Đề tài Quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP)

 

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LUỢNG ATVSTP 4

I.Khái niệm,nội dung của chất lượng và quản trị chất lượng 4

1.Chất lượng 4

1.1 Khái niệm về chất lượng 4

1.2 Yêu cầu và đặc điểm của chất lượng sản phẩm 5

1.3 Tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh 6

2.Quản lý chất lượng 7

2.1 Khái niệm quản lý chất lượng 7

2.2 Vai trò của quản lý chất lượng 7

II.Quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP 8

1.Vai trò của quản lý nhà nước 8

2.Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước 10

2.1 Trách nhiệm chung 11

2.2. Trách nhiệm trong viêc phòng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm 13

2.3 Trách nhiệm trong việc phối hợp kiểm tra thanh tra và xử lý các vi phạm trong việc thực hiện các quy định về VSATTP 14

CHƯƠNG2:THỰC TRẠNG CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG VSATTP 16

I.Thực trạng về VSATTP ở Việt Nam hiện nay 16

1.Sự bất ổn trong tâm lý người tiêu dùng về ATVSTP trên thị trường hiện nay 16

2.Tình trạng tràn lan của các loại hàng hoá trong và ngoài nước 21

II.Những tác động tích cực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP 22

III.Những tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP 25

1.Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về VSATTP còn yếu, phân tán và thiếu sự đồng bộ. 25

2.Chưa quan tâm đến việc đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ gia súc gia cầm tập trung,chế biến thực phẩm theo phương pháp công nghiệp, đảm bảo chất lượng VSATTP 26

3.Các văn bản, quy định phục vụ cho công tác quản lý nhà nước ban hành chậm, thiếu đồng bộ, nhiều quy định đã lạc hậu, đặc biệt là các văn bản kỹ thuật. 27

4. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên hiệu quả còn thấp. 28

5. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về VSATTP còn hạn chế. 30

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG VSATTP 31

1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về VSATTP 31

2. Một số giải pháp áp dụng các tiêu chuẩn về VSATTP 35

3. Một số gợi ý cho các giải pháp 40

KẾT LUẬN 43

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 7549 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả nhập từ Trung Quốc. Tại Nam Định, mấy tháng đầu năm đã phát hiện 5/12 mẫu nho, 6/12 mẫu quýt, 9/13 mẫu táo Trung Quốc, 8/13 mẫu lê Trung Quốc có hoá chất bảo vệ thực vật. Hơn thế nữa người tiêu dùng không thể phân biệt được đâu là hàng thật đâu là hàng giả đâu là hàng nông sản Việt Nam với hàng Trung Quốc nhập lậu. Đến chợ Long Biên(Hà Nội) người ta không thấy khó khăn gì để tìm những hoa quả gian mác Tây như nho Mỹ, xoài Oxtraylia, me Thái...nhưng có ai biết đây đúng là hoa quả nhâp ngoại không? Còn rau xanh thì sao? Rau là món ăn thường xuyên và không thể thiếu trong các bữa ăn.Nhưng có cơ sở nào đảm bảo rau sạch không có hoá chất? Theo kết quả điều tra thực trạng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật rau quả trong thời gian gần đây của Cục bảo vệ thực vật, số mẫu rau, quả tươi có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ảnh hưởng tới sức khoẻ con người chiếm 30-60%. Số mẫu rau kiểm tra ở Hà Nội và Hà Tây có hàm lượng asen cao hơn giới hạn cho phép chiếm 22-23%. 100% mẫu đậu ở Hà Nội và Hà Tây, 66,6%mẫu rau cải tại TP HCM và Đồng Nai có dư lượng vượt giới hạn tối đa cho phép. Một số thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng như Methamidophos vẫn còn dư lượng trong rau. Với những hàng rau bầy bán đầy rẫy ngoài chợ với những ngọn rau tươi xanh mũn mĩm nhìn thì ngon. Nhưng người ta đâu biết nó được nuôi trồng ra sao?Nhìn những cọng rau muống tươi ngon hẳn người tiêu dùng chẳng thể nào biết rằng chúng được trồng và thu hoạch bằng công nghệ siêu tốc. Những hộ trồng rau đã rút ngắn tối đa thời gian thu hoạch để kiếm lời một cách nhanh chóng. Bình thường, để thu hoạch một lứa rau phải đợi ít nhất một tuần nhưng ở đây cứ 2 ngày cắt một lần. Những cây rau cắt sát gốc chỉ cần tưới nửa kilogam thuốc tăng trưởng là chỉ sau 1 đêm đã dài cả tấc. Thực phẩm ngoài chợ đã vậy nhưng cả hàng trong siêu thị cũng không kém gì. Lâu nay, khi nói đến hàng hoá siêu thị, người ta luôn nghĩ rằng nơi đây đảm bảo về chất lượng.Thế nhưng, qua kiểm định của các cơ quan chức năng tại Hà Nội và TP HCM, đã phát hiện ra nhiều kết quả bất ngờ: các mẫu nước tương lấy từ các siêu thị có tỷ lệ chất3-MCPD khá cao:8/20 mẫu có chứa 3-MCPD(loại chất có thể gây ung thư) vượt mức cho phép;Các món giò lụa, giò lưỡi, dưa chua, nem chua, bồn bồn, rau chuối xanh...đều có chứa hàn the(ăn nhiều có thể bị ngộ độc mãn tính) và chất formol(là loại hoá chất độc hại gây ung thư)-từ năm 1951 Hội đồng Tiêu chuẩn Thực phẩm(FSC)đã cấm sử dụng chất này nhưng ở Việt Nam, nửa thế kỷ qua, nhà sản xuất vẫn ngang nhiên pha trộn nó vào thức ăn để giữ độ lâu bền cho sản phẩm mà quên đi nguy cơ độc hại cho người tiêu dùng. Thực chất nếu không kiểm tra thì chắc không ai biết có điều này xảy ra. Không những thế sau khi bị phát hiện thì ngay lập tức tất cả những loại hàng đó và những mặt hàng của cơ sở khác cung ngành cung bị dỡ bỏ mà chưa kiểm nghiệm để biết loại sản phẩm đó có vi phạm không. Như là vụ nước tương của một số doanh nghiệp sản xuất khi phát hiện ra chất 3-MCPD có quá nhiều so với quy định cho phép có trong thành phần của sản phẩm thì ngay lập tức tất cả các loại nước tương hay xì dầu đều bị dỡ khỏi quầy trưng bày kể cả sản phẩm không vi phạm trả lại nhà cung cấp. Điều này gây hiểu lầm cho người tiêu dùng”chắc phải vi phạm nên siêu thị mới không bán nữa” Trong hoạt động chế biến, giết mổ gia súc gia cầm thì VSATTP cũng đang ở trong tình trạng rất đáng ngại. Phần lớn các cơ sở giết mổ động vật không đáp ứng được yêu cầu vệ sinh. Theo cục thú y, phần lớn các cơ sở giết mổ động vật không đáp ứng yêu cầu vệ sinh, cơ quan thú y chỉ kiểm soát được dưới 50% thịt lưu thông trên thị trường. Một số thành phố lớn như Hà Nội có tới 300 điểm giết mổ gia súc,trong đó chỉ có 7 điểm được cấp giấy phép và chịu sự giám sát thường xuyên, còn lại là các điểm giết mổ giải rác, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Chính vì vậy số lượng thịt đem bán trên thị trường khó có thể xác định có được kiểm nghiệm. Ở lợn đã phát hiện một số bệnh như: nhiệt than, tụ huyết trùng, lở mồn long móng, tai xanh....Khi người tiêu dùng ăn phải sẽ dễ bị nhiễm bệnh gây nguy hiểm đến sức khoẻ và tính mạng. Trong thực tế không phải tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh đều vị phạm yêu cầu về VSATTP. Ví dụ như công ty Sao Việt đã áp dụng hệ thống quản lý đồng bộ trong việc sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, từ khâu trồng trọt đến thu mua, chế biến và phân phối. Hiện Sao Việt có thể cung cấp rau sạch tận nhà cho khách hàng là người tiêu dùng ở TP HCM. Công ty đã thiết lập được mối quan hệ và hoạt động từ người trồng rau đến người bán. Đồng thời việc lưu trữ hồ sơ giúp công ty có thể dễ dàng truy lục hồ sơ để xác định rõ trách nhiệm trong việc cung cấp sản phẩm rau các loại cho khách hàng. Điều này tạo lòng tin của khách hàng về sản phẩm của công ty. Đã có một số doanh nghiệp cung cấp thực phẩm áp dụng các phương pháp quản lý VSATTP như áp dụng tiêu chuẩn HACCP(phân tích nguy cơ và thiết lập điểm kiểm soát).Đây là một tiêu chuẩn được quốc tế thừa nhân rộng rãi về quản lý chất lượng ATVSTP. HACCP là một phương pháp quản lý nhằm giúp doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất,chế biến thực phẩm kiểm soát được mọi khâu trong quá trình sản xuất từ đầu vào nguyên liệu đến đầu ra của sản phẩm.Việc kiểm soát này nhằm tìm ra những nguy cơ có thể gây ảnh hưởng đến VSATTP trong suốt quá trình sản xuất chế biến. Từ đó giúp doanh nghiệp có thể khắc phục phòng ngừa những nguy cơ đó.Toàn bộ việc kiểm soát này buộc phải ghi lại thành hồ sơ để theo dõi và để xuất trình theo yêu cầu của khách hàng bao gồm các đối tác của doanh nghiệp và khách hàng. Một ví dụ điển hình là công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Long Phụng đã mạnh dạn áp dung tiêu chuẩn nà trong việc sản xuất các loại giò, chả, xúc xích, jambon để tiêu thụ ở thị trường trong nước...Hay Công ty Nestlé Việt Nam-Nhà máy Ba Vì, Công ty Rượu-Nước giải khát Thăng Long... 2.Tình trạng tràn lan của các loại hàng hoá trong và ngoài nước Việt Nam hiện nay đang là một thành viên của tổ chức WTO(tổ chức thương mại thế giới). Đây là một điều kiện rất thuận lợi để phát triển nền kinh tế trong xu thế phát triển của thế giới. Nhờ hội nhập tạo điều kiện cho chúng ta tăng doanh thu xuất khẩu, giảm rào cản thương mại, tăng cường nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài...nhưng nó cũng làm cho ta khó có thể kiểm soát được hết các hoạt động diễn ra trên thị trường. Mặt hàng thực phẩm tràn lan khắp nơi mà chưa rõ nguồn gốc không được kiểm định. Nhiều loại thực phẩm được nhập lậu từ Trung Quốc được đưa vào nước ta với chất lượng rất kém ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.Thực phẩm nhập lậu rất đa dạng và nhiều chủng loại, bao gồm rất nhiều mặt hàng có nguy cơ ô nhiễm, gây ngộ độc cao. Mặt khác tình trạng nhập lậu gia súc, gia cầm qua biên giới...hầu như chưa có biện pháp để ngăn chặn và không thể kiểm soát được. VSATTP là vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi, sức khoẻ, thậm trí là tính mạng của người tiêu dùng. Cho nên nó được cả xã hội trú trọng. Gần đây nhất là vụ tiêu chảy cấp đang gây xôn xao dư luận. Chỉ trong một thời gian ngắn đã thành nạn dịch gây nguy hiểm đến tính mạng con người. Dịch tiêu chảy đã xuất hiện ở Hà Nội và một số tỉnh phía bắc. Đến tối 31/10/2007 đã có 111 người mắc bệnh phải nhập viện trong đó 90% số người bệnh này đã ăn các thực phẩm tươi sống chủ yếu mắn tôm, mắm tép. Đây có thể coi là những món ăn truyền thống của người Việt Nam, được sử dụng thường xuyên không thể thiếu trong các bữa ăn mà từ trước đến giờ vẫn ăn có sao đâu. Nguyên nhân do đâu vẫn đang còn là một câu hỏi chưa lời đáp rõ ràng. Các nước tiên tiến như Nhật, Mỹ và các nước Châu Âu quy định rằng chỉ những nước có đủ điều kiện vệ sinh chứng minh được rằng sản phẩm thực phẩm của mình hợp vệ sinh an toàn với sức khoẻ thì mới được đưa hàng hoá vào những nước này. Theo hệ thống cảnh báo và thông báo cua Châu Âu, năm 2004, trong số hàng thực phẩm Việt Nam xuất sang Châu Âu, có 59 lô không đạt tiêu chuẩn chất lượng ( Việt Nam xếp thứ 13 trong số các nước bị cảnh báo), con số này là 124 và Việt Nam xếp thứ 7 trong năm 2005. Trong 6 tháng đầu năm 2007, nhiều lô hàng nông thuỷ sản xuất khẩu bị Hoa Kỳ, Canada, Nhật, Nga, Singapore từ chối. Những sự kiện ấy phản ánh phần nào những tồn đọng, bất cập trong sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong khi đó đã vào WTO thì phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt về chất lượng ngay cả trên sân nhà. Một thực tế không thể phủ nhận được đó là ý thức của người tiêu dùng. Có lẽ còn rất lâu mới đạt tiêu chuẩn “nhà tiêu dùng thông thái” nếu những thói quen và sự dễ dãi vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của họ. Người ta biết được việc đó là rất bẩn nhưng vẫn chấp nhận. Ví dụ như khi đi chợ một khách hàng yêu cầu xay thịt người bán thit vẫn cầm miếng thịt vẫn còn dính lông chỉ cắt ra nhúng vào xô nước nổi đầy váng mỡ và đỏ lòm rồi cho vào máy xay. Nhìn thấy như vậy nhưng vẫn nói như không có gì “xay luôn cho tiện, nhà mình ăn suốt, có ai bị làm sao đâu, cứ nấu sôi sùng sục là vi khuẩn chết hết”. Không những thế ở các nhà hàng cũng bẩn không kém, ngồi ngay bên xô nước rửa bát và được tận mắt chứng kiến cách làm bẩn thỉu, cẩu thả của nhà hàng, nhưng vẫn làm ngơ như không có chuyện gì cả. Việc người tiêu dùng có thói quen thích hàng rẻ, thích mua hàng tươi sống hàng ngày...cũng là một nguyên nhân gia tăng việc sử dụng các hoá chất bảo quản. II.Những tác động tích cực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP Trong những năm gần đây nước ta đã có nhiều thay đổi với một nền kinh tế phát triển.Việc thông thương hợp tác với các nước trên thế giới đã làm tăng lượng hàng xuất khẩu và nhập khẩu của chúng ta. Những mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn về GDP với những loại hàng nông sản như gạo (đứng thứ 2 trên thế giới), cà phê, chè....và thuỷ sản như cá tra, cá basa, tôm...., những hàng thủ công, mỹ nghệ như gốm sứ, may mặc công nghiệp .... Đồng thời cũng tăng lượng hàng nhập khẩu vào nước ta về đủ các mặt hàng. Điều này tạo ra sự cạnh tranh rất cao giữa hàng trong nước và nước ngoài, các mặt hàng trong nước cạnh tranh với nhau... Chính vì vậy không thể tránh khỏi tranh chấp, cạnh tranh không lành mạnh, các tổ chức cá nhân kinh doanh vì lợi nhuận mà làm tổn hại đến con người và xã hội...Cho nên cần có sự quản lý can thiệp của nhà nước. Trên thị trường xuất khẩu hàng hoá đang rất gay gắt do những vụ kiện bán phá giá về cá tra, cá basa, hàng may mặc xuất khẩu... của ta trên thị trường Mỹ. Chúng ta phải mất rất nhiều thời gian mới giải quyết xong. Để hạn chế tình trạng này các cơ quan nhà nước đã làm hết sức của mình để bảo vệ quyền lợi cho những mặt hàng xuất khẩu. Để hạn chế tình trạng trên nhà nước đã ban hành các văn bản luật và hướng dẫn thi hành đối với các mặt hàng thạm gia xuất khẩu. Thường xuyên kiểm tra giám sát các cơ sở sản xuất kinh doanh giúp họ nắm bắt được thực trạng của tình hình hiện nay. Đồng thời hướng dẫn thực hiện đúng quy trình sản xuất. Các cơ quan nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo hộ quyền lợi cho những nhà xuất khẩu trong nước.Các cơ quan quản lý nhà nước về VSATTP là nơi có quyền và trách nhiệm đảm bảo chất lượng ATTP trên thị trường. Các cơ quan này chịu trách nhiệm xây dựng, ban hành và hướng dẫn thi hành luật. Đã có nhiều văn bản luật được thi hành như Pháp lệnh về Thú y, Pháp lệnh về VSATTP, Luật về thuỷ sản, Pháp lệnh về chất lượng hàng hoá và sắp tới đây là Luật về Chất lượng sản phẩm hàng hoá và các nghị định hướng dẫn thi hành. Như Cục thú y năm 2006 đã xây dựng chương trình Bộ ban hành 12 văn bản quy phạm pháp luật và 31 quy chuẩn kỹ thuật có liên quan đến công tác VSATTP, kiểm soát giết mổ động vật, kiểm tra vệ sinh thú y: quản lý và sử dụng thuốc thú y. Đã tổ chức phát hành được 2000 cuồn tài liệu tập hợp các văn bản QPPL và quy chuẩn kỹ thuật liên quan tạo thành hành lang pháp lý trong công tác quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập; Tập huấn cho các đơn vị trực thuộc Cục thú y và Chi cục thú y các tỉnh về hiệp định SPS, hội nhập kinh tế quốc tế và các yêu cầu vệ sinh thú y trong buôn bán động vật, sản phẩm động vật; Tăng cường hợp tác với các nước về công tác thú y, ký kết hiệp định thoả thuận với các nước; chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Cục, chi cục Thú y các tỉnh, thành phố Trung ương phối hợp với chính quyền các ban ngành tại địa phương thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo chương trình hoạt động hàng năm đối với các cơ sở giết mổ, buôn bán động vật; thanh tra và chỉ đạo công tac kiểm dịch tại các cửa khẩu, ngăn chặn tình trạng buôn lậu; Nhà nước đã ban hành các văn bản luật, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 08/1999/CT-TTg ngày 15/04/1999 về việc “Tăng cường công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm” và Quyết định số 43/2006/QĐ-TTg ngày 20/02/2006 phê duyệt kế hoạch bảo đảm VSATTP giai đoạn 2006 -2010. Để công tác quản lý VSATTP được thực hiện thống nhất, có hiệu quả đòi hỏi sự lỗ lực của các cơ quan có trách nhiệm và toàn xã hội. Hiện nay, hành lang pháp lý về VSATTP ở nước ta cơ bản đã được thiết lập và củng cố; công tác phối hợp liên ngành được tăng cường và ngày càng có hiệu quả. Công tác giáo dục truyền thông được đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và người tiêu dùng. Đó là những bước tiến quan trọng trong công tác đảm bảo VSATTP ở nước ta. Các cơ quan , đơn vị có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động kiểm dịch. Thường xuyên kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh với những biện pháp chế tài hợp lý. Chỉ đạo phối hợp với các đơn vị tổ chức kiểm tra, giám sát chất lượng một số chủng loại thuốc thú y đang lưu hành trên thị trường; giám sát các chất tồn dư trong thực phẩm như trong thịt, trứng, sữa, mật ong( kháng sinh, kim loại nặng, hoóc- môn, sudan) hay trong hoa quả....Các cơ quan đã cử người đi học tâp công tác ở nước ngoài như Cục thú y năm 2006 đã cử 112 lượt người đi học tập/ công tác ở nước ngoài về phòng chống dịch bệnh, kiểm soát giết mổ gia súc, gia cầm và VSATTP; Phối hợp với tổ chức FAO, WB và các địa phương tổ chức 1 lớp huấn luyện về kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y động vật, sản phẩm động vật cho 883 học viên tại 18 Chi cục Thú y các tỉnh, thành phố; III.Những tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng VSATTP Hiện nay bộ máy hoạt động trong các cơ quan quản lý nhà nước của chúng ta còn rất nhiều bất cập nhiều vấn đề cần giải quyết. 1.Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về VSATTP còn yếu, phân tán và thiếu sự đồng bộ. Thực tế hiện nay có khá nhiều bộ, ngành tham gia quản lý VSATTP nhưng sự phối hợp còn thiếu đồng bộ, không có đơn vị chuyên trách thực hiện việc quản lý VSATTP nên hoạt động không hiệu quả. Theo quy định hiện hành, Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về Chất lượng VSATTP trong khâu lưu thông nhưng đội ngũ cán bộ còn quá mỏng, lại thiếu những phương tiện hoạt động cần thiết, chưa có cơ quan chuyên trách quản lý VSATTP. Việc đánh giá,cảnh báo nguy cơ và kiểm soát nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm hiện còn chưa được thường xuyên. Sự chồng chéo trong việc phân công trách nhiệm quản lý. Đây là vấn đề gây tranh cãi và bức xúc trong hoạt động của hệ thống các cơ quan chức năng có trách nhiệm trong vấn đề VSATTP. Có người đã phát biểu rằng “ việc đăng ký của các cơ sở kinh doanh này là đúng theo các quy định hiện hành. Còn những sai phạm của họ thì...không thuộc quyền quản lý của chúng tôi. Quản lý thông tin quảng cáo là trách nhiệm của Bộ Văn hoá Thông tin”. Đến nay trách nhiệm thuộc về cơ quan nào vẫn chưa rõ ràng và còn chồng chéo. Dư luận rất bất bình về việc các cơ quan chức năng ngành Y tế không thừa nhận yếu kém trong khâu quản lý. Cụ thể là trách nhiệm của thanh tra Sở Y tế TPHCM đã xem nhẹ với những lập luận những lý do “thiếu quyết đoán”. Còn lãnh đạo Thanh tra Bộ Y tế và Cục ATVSTP cũng nhân lúc đó đổ hết mọi tội lỗi cho Sở Y tế TPHCM. Trong khi người tiêu dùng đang cần những thông tin chính xác và nhanh chóng thì các cơ quan từ chối với lý do “ tất cả các kết quả đều được chúng tôi báo cáo với cục ATVSTP. Cục mới là cơ quan chức năng đủ thẩm quyền công bố..”. Tuy nhiên ông Cục trưởng Cục ATVSTP lại cho biết rằng, cục chỉ nhận được thông tin nước tương chứa chất 3-MCPD vượt tiêu chuẩn cho phép thông qua báo chí. Ngoài ra, ông Chánh thanh tra Bộ Y tế cũng cho rằng, cơ quan này đã 2 lần gửi công văn yêu cầu Thanh tra sở Y tế TPHCM công bố kết quả đợt thanh tra nước tương vào quý I/2007 nhưng cũng không nhận được hồi âm. Nhưng sự việc không chỉ dừng lại ở đó mà sau khi cục ATVSTP nhân được báo cào kết quả kiểm nghiệm cũng không công bố cho người tiêu dùng biết mà lại là trách nhiệm của Sở Y tế TPHCM. điều này làm người ta nghi ngờ không hiểu vậy thì trách nhiệm của Cục ATVSTP là gì? 2.Chưa quan tâm đến việc đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ gia súc gia cầm tập trung,chế biến thực phẩm theo phương pháp công nghiệp, đảm bảo chất lượng VSATTP Tình trạng chung hiện nay là việc giết mổ gia súc, gia cầm rất phân tán và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Ngay ở thành phố lớn TP.HCM, đến tháng 4/2004 mới có VISSAN là cơ sở giết mổ gia súc theo phương pháp công nghiệp được xây dựng từ những năm 70 của thế kỷ 20, mới cung chỉ cung cấp được 20-30% nhu cầu thực phẩm gia súc chế biến đảm bảo chất lượng VSATTP của thị trường. Hệ thống labo kiểm nghiệm so với yêu cầu quá ít. Hiện nay mới có 16 labo trong tổng số 64 tỉnh, thành có máy sắc ký lỏng. Năng lực xét nghiệm các chỉ tiêu về hoá chất, kháng sinh, hoóc-môn, độc tố...còn rất hạn chế. Trên thực tế, các kháng sinh tồn dư trên thịt tươi vẫn rất cao, từ khâu giết mổ gia súc đến khâu bảo quản, vận chuyển và phân phối kinh doanh cũng làm mỗi nơi một kiểu. Hiện nay người ta còn phát hiện ra trong thịt lợn còn có chứa chất “muốn diêm” đây là loại hoá chất gốc Nitric- NO2 và Nitrat- NO3 làm cho thịt luôn có màu tươi đỏ dù có để từ ngày hôm trước đến hôm sau. Chất này còn được sử dụng trong nghề bóc vỏ tỏi rất nhanh chóng. Tỏi chỉ cần ngâm muối diêm 15 phút, lấy chân đạp cho bong vỏ sau đó vớt ra và gọt đầu thế là xong. Nhưng loại tỏi này chỉ cần để một thời gian ngắn sẽ bị ngả sang màu vàng và bốc mùi nồng nặc. Nhiều chi cục đã buông lỏng công tác quản lý kiểm dịch vận chuyển, cấp giấy chứng nhận kiểm dịch sai quy định; Hệ thống trạm, chốt kiểm dịch đầu mối giao thông trang thiết bị nghèo nàn, nhiều nơi không có trụ sở làm việc, hoạt động kém hiệu quả, chủ yếu chỉ kiểm tra trên giấy tờ. Bộ Y tế vẫn chưa có những văn bản cụ thể quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật về việc xây dựng các cơ sở giết mổ chuyên dùng. Đến nay, Pháp lệnh vè VSATTP (có hiệu lực từ tháng 11/2003) là văn bản pháp lý cao nhất về quản lý trong lĩnh vực này. 3.Các văn bản, quy định phục vụ cho công tác quản lý nhà nước ban hành chậm, thiếu đồng bộ, nhiều quy định đã lạc hậu, đặc biệt là các văn bản kỹ thuật. Thực tế đòi hỏi phải có vài ngàn tiêu chuẩn về thực phẩm, song đến nay chỉ mới ban hành được 717 tiêu chuẩn Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bất cập trong việc thanh tra, kiểm soát thực phẩm trên thị trường. Pháp lệnh VSATTP có hiệu lực từ tháng 11/2003 nhưng đến nay vẫn chưa có nghị định hướng dẫn thi hành. Vấn đề VSATTP liên quan mật thiết tới nhiều ngành sản xuất nhưng khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các Bộ, ngành chưa quan tâm thích đáng đến vấn đề này, chưa có sự thống nhất chung về yêu cầu VSATTP đối với các sản phẩm thực phẩm. Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về VSATTP còn chậm, một số tiêu chuẩn về VSATTP không còn phù hợp với phương thức quản lý thực phẩm hiện nay. Theo đánh gía của uỷ ban KH, CN&MT của Quốc hội, phần lớn các tiêu chuẩn không đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế (mức độ tương thích của tiêu chuẩn VSATTP Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế hiện nay ở mức 32,2%). Mặc dù bộ Y tế- Ban chỉ đạo liên ngành đã có công văn gửi tất cả các địa phương trong cả nước cũng như các bộ ngành liên quan đề nghị đánh giá kế hoạch thực hiện chương trình hành đông quốc gia đến năm 2010 của Chính phủ, nhưng đến cuối tháng 7/2007 mới chỉ có 30/64 tỉnh, thành phố và 8/13 bộ, ngành gửi báo cáo về bộ Y tế. Có thể thấy rằng, ngay cả các cấp chính quyền vẫn còn thái độ thờ ơ, vô cảm với vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và đời sống của người đan như thế thì việc chỉ có gần 38% người sản xuất; 42,5% người kinh doanh thực phẩm và gần 40% người tiêu dùng có hiểu biết và thực hành đúng về VSATTP. Hiện nay việc bộ luật về VSATTP vẫn còn nhiều bất cập. Thực phẩm bị phát hiện chứa hàn the nhưng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự được chỉ có thể xử lý bằng hình thức thiêu huỷ bởi vì luật pháp nước ta quy định việc vi phạm phải được chứng minh là gây hậu quả nghiêm trọng trong khi đó phải 20 năm sau khi ăn, người tiêu dùng mới bị hàn the gây tác động lúc đó thì lấy đâu ra chứng cứ để truy tố nữa. Thiếu cơ sở pháp lý để thanh tra xử lý các đơn vị vi phạm là ý kiến chung của nhiều nhà quản lý. ví dụ như trong năm 2003 trên địa bàn TP.HCM đã xảy ra 22 vụ ngộ độc trong đó có đến 17 vụ ngộ độc tập thể với hơn 1000 lượt người bị ngộ độc. Nguyên nhân chính là do sử dụng thực phẩm không đảm bảo VSATTP. Trước tình hình trên sở Y tế đã tiến hành thanh tra và đã xử phạt vi phạm với hơn 200 triệu đồng. Tuy nhiên khi phát hiện vi phạm lại thiếu quy chế xử phạt. Điều này khiến cho việc xử phạt rất lúng túng 4. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên hiệu quả còn thấp. Hiện nay cả nước có hơn 200 thanh tra viên thuộc ngành y tế, thanh tra cả về VSATTP. Chế tài xử phạt vi phạm còn thiếu cụ thể hoặc quá nhẹ, không đủ sức răn đe. Có thể nói, công tác thanh tra về VSATTP chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước về VSATTP. Do nguồn thanh tra chuyên ngành quá mỏng như hiện nay không đủ nguồn lực để kiểm tra và giám sát. Số cán bộ chuyên trách cấp của ngành y tế cấp tỉnh, thành về vấn đề này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cấp quận huyện thì kiêm nhiệm, phường xã thì hầu như không có kinh nghiệm. Do vậy mà hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm chỉ thực hiện từng đợt. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý thường chỉ bắt tay vào cuộc, thanh tra và kiểm tra sau khi sự việc được báo chí phanh phui. Ví dụ như năm 2003, Báo Gia đình và Xã hội có bài điều tra về lợn chết do dịch bệnh, đã được chôn nhưng một số người ham lợi vẫn lén lút đào bới, chế biến thành patê, thịt lợn quay. Khi báo chí phất hiện thì các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh mới xử lý. Hay khi báo Lao Động phản ánh tình trạng sữa, bột dinh dưỡng không rõ nguồn gốc và nhà sản xuất bán tràn lan tại một số điểm ở Hà Nội. Sau đó sở Y tế Hà Nội và các cơ quan chức năng mới vào cuộc. Gần đây nhất là tình trạng nước tương có chứa chất 3-MCPD một loại chất hoá học gây ung thư có chứa rất nhiều trong nước tương. Điều này đã làm người tiêu dùng vô cùng hoang mang, lo ngại. Nó đã gây xôn xao dư luận trong thời gian dài. Việc phát hiện chất 3-MCPD có trong nước tương đã được tiến hành kiểm tra từ cuối năm 2001 nhưng các cơ quan có chức năng vẫn “ém nhẹm” vụ này và đến thời gian gần đây mới tiến hành công bố vì bị dư luận lên án quá gay gắt. Một đặc điểm tình hình hiện nay là cứ Bộ nào được giao quản lý ngành là có xu hướng phải thành lập phòng kiểm nghiệm riêng, vừa tốn kém, vừa khó tránh khỏi trùng lắp, vừa khó có đủ kinh phí để trang bị thật hoàn chỉnh, đáp ứng được mọi yêu cầu kiểm nghiệm sẽ rất đa dạng và khắc nghiệt trong thời gian sắp tới. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá vẫn gặp nhiều hạn chế do số phòng thử nghiệm có trình độ và kinh nghiệm còn ít và việc moẻ rộng hoạt động kiểm nghiệm đánh giá, chứng nhận chất lượng sản phẩm hàng hoá cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước chưa được thật phổ biến. 5. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về VSATTP còn hạn chế. Mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước và các phương tiện thông tin đại chúng đã trú trọng tới việc thông tin, tuyên truyền về VSATTP nhưng chưa thường xuyên, chỉ được đẩy mạnh trong “Tháng hành động vì chất lượng VSATTP”. Các cơ quan chức năng cũng chưa thường xuyên cung cấp các thông tin cảnh báo về các mối nguy hại do sử dụng thực phẩm không đảm bảo chất lượng cũng như các thực phẩm, chất phụ gia, chất bảo quản,...bị cấm và hạn chế sử dụng để bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Thêm nữa, những người tiêu dùng cũng chưa nhận thức đúng hoặc có thái độ làm ngơ trước những hành vi vi phạm VSATTP. Một nghiên cứu đánh giá về nhận thức và thực hành VSATTP của các nhóm đối tượng trong một số làng nghề sản xuất thực phẩm truyền thống cho thấy, ở nhóm người quản lý: chỉ có 55,6% số người được phỏng vấn hiểu được về ngộ độc thực phẩm: 77,8% số người hiểu được tác nhân gây ô nhiễm thực phẩm: hơn 90% số người không nhớ được một văn bản quy phạm pháp luật về VSATTP. Ở nhóm người sản xuất, kinh doanh thực phẩm: có 82,4% số người chưa được qua tập huấn về VSATTP; còn 25-85% số người thực hiện không đúng các quy định VSATTP trong kinh doanh chế biến thực phẩm. Một nghiên cứu khác đánh giá về hiểu biết của cong nhân sản xuất nước giải khát ở Hà Nội cho thấy: năm 2000 có26.2% số công nhân biết về danh mục các chất phụ gia quy định trong chế biến thực phẩm; đến năm 2004, tỷ lệ này là 32,7%; chỉ có 39,7% số công nhân được đánh giá đạt về kiến thức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0066.doc
Tài liệu liên quan