đai ngộ về mặt vật chất cũng như tinh thần của nhà nước đối với người có công. Dưới góc độ pháp luật, ưu đãi xã hội là hệ thống các quy định của nhà nước về các hình thức, nội dung, biện pháp chăm sóc, đai ngộ và đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần của những người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đinh liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng lao động. Dịch vụ xã hội. Là việc nhà nước cung cấp miễn phí một số dịch vụ công cộng nhằm bảo vệ, giúp đỡ tạo cơ hội cho con người phát triển khi gặp phải hòan cảnh, tình huống khó khăn, ngoài dự đoán…. Chủ yếu là các dịch vụ: kế hoạch hóa gia đình, dự phòng y tế, chương trình chăm sóc sức khỏe cho trẻ em,….. Ngoài ra, an sinh xã hội còn tồn tại dưới một số hình thức khác như: Chăm sóc xã hội, Dịch vụ xã hội, Các đảm bảo khác cung cấp bởi người sử dụng lao động….. PHẦN II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA AN SINH XÃ HỘI VIỆT NAM. Sự xuất hiện của an sinh xã hội. Lao động tạo ra con người và thông qua quá trình này con người tồn tại. Con người ngoài việc chịu sự tác động với nhau con người còn phải chịu sự tác động của tự nhiên nhưng không phải lúc nào con người cũng gặp những may mắn, thuận lợi, gặp những điều kiện sinh sống bình thường mà trong một số trường hợp con người đa phải đối mặt với những thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn, ốm đau hay các biến cố rủi ro khác nhau. Để tồn tại và đối mặt với những vấn đề đó con người đa liên kết hợp tác với nhau lựa chọn ra những phương thức phù hợp nhằm trợ giúp nhau trong cuộc sống. Hình thức “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” là hình thức sơ khai và giản đơn nhất được cộng đồng, gia đinh , các thành viên trong xã hội lựa chọn sử dụng. Bên cạnh đó, còn có một số các biện pháp trợ giúp khác nhau có tính chất tự nguyện của cộng đồng, tương thân tương ái đối với các đối tượng khác nhau trong xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội, nền công nghiệp và kinh tế thị trường phát triển đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội làm xuất hiện việc thuê mướn nhân công. Song song với sự tồn tại đó, cuộc sống của thành viên gia đinh những nhân công này phụ thuộc mật thiết vào mức thu nhập chính của họ. Nhưng bản thân họ lại phải chịu những rủi ro, bất trắc do đó để tạo cơ sở ổn định cuộc sống, những nhân công này đã thông qua một số các hoạt động của quỹ tương tế của các hội đoàn, hội bằng hữu do những người làm thuê liên kết lập ra. Bên cạnh đó, những nhân công này phải hợp tác với nhau để được làm việc trong những điều kiện lao động bảo đảm nhằm giảm thiểu các yếu tố rủi ro xảy ra. Đây là một trong những việc làm cần thiết buộc giới chủ phải quan tâm xem xét tạo điều kiện cho người lao động ổn định cuộc sống. Một trong các hình thức hạn chế những rủi ro do ốm đau, do tuổi già, do mất việc làm, do bị tai nạn phải kể đến việc thành lập quỹ bảo hiểm ốm đau và hệ thống bảo hiểm xã hội tại Đức từ năm 1883 đến 1889 dưới thời thủ tướng Bismark. Mô hình bảo hiểm xã hội của Đức đang phát triển và lan sang các nước khác như Mỹ, Canada, một số nước ở Châu Phi, Châu á và vùng vịnh Caribe. Ngoài ra một số quốc gia khác trên cơ sở hệ thống bảo hiểm xã hội này đa ban hành một số đạo luật riêng điều chỉnh về các lĩnh vực khác như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tự nguyện, bảo đảm xã hội… Bên cạnh hình thức bảo hiểm xã hội, các hình thức tương tế, cứu tế xã hội, các hình thức cứu giúp những người có hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh, các dịch vụ công cộng như dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc người già, dịch vụ bảo vệ trẻ mồ côi, người tàn tật, người goá bụa… từng bước được phát triển và hoàn thiện. Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và được ghi nhận trong các đạo luật của các nước như Đạo luật an sinh xã hội của Mỹ năm 1935. Thuật ngữ an sinh xã hội được sử dụng trong Hiến chương Đại Tây Dương năm 1931 và được ghi nhận cụ thể trong Công ước số 102 Công ước các mức tối thiểu về an toàn xã hội ngày 27.4.1952 bao gồm các chế độ về chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ giúp thất nghiệp, trợ giúp tuổi già, trợ giúp 2. Sự hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam Hệ thống an sinh xã hội mà đặc biệt là cơ chế bảo hiểm y tế đã hình thành rất sớm ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này đã khẳng định tầm nhìn của những người lãnh đạo và chính sách xã hội của nhà nước ta – nhà nước của giai cấp công – nông, của những người lao động. Tuy nhiên khi nói đến an sinh xã hội thì phải nói đến bảo hiểm xã hội đó là bộ phận cốt lõi của hệ thống an sinh xã hội và nó cũng được hình thành khá sớm ở Việt Nam. Để phân tích quá trình hình thành và phát triển của an sinh xã hội ở nước ta thì có thể nhìn nhận thông qua quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội Việt Nam. Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện bảo hiểm xã hội: • Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu; • Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức; • Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức; • Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 ấn định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân sản xuất. Những văn bản trên cho thấy nhà nước ta đã sớm có nhận thức và sớm thực hiện bảo hiểm xã hội theo hình thức hiện đại so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, sớm chứng tỏ là một nhà nước tiên tiến của giai cấp công nhân và người lao động. Tuy nhiên, phải đến năm 1961, chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thống nhất toàn quốc (riêng thời kỳ 61-75: toàn miền Bắc) sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại trợ cấp (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất). Qũy bảo hiểm xã hội, lúc này, là qũy độc lập thuộc ngân sách nhà nước nhưng nguồn thu chủ yếu từ sự tài trợ của ngân sách nhà nước, tiếp đến là sự đóng góp từ các cơ quan và xí nghiệp quốc doanh theo % trên tổng qũy lương (từ 1962 đến 1987: 4,7%, từ 1987 đến 1993: 15%) còn công nhân và viên chức không cần đóng phí bảo hiểm xã hội. Việc quản lý bảo hiểm xã hội được giao cho Bộ lao động, Thương binh và Xã hội và Tổng công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam) đảm trách. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với xã viên hợp tác xã các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng được ban hành (Quyết định 292/BCH-LĐ ngày 15/2/82 của LHX trung ương) nhưng chỉ được thực hiện trong thời gian ngắn ngủi, từ năm 1982 đến năm 1989. Kể từ sau Đại hội VII của Đảng công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, trong đó việc đổi mới bảo hiểm xã hội để phù hợp với điều kiện kinh tế -xã hội mới là một yêu cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu bằng việc tách với một bộ phận cấu thành của bảo hiểm xã hội - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau cho người lao động thành một qũy độc lập: Bảo hiểm y tế (Nghị định 299/HĐBT) ngày 15-8-1992 ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế) với việc qui định không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng phải tham gia đóng phí. Tiếp theo đó, ngày 22 tháng 6 năm 1993, Chính phủ lại ban hành Nghị định 43/CP qui định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện bảo hiểm xã hội chằm vào mục đích xóa sự bao cấp của ngân sách nhà nước đối với bảo hiểm xã hội, mở rộng diện bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước như trước đây mà đối với tất cả người lao động hưởng lương, qui định lại nguồn thu chi, cơ cấu nguồn thu dùng cho mỗi loại chế độ… Việc cải cách thực sự đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp qui được ban hành từ năm 1995: • Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội; • Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập bảo hiểm xã hội Việt Nam; • Quyết định số 606/ Ttg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của bảo hiểm xã hội Việt Nam; • Nghị định số 93/1998/NĐ – CP ngày 12/11/1998 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội (ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ) Như đã nêu trên, việc áp dụng bảo hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cùng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ. Hiện nay nội dung thực hiện bảo hiểm xã hội ở Việt Nam theo qui định tại chương XII Bộ LUậT lao động (được Quốc hội thông qua ngày 23/06/1994) bao gồm 5 chế độ sau: Chế độ ốm đau; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ hưu trí; Chế độ tiền tử. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng chế độ chăm sóc y tế (khám và chữa bệnh) theo Điều lệ bảo hiểm y tế. Và đặc biệt là kể từ ngày 21/03/2001, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn được hưởng chế độ trợ cấp nghỉ dưỡng sức (Quyết định số 37/2001/QĐ–TTg của Thủ tướng Chính phủ). Việc thực hiện bảo hiểm xã hội được tiến hành theo 2 hình thức: bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện áp dụng cho 2 nhóm đối tượng khác nhau: người lao động làm công ăn lương và nhóm người lao động tự do (không có người sử dụng lao động ổn định). Như vậy, hiện nay căn cứ vào những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì bảo hiểm xã hội là một chế định pháp lý nhằm bảo vệ người lao động bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ người lao động, người sử dụng lao động, cộng với sự hỗ trợ của nhà nước, thực hiện việc trợ cấp vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người tham gia bảo hiểm xã hội và gia đình họ trong các trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo luật định hoặc chết làm họ hoặc gia đình mất hoặc giảm thu nhập bất ngờ. Ở nước ta, mặc dù đến những năm gần đây, nội dung các chế độ và phương thức quản lí thực hiện mới được đổi mới theo xu thế hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường đang được xây dựng, nhưng nếu tính từ 1945 đến nay, chúng ta đã áp dụng hầu hết các chế độ trợ cấp đã nêu ở trên chứng tỏ nội dung cơ bản của bảo hiểm xâ hội đã được nhận thức và dược áp dụng ở Việt Nam. PHẦN III THƯC TRẠNG CỦA AN SINH XÃ HỘI. 1. Kết quả đạt được. - Quy mô dạy nghề tăng nhanh, cơ cấu trình độ chuyển mạnh sang dạy nghề dài hạn (trung cấp nghề, cao đẳng nghề). Theo thống kê, báo cáo của Tổng cục Dạy nghề, trong 9 năm (2001-2009), đã dạy nghề cho 11602,3 nghìn người, năm 2009 quy mô dạy nghề đạt 1707 nghìn người, gấp1,714 lần so với năm 2001, trong đó trung cấp nghề, cao đẳng nghề là 287,6 nghìn người, chiếm 16,85%; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2009 lên 28 (dự kiến 2010 là 39%). Kết quả này tạo cơ hội thuận lợi cho người lao động tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm trên thị trường lao động. - Nhờ tăng trưởng kinh tế những năm qua khá cao và ổn định, đồng thời thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, giảm nghèo... nên tình hình việc làm của người lao động đã có nhiều cải thiện. Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, tổng việc làm tăng từ 37,61 triệu năm 2000 lên 46,357 triệu năm 2009, tăng 8,747 triệu, tăng trưởng việc làm bình quân 2,58%/ năm; số việc làm mới được tạo ra các năm 2005 - 2009 bình quân khoảng 1,6 triệu. Trong đó, khoảng 75% là từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 25% từ các chương trình mục tiêu và xuất khẩu lao động. Thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm liên tục, năm 2000 là 6,42% đến năm 2009 giảm xuống khoảng 4,57%. Hệ thống giao dịch thị trường lao động phát triển đa dạng, rộng khắp, hoạt động ngày càng sôi động, linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động trên thị trường lao động. Kết quả, hàng năm hơn nửa triệu người lao động được tư vấn; khoảng 250 ngàn người đăng ký tìm việc làm ở các trung tâm, trong đó khoảng 85% được trung tâm giới thiệu việc làm và cung ứng lao động, khoảng 65% có việc làm ổn định. - Quy mô đối tượng tham gia BHXH tăng nhanh. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2001, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chỉ có 4,8 triệu người, đến năm 2009 tăng lên trên 9,4 triệu người, chiếm 18% lực lượng lao động và có gần 50 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện. Năm 2001, có 11,3 triệu người tham gia BHYT, trong đó có 6,7 triệu người tham gia BHYT bắt buộc. Năm 2008, số đối tượng tham gia BHYT đã tăng lên khoảng 53,3 triệu người, chiếm trên 60% dân số cả nước, trong đó số đối tượng tham gia BHYT bắt buộc là 30 triệu người, khu vực nông thôn chiếm khoảng 20%. Có 13,2 triệu người nghèo tham gia BHYT, trong đó 93% thuộc khu vực nông thôn; gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên tham gia BHYT, trong đó, khu vực nông thôn chiếm 40%. Khoảng 11 triệu người tham gia BHYT tự nguyện, trong đó 66,6% là người dân ở nông thôn. - Tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm. Theo chuẩn nghèo của Ngân hàng Thế giới tính cho Việt Nam tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58,1% năm 1993, đến năm 2006 còn 16% (Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam -VHLSS(1), của Tổng cục Thống kê), trong 13 năm, đã giảm hơn 2/3 hộ nghèo; theo chuẩn nghèo thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (áp dụng từ năm 2006), đến năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng 11,3% (Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội ); người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế và dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở...). Chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị thu hẹp dần, còn khoảng 2 lần; mức độ gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư chậm lại. - Số lượng đối tượng được trợ giúp xã hội (TGXH) thường xuyên ngày càng mở rộng và tăng nhanh. Năm 2005 cả nước có khoảng 416 nghìn đối tượng, đến năm 2009 tăng lên trên 1,25 triệu. Trong đó, nhóm người từ 85 tuổi trở lên chiếm 43,1%, nhóm người khuyết tật chiếm 24,5%, người già cô đơn khoảng 9,6%, người tâm thần khoảng 8,6%, người đơn thân nuôi con nhỏ khoảng 7,6%, trẻ em mồ côi khoảng 5% (Theo báo cáo hàng năm của Bộ Lao động - thương binh và xã hội). Trong lĩnh vực trợ giúp đột xuất, Theo báo cáo của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, từ năm 2000 đến 2008, thiệt hại về dân sinh do thiên tai là rất lớn. Số người bị chết năm thấp nhất là 232 người (năm 2004), năm cao nhất là 680 người (năm 2000). Nhà bị sập, đổ, trôi năm thấp nhất là 4200 nhà (năm 2004), năm cao nhất là 9730 nhà (năm 2002). Người thiếu lương thực năm thấp nhất là 923 ngàn người (năm 2002), năm cao nhất là 1,4 triệu người (năm 2004). Thiệt hại do thiên tai gây ra năm thấp nhất là 1752 tỷ đồng (năm 2002) năm cao nhất lờn tới 5607 tỷ đồng (năm 2005). Hầu hết người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai đều được hỗ trợ, khắc phục hậu quả , khôi phục sản xuất và ổn định đời sống. 2. Những hạn chế. 2.1. Những hạn chế chung. - Nhận thức về ASXH tuy có bước phát triển, song chưa thật thống nhất và đầy đủ. Trên thực tế nhiều vấn đề vẫn chỉ dừng lại ở tư tưởng chính sách, chưa được quán triệt một cách sâu sắc trong hoạch định chiến lược, cũng như từng chính sách ASXH cụ thể. Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều (hơn 50 loại chính sách), nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. Hệ thống cơ chế, chính sách và luật pháp ASXH tuy được bổ sung, sửa đổi nhưng chưa theo kịp thực tế luôn biến đổi và còn thiếu cụ thể; nhiều quy định không sát với thực tế nên khó thực hiện, đồng thời nhiều quy định đến nay không còn phù hợp hoặc chưa mở rộng đến toàn thể dân cư, nhất là dân cư vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; chưa bổ sung kịp thời các chính sách mới để đảm bảo ổn định cuộc sống và an sinh cho người dân. - Thể chế đảm bảo công bằng xã hội trong kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được hoàn thiện. Đặc biệt, chưa phân định rõ vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường trong phân bố các nguồn lực, nhất là phân bố chi cho chính sách ASXH. Trên thực tế, nhiều chính sách xã hội, bao gồm cả ASXH, chưa được đặt đúng và ngang tầm với chính sách kinh tế, còn đi sau chính sách kinh tế, chưa được đầu tư thoả đáng, mà còn phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước; chưa thực sự coi đầu tư cho chính sách xã hội, nhất là ASXH, là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển. Hơn nữa, nhiều vấn đề ASXH cần có sự đầu tư chủ yếu từ ngân sách nhà nước lại có xu hướng xoá bao cấp một cách tràn lan, thị trường hoá bằng bất cứ giá nào; Trong khi đó, một số chính sách lại có xu hướng bao cấp nặng theo kiểu ban phát, với cơ chế xin-cho dẫn đến tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, vào cấp trên và phát sinh tiêu cực. - Hệ thống sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH không ngừng phát triển. Tuy nhiên, về nhận thức vẫn nghiêng về phát triển các tổ chức sự nghiệp công lập là chính. Sự tham gia của các đối tác xã hội vào hoạt động cung cấp dịch vụ ASXH chưa mạnh, đa dạng và chưa chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ công, chăm sóc đối tượng ASXH dựa vào cộng đồng là chủ yếu theo hướng xã hội hoá. Hơn nữa, cũng chưa có nhận thức thống nhất và đầy đủ về công tác xã hội như một nghề có tính chuyên nghiệp (ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số: 32/2010/QĐ-TTG Phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - “Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều, nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau.” Do đó, đến nay, cũng chưa phát triển và xây dựng được một đội ngũ cán sự xã hội theo hướng chuyên môn hoá (chuyên nghiệp). - Xã hội càng phát triển, quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường càng mạnh và hội nhập càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thì rủi do xã hội càng nhiều. Do đó, nhu cầu đảm bảo ASXH càng đa dạng, phong phú và đối tượng ASXH tăng nhanh, đang mâu thuẫn với hệ thống ASXH hiện hành còn nhiều bất cập, khả năng mở rộng phạm vi bao phủ và mức trợ cấp còn thấp nên năng lực chống đỡ các rủi ro, biến cố của người dân chưa cao và hiệu quả. - Việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách, luật pháp về ASXH chưa nghiêm; cải cảch hành chính về ASXH chưa đạt kết quả, còn nhiều rào cản, gây phiền hà, người dân khó tiếp cận; hiện tượng lãng phí, thất thoát, tiêu cực còn xẩy ra ở nhiều nơi. Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về ASXH và áp dụng công nghệ thông tin quản lý lĩnh vực ASXH còn yếu kém , nhất là chưa có mã số ASXH cá nhân. 2.2. Những hạn chế trong một số chính sách cụ thể - Trong chính sách thị trường lao động và việc làm Nhận thức về phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề chưa đúng, nên nhiều năm còn coi nhẹ và đào tạo, dạy nghề chưa gắn với sản xuất, với thị trường lao động. Đặc biệt, nhận thức của một bộ phận thanh niên và xã hội về dạy nghề còn thiên lệch, ít coi trọng học nghề để lập thân, lập nghiệp. Các chính sách chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm; nhất là thiếu chính sách khuyến khích phát triển thị trường lao động như chính sách tiền lương, tiền công chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có chính sách thỏa đáng trọng dụng nhân tài; cũng như chính sách đầu tư mạnh phát triển hệ thống giao dịch của thị trường lao động để kết nối cung-cầu lao động. Chưa gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển các ngành kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, phát triển doanh nghiệp với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, dạy nghề, sử dụng lao động; chưa có quy định pháp lý bảo hộ thu nhập và tài sản hợp pháp của người lao động, của công dân trong kinh tế thị trường. Chưa có nhận thức rõ ràng về xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, chưa thiết lập được cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận thực chất giữa các bên về quan hệ lao động, giải quyết tranh chấp lao động và đình công đúng với nguyên tắc thị trường. Hậu quả là chất lượng lao động quá thấp, thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao; chất lượng việc làm và năng suất lao động cũng rất thấp, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên rất cao; vấn đề việc làm và đời sống của lao động nông nghiệp vùng bị thu hồi đất rất bức xúc, dòng di chuyển lao động nông thôn-thành thị có xu hướng ngày càng tăng. - Trong chính sách BHXH Chưa quán triệt và thực hiện đầy đủ nguyên tắc đóng-hưởng mà còn gắn chặt việc điều chỉnh lương hưu với tiền lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; nhận thức chưa đúng về sự khác biệt giữa BHXH khu vực hành chính, sự nghiệp và khu vực thị trường (doanh nghiệp), nên chưa có sự tách biệt giữa 2 khu vực này. Vấn đề xây dựng và phát triển quỹ BHXH chưa được vững chắc, có nguy cơ mất cân đối thu-chi trong dài hạn do mô hình BHXH hiện nay chưa hoàn chỉnh và phù hợp. Cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH chưa đảm bảo công khai, minh bạch; chưa có đơn vị chịu trách nhiệm hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Cơ qua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan