Đề tài Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất khẩu ở Việt Nam

I. Cơ sở lý luận 3

1.Khái niệm. và một số đặc điểm của quản lý nước về thương mại nhà 3

2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại 3

3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại 7

II.Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất khẩu ở Việt Nam 9

2.1.Thị trường XK gạo của Việt Nam Những năm qua (từ 1989 đến nay) 9

2.1.1.Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam 9

2.1.1.1 Kim ngạch xuất khẩu gạo qua các năm 9

2.1.1.2. Số lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm gạo xuất khẩu 12

2.1.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam 15

2.1.1.4. Giá cả và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam 17

2.1.2. Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong xuất khẩu gạo 19

2.2.Các chính sách xuất nhập khẩu 21

2.2.1 Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước (quy hoạch, đầu tư.) 21

2. 2. 2. Các chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu 24

III.Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo 27

3.1.Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo 27

3.1.1.Cơ chế mới 27

3.1.2.Định hướng mục tiêu xuất khẩu gạo 27

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo 28

3.2.1.Về phía chính phủ28

3.2.1.1.Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu 28

3.2.1.2.Các giải pháp về luật pháp, chính sách 29

3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư 31

3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường 34

3.2.2. Về phía doanh nghiệp 37

3.2.2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả xuất khẩu 37

3.2.2.2. Nâng cao giá xuất khẩu 38

3.2.2.3. Mở rộng phân phối thị trường 40

3.2.2.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu và hỗ trợ kinh doanh 44

3.2.2.5. Áp dụng các tiến bộ công nghệ, kỹ thuật 46

3.2.2.6. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực 47

Kết Luận

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5939 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành theo quy luật cung-cầu dễ dẫn đến sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động xuất khẩu gạo nói riêng. Chúng ta đều biết không phải lúc nào quan hệ cung cầu cũng vận hành theo quy luật thực tế của thị trường, đôi khi nó lại tác động xấu đến nền kinh tế. Lúc này cần có tác động kịp thời của con người, cụ thể Nhà nước, vào nền kinh tế nhằm mục đích hướng nó có lợi cho nền kinh tế. Trong những năm gần đây xảy ra tình trạng mất cân đối trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Nguyên nhân do thiếu sự chỉ dẫn, và quy hoạch cụ thể từ Trung ương đến địa phương, cứ mạnh ai nấy làm. Lúc này Nhà nước cần có những quy hoạch tổng thể để hướng dẫn nông dân căn cứ vào điều kiện về đất đai, khí hậu, và thời vụ nên phát triển giống cây nào là phù hợp nhằm phát huy tối đa lợi thế của từng vùng. Chẳng hạn, đối với các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương nên phát triển giống lúa thơm đặc sản, giảm giống lúa đại trà, trong khi các vùng khác lại phát triển những giống lúa lai đại trà sẽ cho năng suất và chất lượng cao hơn. Bằng cách này, chúng ta sẽ nâng dần tỷ trọng xuất khẩu loại gạo thơm đặc sản, mà vẫn không giảm những chủng loại gạo khác, đa dạng hoá xuất khẩu gạo hiện nay. Ngoài ra, cứ sắp đến vụ sản xuất mới hay vào dịp cuối năm, người nông dân đa số cần tiền để mua sắm, lúc này số lượng lúa gạo bán ra rất lớn, dẫn đến cung vượt cầu. Đây là cơ hội tốt để bọn tư thương chèn ép giá người nông dân càng nhiều càng tốt, gây thiệt hại lớn cho họ - những người một nắng hai sương làm ra hạt thóc để rồi bị tư thương bắt chẹn mà không biết kêu ai. Trong trường hợp này, Nhà nước có thể bỏ tiền ra để mua tạm trữ cho xuất khẩu khi giá cả tăng lên nhằm ổn định giá cả tránh thua lỗ quá lớn cho người nông dân. Hoặc cho người nông dân vay vốn với. Thực tế cho thấy nếu Nhà nước càng đầu tư lớn vào lĩnh vực này thì hiệu quả xuất khẩu càng cao. Vì với sự cải tiến giống mới sẽ cho năng suất cao, phòng chống sâu bệnh, tăng chất lượng gạo xuất khẩu. Ví dụ, giai đoạn 1991 - 1995, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công nhận 44 giống mới và cho áp dụng vào canh tác trên diện tích 440.000 ha. Do năng suất tăng tối thiểu 0,50 tạ/ha, nên tổng sản lượng tăng là 220.000 tấn, với giá thóc 1.500 đồng/kg, giá trị do sản lượng lúa mang lại là 1,5 triệu x 220.000 = 330.000 triệu đồng trong khi kinh phí đầu tư cho chương trình tạo giống lúa hàng năm chỉ khoảng 1 tỷ đồng. Hơn nữa, Nhà nước có thể đầu tư đồng bộ từ khâu sản xuất - thu hoạch - chế biến - vận chuyển – bảo quản, vừa nâng cao chất lượng gạo vừa tránh tình trạng “tổn thất trong nhà” như hiện nay, tăng về lãi suất thấp để họ kịp tiến hành sản xuất vụ mới. Như vậy, cả người nông dân cũng có lợi và Nhà nước cũng góp phần nâng cao đời sống của người dân, giúp xoá đói giảm nghèo. Hoặc sự quan tâm đầu tư của Nhà nước vào khoa học kỹ thuật, đặc biệt khâu lai tạo giống mớimặt sản lượng. Theo kết quả điều tra của Viện Công nghệ sau thu hoạch và Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tổn thất bình quân sau thu hoạch lúa của Việt Nam như sau: - Khâu thu hoạch: 1,2 - 1,7% - Khâu vận chuyển: 1,2 - 1,5% - Khâu đập (tuốt): 1,4 – 1,8% - Khâu phơi (sấy): 1,9 – 21,% - Khâu bảo quản: 3,2 –3,9% - Khâu xay xát chế biến: 4,1 – 5,0% - Tổng số: 13,0 – 16,0% Mức tổn thất trong 3 khâu phơi, bảo quản, và xay xát chế biến chiếm 68 – 70%, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chiếm 3,9 – 5,6%. Như vậy, khi giảm được 30% tổn thất sau thu hoạch, chúng ta có thể tận thu thêm được một lượng thóc đáng kể, lên tới 850.000 tấn và tương đương với 135.000 ha canh tác lúa. Đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng như cảng biển, hệ thống thông tin...phục vụ hoạt động xuất khẩu nhằm giảm chi phí vận chuyển, chi phí lưu thông gạo, góp phần hạ giá thành xuất khẩu. Về cảng xuất khẩu yêu cầu cơ bản là phải có cảng chuyên dùng cho hoạt động xuất khẩu gạo với trang thiết bị hiện đại, có thể bốc xếp cả hàng rời và hàng đóng bao, năng lực bốc dỡ cao (từ 2000 tấn/ngày trở lên); khả năng tiếp nhận tàu lớn (tải trọng từ 20.000 – 30.000 tấn); và phải có hệ thống trung chuyển quy mô lớn, kỹ thuật bảo quản hiện đại và đóng gói ngay tại kho cảng trước khi giao hàng lên tàu. Trên thực tế, chúng ta chưa có cảng chuyên dùng xuất khẩu gạo. Các năm qua, phần lớn gạo xuất khẩu (khoảng 80%) đều thông qua cảng Sài Gòn, một cảng xuất nhập hàng hoá tổng hợp, có năng lực thông quan hàng hoá hiện nay của cảng hơn 7,3 triệu tấn/năm. Trong đó riêng mặt hàng gạo xuất khẩu chiếm hơn 30%. Tuy nhiên, năng suất bốc xếp gạo của cảng chỉ đạt bình quân 800 – 1000 tấn/ngày. Trong vòng 3 năm lại đây, Ngành Giao thông Vận tải cũng đã cố gắng rất nhiều để đưa thêm cảng Cần Thơ vào hoạt động xuất khẩu gạo, nhưng khả năng của cảng Cần Thơ chỉ tiếp nhận an toàn các tàu tải trọng từ 3000 – 5000 tấn (đối với tàu cỡ 10.000 tấn cập cảng không an toàn). Điều này chưa phù hợp với tính hiệu quả trong vận tải hàng hải, nên cảng này mới đang trong giai đoạn thử nghiệm. Dự kiến trong vòng 10 - 20 năm tới, cảng Sài Gòn vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Do vậy nếu giải quyết tốt các hoạt động phụ trợ nêu trên sẽ góp phần nâng cao đáng kể giá bán sản phẩm. Qua đó nâng cao hiệu quả và thu nhập ngoại tệ trong kinh doanh xuất khẩu gạo. 2. 2. 2. Các chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu Trong số các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu sản phẩm gạo của Việt Nam trong thời gian tới không thể không kể đến các chính sách nhập khẩu của những nước nhập khẩu gạo bởi chỉ một sự thay đổi nhỏ về chính sách nhập khẩu của họ lập tức tác động tới thị trường gạo thế giới như quan hệ cung cầu, giá cả...Chẳng hạn, năm 1999 bốn nước nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới là Indonesia, philippin, Bangladesh và Brazil có chính sách giảm nhập khẩu gạo trong năm. Điều này đã ảnh hưởng chung đến thị trường gạo thế giới, cụ thể giá gạo giảm, khối lượng gạo giao dịch thế giới cũng giảm (từ 27,3 triệu tấn năm 1998 xuống 25,1 triệu tấn năm 1999), và đương nhiên cũng tác động không nhỏ đến tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam (kim ngạch xuất khẩu năm 1999 so với năm 1998 chỉ tăng 1,01% trong khi năm 1998 so với năm 1997 là 13,98%). Dưới đây sẽ đề cập đến chính sách nhập khẩu của một số nước chủ yếu trong thời gian tới. Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và thực hiện trong 6 năm (1995 – 2000). Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong 10 năm (1995 – 2004). Một vài nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, và Ixaren có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy cảm được áp dụng ngoại lệ, đặc biệt khi thuế hoá các biện pháp phi thuế quan, ngược lại họ có nghĩa vụ đẩy mạnh mức độ mở cửa thị trường cho hàng nông sản nhập khẩu. Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị trường tối thiểu không thấp hơn trung bình của thời kỳ 1986 – 1990 và không đưa ra thêm hàng rào phi thuế quan. Thuế quan cắt giảm trung bình cho tất cả sản phẩm nông nghiệp là 24% và tối thiểu cho từng sản phẩm là 10% ở nước đang phát triển (chủ yếu là các thành viên trong WTO) trong vòng 10 năm tới (1995 – 2004). Trung Quốc là nước rất đáng được nói đến vì Trung Quốc vừa là nước xuất vừa là nước nhập khẩu gạo. Đặc biệt sau khi Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO thì trong chính sách nhập khẩu cũng có những sự thay đổi. Về gạo, năm 2002 Trung Quốc nhập khẩu 1,1 triệu tấn gạo. Đây là một phần trong cam kết mở cửa nhập khẩu 4 triệu tấn gạo với thuế suất 1% của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO. Hạn ngạch thuế quan bắt đầu là 2,6 triệu tấn và năm 2005 tăng lên 5,3 triệu tấn và bỏ vào năm 2006. Một nửa dành cho hạt ngắn và vừa - loại gạo Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh nhất. Trung Quốc cam kết trước tiên dành 50% cho khu vực tư nhân. Trung Quốc cam kết sẽ loại bỏ và không đưa ra, không đưa lại, không áp dụng các biện pháp phi thuế quan khác với những biện pháp thông thường. Trung Quốc cũng cam kết chỉ áp dụng những biện pháp phi thuế quan ở mức quốc gia và địa phương do chính quyền Trung ương cho phép mới được áp dụng.... Hạn ngạch sẽ tăng từ mức thương mại hiện thời với tốc độ 15% một năm để đảm bảo mức tiếp cận thị trường được tăng dần và ảnh hưởng của các biện pháp hạn chế số lượng sẽ giảm dần. Hạn ngạch đối với gạo, lúa mỳ và ngô...sẽ được loại bỏ vào năm 2006. Thuế quan nhập khẩu của Nga trong những năm gần đây đã tăng lên và hiện là 13,3%. Các quốc gia buôn bán với Nga đều kêu ca rằng hệ thống thuế quan của nước này không ổn định, thay đổi liên tục và hạn mức chênh nhau quá nhiều. Tuy nhiên, những vấn đề đó đã được cải thiện bằng Nghị định Chính phủ số 1347, tháng 9/1997, quy định rằng: (a) Thời hạn thay đổi thuế quan tối đa là 6 tháng (b) Sự thay đổi đó chỉ có hiệu lực sau 180 ngày kể từ ngày thông báo và (c) Mức thay đổi đó không được vượt quá 10%. Nghị định này đã làm tăng tính ổn định và minh bạch của hệ thống thuế quan của Nga theo yêu cầu của WTO. Người ta cũng ca kêu nhiều về những yêu cầu giấy phép nhập khẩu gần đây của Nga, về những bất hợp lý trong thủ tục hải quan như thay đổi nhưng không được thông báo, mỗi nơi có một cách làm riêng. Mặt khác, Nga còn bị chỉ trích bởi những rào cản thâm nhập thị trường như việc quy định các tiêu chuẩn, kiểm tra nhãn hiệu và giấy chứng nhận. III.Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo 3.1.Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo 3.1.1.Cơ chế mới - Chính phủ quyết định chính thức bãi bỏ cơ chế giao hạn ngạch xuất khẩu gạo và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản. - Những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường có sự thoả thuận của Chính phủ ta với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ), sau khi trao đổi với Hiệp hội lương thực Việt nam được giao cho Bộ Thương mại chỉ định và chỉ đạo doanh nghiệp làm đại diện giao dịch, kí kết hợp đồng. - Việc xuất khẩu theo kế hoạch, trả nợ, viện trợ của Chính phủ, thực hiện theo cơ chế đấu thầu hoặc quyết định riêng của Thủ tướng chính phủ. - Để đảm bảo lợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị trường trong nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông lúa gạo và phân bón khi thị trường trong ngoài nước có biến động, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp can thiệp có hiệu quả vào thị trường lúa gạo. Quy định trên của Thủ tướng Chính phủ đã mở rộng hướng đi cho các nhà xuất khẩu. Không còn các đầu mối nên mọi thành phần kinh tế đều có thể tự do ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài sau khi đã đăng ký kinh doanh. Cơ chế mới đã thông thoáng hơn rất nhiều so với cơ chế ban hành trước đây song cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi một sự quản lý chặt chẽ, thường xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá của các doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường và thu lợi cao nhất. 3.1.2.Định hướng mục tiêu xuất khẩu gạo Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bước sang thế kỷ mới với những cơ hội và thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục tiêu đặt ra với sản xuất gạo, tăng lượng gạo xuất khẩu, mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu. Thực chất mục tiêu này hướng vào tăng số lượng, cải thiện chất lượng có nghĩa là tăng tổng kim ngạch gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trường cũng được các nhà hoạch định chiến lược coi trọng vì thị trường là cái đích mà các nhà xuất khẩu hướng đến. Ba mục tiêu trên được tiến hành song song đảm bảo cho gạo sản xuất ra có thể xuất khẩu tạo thành một quá trình thông suốt đồng thời phù hợp với các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn mới. Cũng như trong sản xuất lúa gạo, trong xuất khẩu để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra cần có các định hướng. Cụ thể là: - Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao xuất khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường thế giới. - Thứ hai: đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào những thị trường tương đối ổn định về số lượng và chất lượng. - Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo 3.2.1.Về phía chính phủ 3.2.1.1.Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước và Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng, chưa thiết lập được hệ thống thị trường, bạn hàng lớn ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua, tranh bán ở thị trường nước ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thì vấn đề đặt ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo. - Thứ nhất: đối với một số hợp đồng nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp Chính phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp tham gia đấu thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các trường hợp doanh nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích của quốc gia thì nên có các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại. - Thứ hai: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu gạo bằng cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thương mại được giấu dưới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác nhằm mục đích kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới. - Thứ ba: tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất khẩu gạo để hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo điều kiện nâng cao trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nước điều tiết các hoạt động này. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát được tình hình quản lý xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đoạn mới. Thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất. 3.2.1.2.Các giải pháp về luật pháp, chính sách Để hướng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tương lai gần, chúng ta cần có một hệ thống luật pháp với các quy định được ban hành cụ thể rõ ràng tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh với khả năng cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là: - Thứ nhất: thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như xin giấy phép xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế... cần được cải cách triệt để, tránh phiền hà sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động và các bước đi của các doanh nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các hiện tượng tiêu cực khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương tới địa phương, nâng cao chất lượng làm việc trong các cơ quan nhà nước, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh công tác trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ công chức hành chính Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như đạo đức và trách nhiệm trong công việc. - Thứ hai: hướng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh tình trạng bị giá quy định quá cao hoặc quá thấp. - Thứ ba: tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích nhất. Hiện nay, Nhà nước đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu qua quyết định số 133/TTG của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động cho vay vốn lưu động, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... của Quỹ về mặt nghiệp vụ giống như các Ngân hàng thương mại nhưng với lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi (lãi cho vay vốn lưu động bằng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển) trong thời gian 720 ngày. Gạo xuất khẩu là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trường hợp xuất sang thị trường mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dưới hai hình thức là cho vay trước khi giao hàng và cho vay sau khi giao hàng. Đối với cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất khẩu với mức vay không quá 80% giá trị L/C hoặc không quá 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng được thực hiện sau khi đơn vị đã có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay tối đa bằng 90% trị giá. Để cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế chấp trị giá tối thiểu 30% số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu hợp lệ, đơn vị phải xuất trình hối phiếu kèm theo bộ chứng từ hàng xuất. Trên tổng thể, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. - Thứ tư: Nhà nước cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lương thực đảm bảo bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn sốt lương thực trên thị trường. Khi trong nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực thì có thể cho rằng xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta chấp nhận giá gạo trong nước tăng lên một chút để khuyến khích sản xuất lúa gạo, giảm bớt được phần nào chênh lệch giữa thu nhập của nông dân và thành thị vì chi tiêu về lương thực chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi tiêu đời sống hàng ngày của dân thành thị. Trong tương lai không xa, chúng ta có thể bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu ngân sách nhưng vẫn cản trở thương mại tự do. - Thứ năm: Nhà nước tích cực áp dụng các quy chế thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến khích những thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của Quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể được khen thưởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở thêm thị trường mới có hiệu quả với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước là 20% và mức tăng trưởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên (tiêu chuẩn 5.2); mặt hàng gạo xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế (tiêu chuẩn 5.3). Đây là những tiêu chuẩn khá cao, để đạt được cần sự nỗ lực của doanh nghiệp. Việc tổ chức khen thưởng hàng năm được thực hiện một cách công khai, công bằng và đúng với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban hành. Việc lấy ý kiến của công luận trên các phương tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan hải quan của hội đồng xét thưởng khi kiểm tra hồ sơ phải đảm bảo không để xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn chưa hiểu đúng, thậm chí chưa biết những nội dung cơ bản trong Quy chế do việc hướng dẫn thông tin còn chưa thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chế thưởng xuất khẩu thời gian tới vẫn cần có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy mạnh mẽ hơn nữa, tác dụng động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế mới về xuất nhập khẩu gạo đã có sự thay đổi. Nhìn chung, Nhà nước nên nhất quán chính sách, có biện pháp khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới của doanh nghiệp Việt Nam. 3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư Cũng như tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu tư thoả mãn, hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần được đầu tư xứng đáng với vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế hiện nay của đất nước ta. Để tăng cường đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới, Nhà nước cần tập trung đầu tư trong các lĩnh vực sau: - Thứ nhất, đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải được trang bị hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trường môi sinh, đảm bảo cho sức cạnh tranh của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần được chú trọng nhất ở các khâu sản xuất, chế biến bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công suất cao, cải tiến hệ thống điện nước, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chất lượng gạo. - Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các nhà khoa học, kỹ sư nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là những người quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nước ta nên cần có chính sách đầu tư một cách hợp lý đội ngũ này về cả chất lượng và số lượng. Nhà nước cũng cần hỗ trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp để có được những cán bộ có trình độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của mình vận dụng trong nghiên cứu khoa học, cung cấp thường xuyên cho họ những sách báo, tạp chí khoa học, những thông tin cập nhật về các thành tựu khoa học mới ở trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho họ nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền sản xuất lúa gạo của các nước có kỹ thuật tiên tiến. Với người nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về kỹ thuật, kinh tế, tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp huyện, xã cần tổ chức giới thiệu giông lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng lúa mà coi nhẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất khẩu có chất lượng cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém. Hỗ trợ vốn dưới hình thức tín dụng sẽ bắt người nông dân phải hoàn lại vốn dưới hình thức lãi suất ưu đãi nên buộc họ phải năng động sáng tạo, tìm cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như khi hỗ trợ cho họ dưới hình thức trợ cấp. - Thứ ba, đầu tư vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng như tất cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trong đó cần đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học gắn với nghiên cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và sử dụng được những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại về giống, phân bón, thuốc trừ sâu... nhằm có được những sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan, Mỹ... trên thị trường thế giới. Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên cứu khoa học để phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nước khác. Nhà nước cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trường đại học, đồng thời huy động mọi lực lượng khác tham gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trường... Mặt khác, Nhà nước cần khuyến khích đầu tư xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu - thực nghiệm triển khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất ở các khu vực sản xuất. - Thứ tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục vụ xuất khẩu gạo. * Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của nước ta hiện nay. Gạo được thu mua và xuất sang nước ngoài qua các cảng khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này nói riêng và cả nước nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí vận chuyển gạo của nước ta bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thường do khách hàng trả vì giá gạo tính theo giá FOB nhưng lại bị trừ trong giá sản phẩm nên người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo xuất khẩu thường tập trung về Tp.HCM, nơi diễn ra hoạt động xuất, nhập của rất nhiều loại hàng nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn đề đặt ra cần tạo sự thông suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng Sài Gòn là cảng quan trọng nhất nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho bãi, phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời gian và tiến độ. Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu tư, xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp dàn trải, tránh tập trung vào một cảng như hiện nay. Cần có những sửa chữa, nâng cấp để biến một số cảng như Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ... thành những cảng có chất lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu. Đặc biệt là cảng Cần Thơ, một cảng khẩu có vị trí chiến lược, nếu được đầu tư xây dựng sẽ tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý nhà nước về thương mại đối với mặt hàng gạo xuất khẩu ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan