Đề tài Quản lý nhà nước về Internet

- Tháng 5/2003, dịch vụ Internet băng thông rộng, gọi tắt là ADSL với nhà cung cấp đầu tiên là FPT, được chính thức tung ra thị trường cũng ngay từ buổi ban đầu dịch vụ này luôn trong tình trạng cung không đủ cầu. Các nhà cung cấp lắp đặt cáp tới đâu, khách hàng đăng ký tới đó. Có nhiều khu vực, dù chưa có cáp nhưng đã có khách hàng đăng ký “chờ”. Sau năm tháng triển khai, số khách thuê bao dịch vụ ADSL của VNPT và FPT đã đạt đến gần 20.000, và sau một năm, số khách thuê bao đã tăng lên đến 71.000.

Ban đầu, dịch vụ này chỉ được cung cấp cho người sử dụng tại Hà Nội và TP.HCM. Đến nay, ADSL đã phủ khắp 64 tỉnh thành, từ đô thị cho đến các vùng nông thôn với các nhà cung cấp VNPT, Viettel và EVN. Netnam, SPT và FPT chỉ triển khai dịch vụ tại Hà Nội và TP.HCM. Riêng FPT, trong năm 2007 đã bắt đầu mở rộng dịch vụ ADSL đến các tỉnh thành có số dân đông như Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương và Đồng Nai.

 

doc36 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4535 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về Internet, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên Internet và dịch vụ cung cấp các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet (OSP) là doanh nghiệp sử dụng Internet để cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet ngoài việc chấp hành các quy định của Nghị định này, phải tuân theo các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước chuyên ngành. 3.4 Băng thông Băng thông là độ rộng của một dải tần số điện từ, đại diện cho tốc độ truyền dữ liệu của một đường truyền, hay, chuyên môn một chút, là độ rộng (width) của một dải tần số mà các tính hiệu điện tử chiếm giữ trên một phương tiện truyền dẫn, đồng nghĩa với số lượng dữ liệu được truyền trên một đơn vị thời gian. Bandwidth cũng đồng nghĩa với độ phức tạp của dữ liệu đối với khả năng của hệ thống 3.5 Đại lý Internet, người sử dụng internet Đại lý Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam nhân danh doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng Internet để cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng Internet cho người sử dụng thông qua hợp đồng đại lý và hưởng thù lao có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ theo đúng các quy định về loại hình, chất lượng và giá, cước dịch vụ đã thoả thuận trong hợp đồng đại lý ký với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và thực hiện các quy định về quản lý dịch vụ Internet do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành. Người sử dụng dịch vụ Internet là tổ chức, cá nhân tại Việt Nam sử dụng dịch vụ Internet thông qua việc giao kết hợp đồng với đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet. . CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ INTERNET Quản lý, kiểm soát thông tin, dịch vụ và các hoạt động cung cấp dịch vụ internet Thực trạng Việt Nam chính thức có chính sách quản lý, kiểm soát và phát triển Internet từ 1997. Hiện nay, các chính sách quản lý Internet bao gồm: Nghị định số 55/2001-NĐ-CP (thay Nghị định 21-CP); Thông tư số 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, và dịch vụ kết nối; Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT Bộ Văn hoá Thông tin về quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet; Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA (A11) về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, sử dụng Internet tại VN Theo thống kê, hiện nay trên thế giới đã có hàng tỷ các website và số lượng các website đang tăng lên từng ngày. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT cho phép việc cung cấp thông tin lên Internet được "toàn cầu hóa" hoàn toàn. Bên cạnh những trang tin có nội dung tốt, là kho kiến thức vô tận cung cấp cho người dùng một cách hữu ích thì cũng có không ít các website có nội dung khiêu dâm, đồi truỵ, phản động, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Văn hoá Thông tin thì phải có đến hàng nghìn website loại này mà chủ yếu là các website của nước ngoài, trang web của một số Việt kiều xây dựng nhằm mục đích xấu. Thực trạng này đặt ra một nhiệm vụ nặng nề cho các nhà quản lý. Vào quý II/2002, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Thanh tra Bộ Văn hoá Thông tin đã có cuộc kiểm tra việc kinh doanh và sử dụng Internet tại 5 thành phố lớn (Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và Hải Phòng), kết quả 100% đại lý Internet công cộng có vi phạm. Sau đó, Bộ Văn hóa Thông tin đã nghiên cứu và ban hành được quy chế thiết lập và quản lý các trang thông tin điện tử. Việc quản lý quảng cáo trên Internet cũng được đưa vào Pháp lệnh Quảng cáo với quy định kiểm duyệt gắt gao. Tuy việc quản lý đã được tăng cường nhưng kết quả không mấy khả quan. Ông Phan An Sa, Chánh thanh tra Bộ Văn hoá Thông tin cho biết, các văn bản này chỉ mới có hiệu lực đối với các trang tin trong nước, còn đối với các trang tin nước ngoài có nội dung xấu thì không có cách gì để quản lý nổi. "Sự xuất hiện của các trang web độc hại ngày càng nhiều và tính chất nguy hại ngày càng nghiêm trọng", ông Sa nói. Hiện nay những thông tin xấu, độc hại trên Internet xuất hiện vô cùng nhiều và dưới mọi hình thức. Nếu như vài năm trước những người có trách nhiệm mới chỉ cảnh báo về những hình ảnh sex trên net thì đến nay những thông tin loại này đã được bổ sung thêm dưới nhiều dạng khác như truyện ngắn, thơ, ca nhạc, video... Số lượng các website loại này bằng tiếng Việt cũng tăng lên nhanh chóng.        Theo ông Sa, sự vi phạm của các trang tin trong nước cũng đáng kể trong khi đó các quy định xử phạt trong Nghị định 55/2001. Và Nghị định 31/2001 còn rất chung chung, chủ yếu là xử phạt hành chính.      Trước tình trạng đó nhà nước đã có những biện pháp quản lý thắt chặt như theo thông báo 99/TB-VPCP ngày 18/5/2004 của Văn phòng Chính phủ, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã yêu cầu các cơ quan hữu quan phải tăng cường quản lý nhằm ngăn chặn việc khai thác, truyền bá các thông tin xấu, độc hại trên mạng Internet. Trong đó, Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan chủ trì phối hợp với Bộ Bưu chính Viễn thông và Bộ Công an thường xuyên kiểm tra việc đưa thông tin và khai thác thông tin có nội dung xấu và không lành mạnh lên mạng Internet. Thực hiện nghiêm việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm; nghiên cứu để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền các chế tài và quy định quản lý cho phù hợp. Bên cạnh đó, Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan chủ trì xây dựng quy định cụ thể về tiêu chuẩn Tổng biên tập báo điện tử, làm việc với các cơ quan chủ quản để chấn chỉnh và củng cố đội ngũ Tổng biên tập báo điện tử. Đồng thời, Bộ Văn hoá Thông tin cũng chủ trì trong việc xây dựng đề án đào tạo cán bộ quản lý kỹ thuật và quản lý tin học cho các cơ quan báo chí. Theo một quan chức của Bộ Văn hoá Thông tin với tốc độ phát triển nhanh chóng của Internet thì việc quản lý nội dung trên Internet là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn đặt ra cho các cơ quan chức năng. Trước mắt, Bộ Văn hoá Thông tin đang trình Chính phủ ban hành bổ sung Nghị định 31/2001 về xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá thông tin, trong đó có những quy định cụ thể để xử phạt những vi phạm liên quan đến nội dung Internet. Quyết định 71/QĐ-BCA của Bộ Công an về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam có hiệu lực từ cuối tháng 1 năm 2004. Ngày 19/7/2004 Bộ Bưu chính Viễn thông tiếp tục ban hành chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý các đại lý Internet công cộng. Vậy nhưng cho đến nay vẫn có hàng ngàn trang web độc hại vượt qua sự kiểm soát của "bức tường lửa" và việc quản lý loại hình kinh doanh dịch vụ Internet công cộng vẫn rất phức tạp... Thành tựu Nhờ các biện pháp, chính sách kiểm soát thông tin và nguồn tài nguyên internet sẽ hạn chế ô nhiễm tài nguyên internet, hướng người sử dụng tới việc sủ dụng internet lành mạnh là công cụ đắc lưc phục vụ cho công việc và cuộc sống. Internet phát triển một cách nhanh chóng trên tát cả các phương diện. Theo công bố này, từ 2000 đến 2009, tỉ lệ tăng trưởng số lượng người sử dụng Internet tại Việt Nam là 10,882%. Tại khu vực thành thị có khoảng 50% dân số truy cập Internet (riêng Hà Nội là 60%), với thời gian trung bình đạt 2 giờ 20 phút/ngày. Trong đó, 90% người dân truy cập Internet để đọc tin tức, tìm kiếm thông tin... Theo kết quả nghiên cứu, số người sử dụng Internet để đọc tin tức trực tuyến đã tăng từ 89% năm 2008 lên 97% năm 2009. Đọc tin tức trực tuyến là hoạt động online phổ biến nhất trong tất cả nhóm tuổi và giới tính. Bảng số liệu về tình hình phát triển internet ở Việt Nam Số người sử dụng 25781898 Tỉ lệ số dân sử dụng Internet 29.98% Tổng băng thông kênh kết nối quốc tế của Việt Nam 116412 Mbps Tổng băng thông kênh kết nối ở Việt Nam 238131 Mpbs Tổng lưu lượng trao đổi qua trạm trung chuyển 62533727 gybts Tổng số tên miền .vn đã đăng ký 170245 Tổng số tên miền Tiếng Việt đã đăng ký 5359 Tổng số địa chỉ IPv4 đã cấp 12559360 đại chỉ Số lượng địa chỉ IPv6 qui đổi theo đơn vị /64 đã cấp 46360852480 /64 địa chỉ Tổng thuê bao băng rộng (xDSL) 3489453 2.1.3 Hạn chế Internet là một lĩnh vực mới ở Việt Nam và nó có tầm phủ sóng rất rộng vì vậy để quản lý và kiểm soát không phải là vấn đề đơn giản Đến nay vẫn có hàng ngàn trang web độc hại vượt qua sự kiểm soát của "bức tường lửa" và việc quản lý loại hình kinh doanh dịch vụ Internet công cộng vẫn rất phức tạp... Việc đưa thông tin và khai thác thông tin có nội dung xấu và không lành mạnh lên mạng Internet vẫn diễn ra mặc dù các cơ quan chức năng có vào cuộc cứng rắn đến mức nào. 2.2 Quản lý hệ thống các nhà cung cấp dịch vụ và các giao dịch thương mại liên quan. 2.2.1 Thực trạng - Ngày 19/11/1997, dịch vụ Internet chính thức có mặt tại Việt Nam. Lúc đó, nó được xem là dịch vụ cao cấp dành cho một nhóm cá nhân, tập thể thật sự có nhu cầu. Tuy nhiên chỉ sau hơn 10 năm có mặt tại Việt Nam internet đã trở nên vô cùng phổ biến. Tính đến tháng 9 năm 2010 cả nước có hơn 2.5781.898 người sử dụng internet. - Lúc đầu, khi Internet xuất hiện ở Việt Nam chỉ có một DN cung cấp hệ thống đường trục kết nối trong nước và quốc tế (IXP) là VNPT cùng bốn nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là VNPT, FPT, SPT và Netnam được phép kinh doanh dịch vụ này. - Năm 2002, để tạo động lực cạnh tranh, nhà nước không còn cho phép VNPT độc quyền khai thác hạ tầng kỹ thuật và cho phép thành lập các IXP khác. Quy định này đã làm thị trường Internet Việt Nam có sự đột phá mới. Giá cước ngày càng rẻ. Thủ tục ngày càng đơn giản. Từ một nhà IXP và bốn ISP thuở ban đầu, đến lúc đó, số lượng nhà kinh doanh dịch vụ Internet đang hoạt động thực tế trên thị trường gồm có bốn IXP và tám ISP. “Thời sơ khai” của Internet Việt Nam chỉ có các dịch vụ cơ bản: thư điện tử, truy cập cơ sở dữ liệu, truyền dữ liệu, truy nhập từ xa. Thì nay, các loại hình dịch vụ đã rất đa dạng và phong phú. - Năm 2003, với các quyết định cho giảm cước truy cập sử dụng Internet ngang với các quốc gia trong khu vực, thậm chí có khung cước còn rẻ hơn, đồng thời cho phép các DN tự mình áp dụng các chính sách quản lý và ấn định mức cước, số khách hàng thuê bao của các ISP tăng đột biến. VNPT tăng 258%, SPT - 255%, NetNam - 227%, Viettel - 184% và FPT - 174%. Tuy nhiên, đến nay chất lượng dịch vụ vẫn còn là nỗi khổ của khách hàng lẫn nhà cung cấp. Vấn đề chất lượng chỉ được “cải thiện” bằng thiện chí chăm sóc khách hàng của các ISP chứ chưa có một cuộc thay đổi toàn diện, mà điều dễ thấy nhất là ở tốc độ truy cập. - Tháng 5/2003, dịch vụ Internet băng thông rộng, gọi tắt là ADSL với nhà cung cấp đầu tiên là FPT, được chính thức tung ra thị trường cũng ngay từ buổi ban đầu dịch vụ này luôn trong tình trạng cung không đủ cầu. Các nhà cung cấp lắp đặt cáp tới đâu, khách hàng đăng ký tới đó. Có nhiều khu vực, dù chưa có cáp nhưng đã có khách hàng đăng ký “chờ”. Sau năm tháng triển khai, số khách thuê bao dịch vụ ADSL của VNPT và FPT đã đạt đến gần 20.000, và sau một năm, số khách thuê bao đã tăng lên đến 71.000. Ban đầu, dịch vụ này chỉ được cung cấp cho người sử dụng tại Hà Nội và TP.HCM. Đến nay, ADSL đã phủ khắp 64 tỉnh thành, từ đô thị cho đến các vùng nông thôn với các nhà cung cấp VNPT, Viettel và EVN. Netnam, SPT và FPT chỉ triển khai dịch vụ tại Hà Nội và TP.HCM. Riêng FPT, trong năm 2007 đã bắt đầu mở rộng dịch vụ ADSL đến các tỉnh thành có số dân đông như Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương và Đồng Nai. Chính nhờ công nghệ băng thông rộng ADSL ra đời mà dịch vụ nội dung trên môi trường mạng cũng phong phú hơn thuở ban đầu rất nhiều. Nhiều dịch vụ cao cấp hơn như VoIP, Wi-Fi, các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng (chat, trò chơi trực tuyến, blog...) ngày càng nhộn nhịp. Nhưng quan trọng hơn là khi băng thông lớn, tốc độ truy cập nhanh, Internet Việt Nam đã có sự phát triển đột biến. Bên cạnh các tờ báo điện tử lớn như VietNamNet, VnExpress,... các trang web thông tin của các báo, DN và cá nhân đều phát triển rất mạnh. Đây không chỉ là nơi cung cấp thông tin cho người đọc mà còn là nơi trao đổi kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của con người trong môi trường ảo. - Với vai trò điều phối, tháng 10/2003, Bộ Bưu chính-Viễn thông (nay là Bộ Thông tin-Truyền thông) đã tạo sự thống nhất giữa các IXP trong vấn đề kết nối Internet trong nước bằng việc thành lập hệ thống VNIX - hệ thống mạng trung chuyển lưu lượng Internet quốc gia. VNIX đã góp phần làm giảm sự quá tải, tăng băng thông Internet trong nước, tránh lãng phí thuê kênh Internet quốc tế. - Sau mười năm hoạt động, Internet Việt Nam đã có 16 ISP. Nhưng theo các cơ quan chức năng, chỉ có tám ISP thực sự có hàng hóa cung cấp cho thị trường, đó là VNPT, SPT, FPT, Viettel, EVN, Netnam... Để thu hút khách hàng, ngoài việc mở rộng địa bàn “phủ sóng”, các nhà cung cấp đã đưa ra nhiều dịch vụ mới như danh bạ, luyện thi trực tuyến, thông báo điểm tuyển sinh, diễn đàn trên mạng, truyền hình theo yêu cầu (Video on Demand - VOD), mở rộng hình thức kết nối không dây bằng việc tặng các hotspot cho các điểm du lịch, nhà hàng, khách sạn, trường học... như mô hình “thành phố Wi-Fi” do FPT Telecom xây dựng tại TP.HCM và Hà Nội. Tuy nhiên, theo đánh giá của Thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Lê Nam Thắng, độ phủ và sự phong phú của các dịch vụ giá trị gia tăng của các ISP hiện nay chỉ dựa vào hệ thống mạng điện thoại công cộng là chính, còn các phương thức khác như mạng cáp quang, vệ tinh VSAT IP... tuy có nhưng chưa phổ biến. Các ISP còn lại đang hoạt động yếu ớt hoặc chưa làm gì như Công ty Sản xuất-Kinh doanh-Xuất nhập khẩu Điện tử quận 10 (TIE), Công ty cổ phần Dịch vụ Một kết nối (OCI), Công ty Thông tin Điện tử Hàng hải, Công ty Điện tử Tin học Hóa chất (Elinco), Công ty Thanh Tâm… Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng trên mạng ( OSP ) đều là các ISP, đây cũng là điều dễ hiểu khi ta nhìn vào mục đích kinh doanh và thế mạnh của các ISP. - Theo số liệu thống kê từ Trung Tâm Inernet Việt Nam thì tính đến hết ngày 27/9/2010, cả nước có trên 87 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet. Trong đó thị phần của một số doanh nghiệp lớn như sau: Thị phần các ISP tại VN (Nguồn: Trung Tâm Internet Việt Nam-VNNIC-tháng 9/2010 ) Đơn vị Tổng số thuê bao quy đổỉ    Thị phần (%) Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (HPT)  643  0,01 Tổng công ty Viễn thông Quân đội (VIETTEL)  810638  16,49 Công ty cổ phần dịch vụ Một kết nối (OCI)  130309  2,65 Công ty cổ phần dịch vụ BC-VT Sài Gòn 203540 4,14  Công ty NETNAM - Viện CNTT (NETNAM) 78345 1,59    Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT)  910791  18,53   Tập đoàn Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (VNPT) 2532108  51.52 Công ty SAXKD XNK điện tử Q.10 (TIE) 1035 0,02 Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực (EVN) 247057 5,02 ( ISP =Internet Service Provider - là nhà cung cấp dịch vụ Internet chuyên cung cấp các giải pháp kết nối Internet cho các đơn vị tổ chức hay các cá nhân người dùng ). Hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam: Sự phát triển của thương mại điện tử (TMĐT) trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Với Việt Nam, TMĐT tuy còn khá mới mẻ, nhưng đã hé mở nhiều triển vọng sáng sủa, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới cuối năm 2006. Tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam     Ngày 19/11/1997 là ngày đầu tiên đánh dấu sự hoạt động của Internet tại Việt nam. Đến nay, cả nước có 4,3 triệu thuê bao Internet quy đổi, đáp ứng nhu cầu của 15,5 triệu dân, đạt mật độ 18,64 người/100 dân, cao hơn bình quân khu vực ASEAN và thế giới; vượt xa Thái Lan (15,65%), Trung Quốc (9,41%), Philippinnes (9,12%),... Nguyên Bộ trưởng Bộ BCVT Đỗ Trung Tá đã phát biểu tại Lễ kỷ niệm 10 năm Internet Việt Nam rằng “đến năm 2020, mức độ sử dụng Internet của Việt Nam sẽ đạt trình độ của các nước phát triển”.     Với tốc độ tăng trưởng tỷ lệ người sử dụng Internet là 123,4%/năm (cao nhất trong khu vực ASEAN), đạt 1,9 triệu thuê bao Internet và gần 5,9 triệu người trong năm 2004, Việt Nam là quốc gia được đánh giá là có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển TMĐT. Theo dự báo về mức tăng trưởng thị trường CNTT Việt Nam của IDG, trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2008, mức chi cho CNTT của Việt Nam nằm trong tốp 10 nước đứng đầu thế giới và sẽ vượt qua Trung Quốc với tỷ lệ tăng trưởng đạt 16%. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia rất nhanh nhạy với mô hình kinh doanh trực tuyến.     Tuy nhiên, hoạt động TMĐT ở Việt Nam vẫn còn chưa được như mong muốn. Hầu hết các website B2B chưa có định hướng hoạt động rõ ràng, mà chúng ta chủ yếu mới chỉ dừng lại ở giai đoạn thiết lập và thử nghiệm, giá trị giao dịch thực tế còn chưa cao. Loại giao dịch B2B chưa thật sự hình thành ở Việt Nam, mới chỉ dừng lại ở mức tìm thông tin thị trường, bán hàng qua thư điện tử và các website TMĐT. Các hệ thống mua bán trực tuyến giữa các doanh nghiệp lớn với nhau hầu như chưa tồn tại. Các công ty nói chung khá nhanh nhạy trong việc áp dụng TMĐT, nhưng còn không ít các công ty đến với hình thức này theo kiểu “phong trào”, chưa kể số lượng các website cung cấp dịch vụ TMĐT quy mô lớn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Trong khi đó, việc mua bán trực tuyến B2C và C2C tại Việt Nam chưa phổ biến và cũng chưa có doanh nghiệp nào cung cấp hoàn chỉnh các công đoạn của một chu trình mua bán trực tuyến     Số liệu thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam cho thấy, hiện tại có 15 triệu người Việt Nam sử dụng Internet và trong 3 năm tới số người sử dụng Internet ở Việt Nam khoảng 30 triệu người. Thị trường rộng lớn đó cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Công Thương lần gần đây nhất với 1.000 doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp có website chiếm 20-25%, nhưng tính năng TMĐT trong các website này còn mờ nhạt. Chức năng website chủ yếu là giới thiệu về công ty, chiếm 93,8%, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ chiếm 62,5%, trong khi tính năng giao dịch TMĐT cho phép đặt hàng chỉ chiếm 27,4%,  hoạt động thanh toán trực tuyến chỉ có 3,2%.     Hoạt động TMĐT mới chỉ manh nha ở các doanh nghiệp lớn, đại đa số các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam vẫn đang nằm ngoài guồng quay của phương thức kinh doanh hiện đại này. Theo ông Miguel Pardo de Zela – Tham tán thương mại, Đại sứ quán Mỹ: “TMĐT là tạo ra, thực hiện các giao dịch buôn bán qua Internet chứ không phải tạo ra những điều kiện để mua bán trên Internet. Mạng Internet được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau, tạo ra các điều kiện mua bán. Tuy nhiên ở Việt Nam điều này mới đang ở bước khởi đầu. Có rất ít lĩnh vực mà người ta có thể thực sự thực hiện việc mua bán trên Internet”. Một hệ thống bán hàng trực tuyến hoàn chỉnh phải đảm bảo yêu cầu: thay vì đến cơ sở của người bán, người mua có thể thực hiện tất cả các công đoạn của việc mua hàng chỉ thông qua Internet. Nghĩa là người mua có thể thực hiện việc xem hàng, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng, thụ hưởng các dịch vụ sau bán hàng thông qua mạng Internet. TMĐT ở Việt Nam hiện nay thực chất chỉ gồm việc thiết lập một “showroom trên mạng” để giới thiệu về doanh nghiệp và trưng bày các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa, dịch vụ. Một số website thiết lập cơ chế để người tiêu dùng có thể đặt hàng thông qua email hoặc gọi điện thoại đến nhà cung cấp. Sau đó nhà cung cấp sẽ vận chuyển hàng hóa đến tận tay người mua hàng và sẽ tiến hành thanh toán. Nhưng việc mua bán hiện nay chỉ thể hiện ở giai đoạn xem hàng và đặt hàng, còn các công đoạn khác vẫn tiến hành theo cách thức thương mại truyền thống.     Trong bối cảnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, TMĐT là công cụ thiết yếu trong việc giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng như đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực và tốc độ tham gia thị trường chung. Vì vậy, việc xác định những chính sách, giải pháp, điều kiện cần thiết cho phát triển TMĐT, tìm ra những mô hình thích hợp cho TMĐT tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết. Hơn nữa, việc nâng cao nhận thức của xã hội, khuyến khích ứng dụng và tăng cường hợp tác giữa khu vực này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung. Ông Lê Xuân Vũ - Giám đốc Trung tâm Ứng dụng & Phát triển Sản phẩm Dịch vụ - Công nghệ Techcombank cho biết: “Các ngân hàng đã nhận thức rất rõ vai trò và xu thế phát triển TMĐT. Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu của khách hàng và cộng đồng nhà cung ứng đã bắt buộc các ngân hàng phải nhập cuộc. Phương thức kinh doanh truyền thống sẽ giảm dần, thay vào đó là phương thức kinh doanh mới dựa trên nền tảng công nghệ giúp chúng ta đưa ra nhiều sản phẩm đến khách hàng hơn một cách thuận tiện hơn. Vì thế, tận dụng những thế mạnh công nghệ để giảm chi phí hoạt động là xu thế tất yếu”.     Trước nhu cầu và sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT đòi hỏi có một cơ quan thống nhất quản lý về hoạt động này, Vụ Thương mại Điện tử trực thuộc Bộ Công thương đã được thành lập với chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực TMĐT, tổ chức ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương mại. Trong thời gian qua, Bộ Công thương đã tích cực chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu, xây dựng các chiến lược, kế hoạch, dự án phát triển, cơ chế, chính sách và văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn về TMĐT. Bộ đã có nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng TMĐT, trong đó có việc đưa hoạt động Cổng Thương mại Điện tử Quốc gia www.ecvn.gov.vn. Bộ Công thương đã phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về TMĐT. Bên cạnh đó, Bộ Công thương (Vụ Thương mại Điện tử) cũng là cơ quan đầu mối trong các hướng dẫn hợp tác quốc tế về TMĐT. 2.2.2 Thành tựu Đa số người Việt Nam truy cập Internet để đọc tin tức. Ảnh: Hoàng Huy Phát triển thuong mại điện tử, từ đó dẫn đến thu hẹp khoảng cách với thế giới. trao đổi buôn bán giữa các quốc gia khác nhau sẽ không con gì trỏ ngại, bằng một cú click đơn gian , bạn có thể thực hiện trao đổi buôn bán dễ dang. Các thông tin sự kiện trên thế giới sẽ không còn xa lại Nhờ hoạt động thương mại điện tử hình thức bán hàng trực tuyến sẽ phát triển nhanh chóng. Tiết kiệm thoiừ gian và nhiều chi phí khác… 2.2.3 Hạn chế Hệ thống quy phạm pháp luật và luật pháp, cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn tiêu chuẩn về các giao dịch trong hoạt động dịch vụ internet còn chưa đầy đủ Trong hoàn cnảh phát triển nhanh chóng của internet đặc biệt là thương mại điện tử thì luật pháp chưa hoàn thiện sẽ là một rào cản lớn Quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dịch vụ Internet 2.3.1 Thực trạng quản lý Một trong những thứ tuyệt vời nhất về Internet là không ai thực sự sở hữu được nó. Nó là một tập hợp (collection) các mạng mang tính toàn cầu, cả lớn và nhỏ. Các mạng này ra còn nhiều doanh nghiệp cung cấp internet không có hạ tầng. Tuy nhiên có thể nói chất lượng dịch vụ của các nhà cung cấp hiện tại chưa thực sự đáp ứng được các nhu cầu đa kết nối với nhau theo nhiều cách khác nhau để tạo thành một thực thể đơn nhất, cái mà chúng ta vẫn được biết đến với tên gọi Internet. Trong thực tế, tên này được xuất phát từ ý tưởng của các mạng kết nối chéo (interconnectednetworks), được lấy từ hai chữ này mà ra. Chính phủ và bộ TT&TT rất quan tâm đến cơ sở hạ tầng mạng có nhiều chính sách phát triển cơ sở hạ tầng mạng. Như chính sách quản lý và phát triển internet, nghị định của chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng internet và thông tin trên điện tử trên internet,đặc biệt là Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt đề án”Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông”. Nhà nước đã đua ra các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển hạ tầng mạng ngày càng hiện đại. Như: + Chính sách về đầu tư: Ban hành các chính sách ưu đãi cao về đầu tư với các dự án phát triển hạ tầng viễn thông băng thông rộng,các dự án phát triển khu công nghệ thông tin tập trung.... Phát triển mạng internet có độ an toàn, tin cậy cao, kết nối nhiều hướng trên cơ sở kết hợp các tuyến cáp quang biển, tuyến cáp quang trên đất liền và hệ thống thông tin vệ tinh, đáp ứng nhu cầu cung cấp các dịch vụ băng rộng. Phát triển mạng cáp quang đến tất cả các huyện trong cả nước. Đối với những khu vực quan trọng, hình thành các mạng cáp quang có cấu trúc mạch vòng để tăng cường an toàn thông tin Bảo đảm tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền cấp tỉnh và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện rộng của Chính phủ; 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trung học phổ thông có kết nối để truy nhập Internet băng rộng; trên 90% các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet Phát triển các mạng thông tin dùng riêng hiện đại, phù hợp với sự phát triển của mạng công cộng quốc gia; vừa đáp ứng nhu cầu thông tin riêng của các ngành, vừa sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng thông tin của mạng công cộng đã xây dựng Ưu tiên phát triển mạng thông tin dùng riêng hiện đại phục vụ Đảng, Chính phủ, quốc phòng, an ninh; đảm bảo chất lượng phục vụ, yêu cầu bảo mật và an toàn thông tin. + Chính sách về tà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý nhà nước về internet.doc