Đề tài Quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện - từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh vực: đổi mới tư duy; đổi mới tổ chức và cán bộ; đổi mới phong cách làm việc. Đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, siêu hình; là phải đấu tranh loại bỏ những quan điểm sai trái, khắc phục những quan điểm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, về công nghiệp hoá, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế. Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận mà Đảng đã đạt được.

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng toàn diện đồng bộ, không phải cái gì cũng đặt ra một cách đều tràn lan, mà đòi hỏi trong mỗi một thời kỳ, mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ. Góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều, phiến diện. Trong thế giới khách quan mọi sự vật mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần phải xem xét một mặt hoặc một vài mặt mà đã vội kết luận ngay vấn đề, như vậy sẽ không chính xác. Các quan hệ lợi ích thường thấy lợi ích trước mắt mà không thấy được cái lợi ích lâu dài. Chống lại chủ nghĩa triết chung và thuật nguỵ biện (Chủ nghĩa triết chung nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật; Thuật nguỵ biện thì lại lập luận chủ quan, lấy thứ yếu thay cho chủ yếu, lấy cái không cơ bản thay cho cái cơ bản... nhằm xuyên tạc biện chứng của sự vật). Phần II Vận dụng lý luận vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I Lênin). I. Khái niệm nền kinh tế thị trường, ưu điểm và nhược điểm. 1. Khái niệm: Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá, tiền tệ trở nên phổ biến. Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra các hình thức kinh tế khác nhau như: kinh tế tự nhiên, kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế thị trường... Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế văn minh, đó là nền kinh tế vận động, phát triển gắn liền với hệ thống đồng bộ các thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài nguyên. Kinh té thị trường đầy đủ gắn liền với một hệ thống luật lệ thể chế, hệ thống các đạo luật, các quy phạm là xương sống của nền kinh tế. Về thực chất là những khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho nền kinh tế năng động có trật tự. 2. Mặt tích cực và hạn chế của nền kinh tế thị trường trong đời sống xã hội ở nước ta: Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp trước kia bởi sự cạnh tranh. Nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp thu được các công nghệ và bí quyết mới; nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp bị phá sản. Về mặt tích cực: Khi kinh tế thị trường tạo ra được những cong người năng động, quyết đoán, có được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại của mình nhằm: + Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. + Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất. + Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. + Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch vụ dồi dào và luôn luôn được cải tiến. + Tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế. Về mặt tiêu cực: + Phân hoá giàu nghèo quá xa nhau dẫn đến không công bằng và mâu thuẫn xã hội. Thị trường càng phát triển phân hoá càng lớn và đến lượt nó lại là nguyên nhân tiềm tàng cản trở sự phát triển do tình trạng bất công và đẫn đến tình thế ổn định. + Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng chu kỳ, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp. + Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ đoạn không lành mạnh: đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường truyền thống và các đạo đức của xã hội. + Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và nước lớn trong việc khống chế mức lưu thông và giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá. + Giá cả hình thành tự do trên thị trường tự nó không phải bao giờ cũng phản ánh đúng giá trị của nó. Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng xuất hiện. Tuy thời gian xuất hiện và phát triển của nó chưa nhiều song những vấn đề mà cạnh tranh đặt ra lại không nhỏ. Cạnh tranh có xu hướng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Mặt khác, cũng như mặt trái của cơ chế thị trường, mặt trái của cạnh tranh là những thủ đoạn không lành mạnh. 3. Mục đích của nền kinh tế thị trường: Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá; lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: - Có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều hình thức sở hữu nhưng sở hữu công cộng là nền tảng. - Có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thật sự của dân do dân và vì dân, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường và kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích Nhà nước, của nhân dân lao động. - Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng ngay trong từng bước phát triển. II. Thực trạng và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta: 1. Giai đoạn trước năm 1986: Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh lâu dài. Trong những năm qua nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục lại nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lapạ quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế, thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng tính tự cấp tự túc. Trinh độ trang bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cầu hạ tầng kinh tế, văn hóa - xã hội lạc hậu, năng suất lao động xã hội thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng của một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối về nhiều mặt, công nghệ kỹ thuật chưa cao, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc vào nhiều các nước bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực, nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp. Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng: sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát ngày càng gia tăng, tài nguyên thiết bị lao động và tài năng mới được sử dụng thấp, đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được đảm bảo, tham nhũng, chưa tận dụng hết được nguồn nhân lực lao động trong nhân dân... Trên thực tế nền kinh tế nước ta, từ nghị quyết Hội nghị lần thứ VI BCH Trung Ương khoá IV (năm 1979), các quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã được chấp nhận nhưng mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do qua nhiều thập kỷ, qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, kiêng kỵ quan hệ hạng hoá và cơ chế thị trường, coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều, chủ quan duy ý chí (các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiên về phát triển công nghiệp nặng qui mô lớn, vội xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nặng về hình thức, phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh, kém hiệu lực). Những sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển, cuộc cải cách kinh tế bị đẩy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế mới xem như bước lùi tạm thời. 2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990: Trước tình hình đó, tháng 12 - 1986 Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận những sai lầm, thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo và điều hành, chủ yếu là duy ý chí, nóng vội chủ quan, đốt cháy giai đoạn, muốn tiến hành nhanh, tiến lên CNXH. Không thể có công cuộc đổi mới nếu xa dời tư tưởng cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toà diện mang tính chiến lược, mở ra thời kỳ mới phát triển nền kinh tế đất nước. Đổi mới tư duy lý luận, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp để xây dựng một cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Đại hội đã được xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội như “xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá”. Nền kinh tế nước ta đang từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì những sự thay đổi trong quan điểm kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế kéo theo sự thay đổi trong quan niệm về vai trò, vị trí và chức năng của các hiện tượng chính trị, ngoại giao, đạo đức, pháp quyền, khoa học và nghệ thuật... Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ việc phải sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan; phải vận dụng tổng hợp hệ thống các qui luật đang tác động nền kinh tế ví dụ như quy luật giá trị, quy luật cung cầu... Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế. Để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lý. Trong đó các nghành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có qui mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định. Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Đại hội VI chưa thể đi ngay vào cuộc sống, còn có lực cản, nền kinh tế tiếp tục gặp khó khăn trong mấy năm đầu. Nhưng từ năm 1989, các biện pháp đổi mới (như áp dụng chính sách suất dương, xoá bỏ chế độ tem phiếu, loại bỏ một số khoản chi bao cấp ngân sách Nhà nước, mở rộng quan hệ thị trường...) đã thực sự đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc. Ví dụ như: trong giai đoạn 1986- 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là 12,5%GDP; tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%; kim nghạch xuất khẩu bình quân đạt 1,3 tỷ USD/năm; kim nghạch nhập khẩu trung bình là 2,3 tỷ USD/năm. Về lạm phát thì năm 1986 là 77,4% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1% (Nguồn Tổng cục thống kê). 3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000: Do mới có một số biện pháp được áp dụng vào cuối kỳ kế hoạch 1986 - 1990 nên kết quả của thời kỳ này còn hạn chế. Song cái được của thời kỳ 1986 -1990 là chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh mẽ, đến giai đoạn 1991 -1995 sự chuyển đổi đó đã phát huy tác dụng và tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội Đảng VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như: - Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế quản lý thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. - Tiếp tục kim chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. - ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân (về vật chất và tinh thần); tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhịp độ tăng dân số.... Những quyết sách ấy được đưa ra trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc”, trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nguồn lực cho phát triển bị thiếu hụt.... dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế để góp phần đưa đất nước ta khỏi khủng hoảng. Trong 5 năm đầu (1991 - 1995), tuy nền kinh tế vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức nhưng với việc triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đã tạo ra nhiều động lực phát triển mới, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 -1995 được hoàn thành vượt mức và toàn diện, mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ thực hiện được. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% (trong khi đó mục tiêu ta đạt ra là 5- 6%), trong đó nông nghiệp tăng 4,5%; công nghiệp và xây dựng tăng 13,6% và dịch vụ tăng 8,8%, lạm phát kìm chế ổn định ở mức thấp (bình quân 23,4%/năm) (Theo nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư), đầu tư xã hội tăng nhanh, thị trường xuất nhập khẩu mở rộng.... Như vậy, kết quả đổi mới đạt được trong giai đoạn này đã chứng minh cho đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, thoe hướng “mở” được đề ra từ Đại hội VI là đúng đắn. Nó cũng chứng tỏ bài học kiên trì con đường vững vàng, xoá bỏ tập trung hoá cao độ, giải phóng mọi nguồn lực, giải toả tư tưởng kỳ thị khu vực tư nhân đi liền với khẳng định quyền sở hữu tư nhân, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ và nhất quán... đã là những nhân tố quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 - 1995, Đại hội VII đã kết luận: “ Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Giai đoạn 1996 -2000 được xác định là bước quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 đã được xây dựng với mức phấn đấu rất cao, cả về tốc độ phát triển, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế. Việc chuyển từ giai đoạn lấy ổn định kinh tế xã hội làm trọng tâm sang giai đoạn lấy phát triển làm trọng tâm, đặt ra yêu cầu rất cao, rất toàn diện theo chiều sâu cải cách kinh tế, đặc biệt là phải nhanh chóng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý với cơ chế quản lý đủ sức vận hành thông suốt, hướng nền kinh tế đi vào phát triển và ổn định. Tuy nhiên, các tiền đề cần thiết cho sự phát triển cao như chất lượng nguồn; trình độ và năng lực khoa học, công nghệ; điều kiện kết cấu hạ tầng; khả năng tài chính quốc gia; cơ chế thị trường đồng bộ có sự quản lý của Nhà nước.... chưa chuẩn bị đầy đủ và còn quá thấp so với yêu cầu. Mặt khác, tác động của khủng hoảng khu vực và những thiên tai khắc nghiệt đã làm tăng thêm khó khăn của nền kinh tế. Vì vậy, hầu hết các chỉ tiêu đặt ra tại Đại hội VIII đều không đạt được (mục tiêu tốc độ GDP trung bình 9,0 - 10,0%/năm chỉ đạt 6,55%/năm; mục tiêu tốc độ kim ngạch xuất khẩu 28%/năm nhưng chỉ đạt 21%/năm...) (Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng VIII). Mặc dù có nhiều khó khăn thách thức gay gắt, bị thiệt hại lớn do thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng, nhưng nhìn chung việc thực hiện chiến lược 1991 - 2000 đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng như: sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đến năm 2000 đạt 25%GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 7,5%/năm (Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư). Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, nay đã đảm bảo lương thực thực phẩm, nhiều loại tiêu dùng, có dự trữ... Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá nhanh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các thành phần kinh tế phát triển khá nhanh. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và nguồn tài trợ chính thức của nước ngoài. Mặt khác, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện. 4. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta: Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện - từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh vực: đổi mới tư duy; đổi mới tổ chức và cán bộ; đổi mới phong cách làm việc. Đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều, chủ quan, siêu hình; là phải đấu tranh loại bỏ những quan điểm sai trái, khắc phục những quan điểm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, về công nghiệp hoá, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế... Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận mà Đảng đã đạt được. Từ Đại hội VI đến nay đã gần15 năm, đã qua Đại hội VII, hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ đại hội VIII, đường lối đổi mới đã được cụ thể hoấ và phát triển, đem lại những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương án xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiêng lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Quán triệt nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta, nhiệm vụ này chỉ được thực hiện nếu chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. ” Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính năng động chủ quan. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ. Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. - Trong việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải dự báo được xu hướng vận động của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời dự báo trước được xu hướng vận động của các sự kiện, các lĩnh vực có liên quan. - Mỗi lĩnh vực của thế giới và của đời sống xã hội có những quy luật vận động đặc thù. Ngoài những quy luật đó, phải nhận thức được các quy luật của triết học như quy luật mâu thuẫn biện chứng về nguyên nhân của sự vận động, phát triển; quy luật phủ định của phủ định về xu hướng của vận động và phát triển. - Mối liên hệ giữa sự vận động, phát triển là hai mặt của quá trình tồn tại của sự vật; sự vật liên hệ tác động qua lại lẫn nhau gây nên vận động, ngược lại vận động tạo ra liên hệ. Yêu cầu toà diện chỉ đạt được khi tính đến sự phát triển. Và ngược lại chỉ có thể dự báo được xu hướng phát triển khi xem xét một cách toàn diện. Đảng ta đã yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nắm vững các định hướng lớn: - Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đổi mới kinh tế ở nước ta. - Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. - Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hoá nhân loại. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta sở dĩ giữ vững được vai trò lãnh đạo và lãnh đạo thành công trong sự nghiệp đổi mới cũng trước hết nhờ Đảng ta không xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không mất đi bản chất của giai cấp công nhân. Thành công và thưc tiễn sinh động của công cuộc đổi mới trên đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã và đang chứng minh sức sống và làm sáng tỏ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới đất nước càng làm nổi bật vai trò của lý luận, đồng thời càng thấy rõ sự cần thiết phải tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc để không chỉ làm sáng tỏ mà còn phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện và hoàn cảnh mới của đất nước ta. Vào thời điểm đầu của giai đoạn này, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, gây nên một tác động xấu về tình cảm, niềm tin và cả sự hoài nghi về chủ nghĩa xã hội. Dẫn đến xã hội chủ nghĩa tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Những năm gần đây nước ta chịu sự tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nó nổ ra ở khu vực bị thiên tai, thiệt hại liên tiếp xảy ra ở các vùng. Lênin đã từng chỉ ra rằng: có trên cơ sở hiểu đúng thời đại, chúng ta mới có thể định ra chiến lược và sách lược đúng đắn. Khẳng định tính thời đại có căn cứ vững chắc giúp củng cố lòng tin của người cộng sản vào con đường đã chọn, nó bác bỏ những quan điểm chỉ thấy mặt lực lượng sản xuất nhưng phủ nhận nội dung giai cấp, nội dung chính trị, kinh tế, xã hội trong sự vận động đầy mâu thuẫn của hình thái kinh tế. III. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường: 1. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường: - Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ. - Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện có phần nào đã cản trở việc hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển không đúng theo bản chất của nó, làm sai lệch đi những nôi dung cần có của các yếu tố thị trường. Trong thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và hoàn chỉnh một cách toàn diện các yếu tố thị trường, cụ thể sau: Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ: Thị trường hàng hoá và dịch vụ là yếu tố nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. Có thị trường hàng hoá phát triển, mới có thể đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng đa dạng. Để thực hiện vấn đề này, một mặt phải ra sức sản xuất những loại hàng hoá mà thị trường có nhu cầu mặt khác phải nâng cao sức mua của thị trường trong cả nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng nhiều khó khăn. Mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài. Phát triển thị trường sức lao động: ở nước ta thị trường lao động chưa được phát triển. Tuy nhiên theo quan điểm toàn diện, lao động là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc phát triển thị trường lao động cần được quan tâm đúng mức. Việc mở rộng thị trường lao động trong nước cần có sự kiểm tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60213.doc
Tài liệu liên quan