Đề tài Quản trị rủi ro ở các ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

Danh mục các thuật ngữ viết tắt

Danh mục bảng

Danh mục hình

Danh mục phụ lục

PHẦN MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN

HÀNG THưƠNG MẠI . 2

1.1 Tổng quan về rủi ro và quản trị rủi ro . 2

1.1.1 Khái niệm rủi ro . 2

1.1.2 Phân biệt rủi ro . 3

1.1.3 Các loại rủi ro thường gặp ở các ngân hàng thương mại Việt Nam . 3

1.1.3.1 Rủi ro tín dụng . 4

1.1.3.1.1 Đặc điểm của rủi ro tín dụng . 4

1.1.3.1.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng . 5

1.1.3.1.3 Đo lường rủi ro tín dụng . 6

1.1.3.2 Rủi ro thanh khoản . 7

1.1.3.2.1 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản . 7

1.1.3.2.2 Đo lường rủi ro thanh khoản . 8

1.1.3.3 Rủi ro lãi suất. 8

1.1.3.4 Rủi ro ngoại hối (hay còn gọi rủi ro tỷ giá) . 9

1.1.3.4.1 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro ngoại hối . 9

1.1.3.4.2 Đo lường rủi ro ngoại hối . 10

1.1.3.5 Rủi ro giá cả . 10

1.1.3.6 Rủi ro chiến lược. 10

1.1.3.7 Rủi ro pháp lí . 10

1.1.3.8 Rủi ro uy tín . 11

1.1.3.9 Rủi ro tác nghiệp . 11

1.1.4 Quản trị rủi ro. . 11

1.1.5 Lợi ích của quản trị rủi ro . 12

1.2 Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại . 14

1.3 Hiệp ước Basel về quản trị rủi ro ngân hàng . 15

1.3.1 Basel I . 15

1.3.2. Basel II . 17

1.4 Bài học kinh nghiệm từ quản trị rủi ro của một số nước . 19

1.4.1 Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan sau cuộc khủng hoảng Châu Á 1997. . 19

1.4.2 Nhìn nhận của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ . 20

KẾT LUẬN CHưƠNG 1 . 22

Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO

TRONG CÁC NGÂN HÀNG THưƠNG MẠI VIỆT NAM . 23

2.1 Thực trạng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay . 23

2.1.1 Tình hình hoạt động . 23

2.1.2 Thách thức phải đối mặt . 28

2.1.2.1 Tình hình lạm phát . 28

2.1.2.2 Cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau, ngân hàng trong nước và ngân hàng

nước ngoài . 29

2.1.2.3 Cạnh tranh với thị trường chứng khoán . 30

2.2 Phân tích và đánh giá tác động của các rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của các ngân

hàng thương mại Việt Nam hiện nay . 30

2.2.1 Rủi ro tín dụng . 30

2.2.1.1 Tình hình tăng trưởng tín dụng . 31

2.2.1.1.1 Tình hình năm 2007 . 31

2.2.1.1.2 Tình hình năm 2008 . 32

2.2.1.1.3 Tình hình năm 2009 . 32

2.2.1.1.4 Tình hình quý 1/2010 . 34

2.2.1.2 Tỷ lệ nợ xấu vẫn còn cao . 35

2.2.1.3 Một số chính sách hạn chế rủi ro mà NHNN và các NHTM đang áp dụng . 37

2.2.2 Rủi ro lãi suất . 38

2.2.2.1 Tình hình năm 2007 . 38

2.2.2.2 Tình hình năm 2008 . 39

2.2.2.3 Biến động năm 2009 . 41

2.2.2.4 Diễn biến lãi suất đầu năm 2010 . 44

2.2.2.5 Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất hiện nay . 44

2.2.3 Rủi ro ngoại hối . 45

2.2.3.1 Diễn biến năm 2008 . 45

2.2.3.2 Diễn biến năm 2009 . 47

2.2.3.3 Tình hình đầu năm 2010 . 49

2.2.3.4 Biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiện đang áp dụng tại các NHTM Việt

Nam . 50

2.2.4 Rủi ro thanh khoản . 52

2.3 Thực trạng ứng dụng Basel trong hoạt động giám sát hệ thống ngân hàng thương mại

Việt Nam . 53

KẾT LUẬN CHưƠNG 2 . 60

Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI

RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THưƠNG MẠI VIỆT NAM . 61

3.1 Ở góc độ cơ quan quản lý nhà nước – Chính phủ . 61

3.1.1 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, khuyến khích sản xuất kinh doanh cho doanh

nghiệp, bảo vệ lợi ích chính đáng của NHTM . 61

3.1.2 Đẩy mạnh việc sắp xếp lại và củng cố hệ thống NHTM, tăng cường hoạt động M&A

các ngân hàng, tạo tiềm lực mạnh đủ sức cạnh tranh trên thị trường . 63

3.1.3 Chính phủ cần tiếp tục xây dựng môi trường kinh tế thuận lợi cho đầu tư của các

NHTM . 63

3.2 Ở góc độ ngân hàng nhà nước Việt Nam . 64

3.2.1 Nhanh chóng triển khai áp dụng các quy định chung của Uỷ ban Basel trong công tác

quản trị rủi ro, giám sát hoạt động ngân hàng . 64

3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM . 65

3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh . 66

3.2.4 Đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong dự trữ . 70

3.3 Ở góc độ ngân hàng thương mại Việt Nam . 70

3.3.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng . 70

3.3.2 Nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro . 72

3.3.3 Cần phân tích tính toán các điều kiện kinh tế vĩ mô . 72

3.3.4 Cần phân chia phù hợp nguồn vốn của ngân hàng với mức độ rủi ro cho phép khi

thực hiện các nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng . 72

3.3.5 Thực hiện minh bạch,công khai hóa thông tin, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng . 73

3.3.6 Nâng cao công tác quản lý nguồn nhân lực và đào tạo cán bộ . 73

3.3.7 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ và chuyên môn hóa công tác xử lý

rủi ro . 74

3.3.8 Công tác quản trị rủi ro cho từng loại rủi ro . 74

3.3.8.1 Hạn chế rủi ro tín dụng . 74

3.3.8.2 Hạn chế rủi ro ngoại hối . 76

3.3.8.3 Hạn chế rủi ro thanh khoản . 77

3.3.8.4 Hạn chế rủi ro lãi suất . 78

KẾT LUẬN CHưƠNG 3 . 79

PHẦN KẾT LUẬN . 80

Phụ lục

Tài liệu kham thảo

pdf84 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11002 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro ở các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng được chỉ định cho vay dẫn đến nợ đọng vốn của ngân hàng; (4) Nhiều TCTD chú trọng Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng 3.50% 1.38% 2.48% 3.18% 4.60% 4.74% 7.20% 2.03% 0% 1% 2% 3% 4% 5% 6% 7% 8% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Năm (% ) 37 việc mở rộng quy mô, mà cán bộ có năng lực thì thiếu. Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ yếu kém, chưa phát hiện được sai phạm. 2.2.1.3 Một số chính sách hạn chế rủi ro mà NHNN và các NHTM đang áp dụng Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng trưởng kinh tế. NHNN đã ban hành các văn bản liên quan đến công tác QTRR tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro như:  Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc ngân hàng về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay thế Quyết định số 1627/2001/QĐ –NHNN.  Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số 18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.  Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005 yêu cầu các NHTM tuân thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.  Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc NHNN sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của NHTM đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết hoặc tạo cơ sở pháp lý cho TCTD chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh.  Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM, cụ thể quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.  Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng do Chính phủ ban hành, đối với ngân hàng TMCP, mức vốn pháp định áp dụng cho đến cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và áp dụng cho đến cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.  Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ- NHNN, Quyết định số 1328/2005/QĐ-NHNN ngày 06/9/2005 ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.  Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày 09/10/2008 của Thống đốc NHNN về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Theo 38 đó, các NHTM cần theo dõi chặt chẽ diễn biến và dự báo về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng ở Mỹ đối với nền kinh tế, thị trường tài chính thế giới và khả năng tác động đối với nền kinh tế, thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng Việt Nam để chủ động thực hiện các biện pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra; xây dựng phương án hoạt động kinh doanh, tiếp tục mở rộng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế với lãi suất hợp lý, đồng thời phải đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhu cầu chi trả, nhất là dịp Tết dương lịch và Tết Nguyên đán năm 2009; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, tiến hành phân tích, đánh giá, phân loại các khoản cho vay kinh doanh bất động sản để có giải pháp phù hợp đối với từng đối tượng vay vốn; tiếp tục tăng tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn, các dự án trọng điểm quốc gia, các nhu cầu vốn sản xuất có hiệu quả, chú trọng mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa mà các khoản cho vay đó đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật và khả năng cân đối vốn của tổ chức tín dụng.  Một số văn bản của các ngân hàng ban hành hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm hướng dẫn các mô hình chấm điểm và xếp hạng đối với các khách hàng (Thông qua chỉ tiêu tài chính và phi tài chính đưa ra tổng hợp điểm tín dụng và xếp loại từ AAA- AA- ..B.. - D). 2.2.2 Rủi ro lãi suất Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng để điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là đối với một nền kinh tế mà kênh tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng là nguồn mang lại lợi nhuận chính cho các ngân hàng. 2.2.2.1 Tình hình năm 2007 Đầu năm 2007, NHNN tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp lực tăng lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất đồng đôla Mỹ. Nhưng lãi suất vẫn tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Ngày 1/1/2007, Techcombank với quyết định tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử”. Lãi suất “Tiết kiệm điện tử” tiền đồng của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng với mức tăng từ 0,12%/năm, 0,17%/năm, 9,42%năm, 9,45%/năm và 9,48%/năm, tương ứng với các mức tiền gửi dưới 50 triệu đồng, 50-200 triệu đồng và từ 200 triệu đồng. Dẫn đến cuộc đua tăng lãi suất với sự tham gia của một loạt NHTMCP. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9,5%/năm. 39 Hình 2.9: Lãi suất huy động vốn năm 2007 Nguồn: Tổng cục thống kê Lãi suất đầu năm tăng do theo lộ trình giảm thuế được cam kết khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp tăng nhập hàng và cần một lượng lớn đôla Mỹ để thanh toán, khiến đồng đôla Mỹ từ mức dư thừa trước Tết trở nên có giá và các ngân hàng nhân cơ hội này gia tăng huy động. Hơn nữa, theo Quyết định 1141/QĐ-NHNN về điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các TCTD, phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%. Điều này khiến chi phí đầu vào của ngân hàng gia tăng đáng kể và các ngân hàng phải tìm bài toán sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động. Cuối năm 2007, lãi suất có xu hướng tăng do trong quý 3/2007 lượng tiền huy động để cho vay đã bị cắt giảm vì NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên các NHTM tăng lãi suất huy động để bù vào phần bị giảm đi. Khoảng thời gian cuối năm là thời điểm mà các doanh nghiệp hoàn thành các hợp đồng đã ký, chuẩn bị nguồn lực tích trữ hàng hóa mà giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu đầu vào năm sau thường cao hơn năm trước nên nhu cầu vốn thường cao hơn là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng chuẩn bị một lượng vốn lớn để giải ngân vào thời điểm này. 2.2.2.2 Tình hình năm 2008 Năm 2008, lãi suất biến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau: Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các NHTM ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6/2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất Lãi suất năm 2007 9.3 9.4 9.5 9.6 9.7 9.8 9.9 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng Lã i s uấ t 40 cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm phát trong nước cao 19,39% vào tháng 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặt khác, kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… liên tục tăng cao khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 8,75%/năm kể từ 01/02/2008, lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc vào 17/03/2008, đồng thời buộc kho bạc rút 50 ngàn tỷ đồng từ các NHTM làm cho thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột, gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng tranh tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng. Mỗi ngân hàng có các chiến lược khác nhau nhưng nhìn chung các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ một năm trở lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các NHTM. Bởi vậy, áp lực cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn. Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng do một phần dòng vốn đã chảy vào các thị trường này. Và có những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Thêm vào đó, những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng đã thu hút các nhà đầu tư tham gia. Không chỉ vậy vào cuối năm 2007, đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các NHTMCP không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất thực âm. Và thời điểm này nền kinh tế chưa hấp thụ hết dòng vốn ngoại, trong khi nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục chảy vào nên phải tăng lãi suất huy động để hút tiền đồng. 41 LÃI SUẤT NĂM 2008 0 5 10 15 20 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 THÁNG NĂM Bắt đầu từ tháng 7/2008 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Ngoài ra, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. Ngân hàng nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi lãi suất ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích nhu cầu vay của khách hàng tốt thì phải hạ lãi suất huy động. Thứ hai, tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở cho sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng tiền đồng dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên tục hạ lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng, từ 16,5%- 17,5%/năm giảm về từ 10,5%- 14,5%/năm. Cuối cùng, trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đưa ra quyết định phù hợp với trường hợp của mình, cũng như theo xu hướng chung của hệ thống. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chi phí đầu vào tăng lên, khi có điều kiện các ngân hàng sẽ xem xét để có điều chỉnh hợp lý, bao gồm cả mục tiêu lợi nhuận, cùng với nhận định việc giảm lãi suất huy động sẽ không ảnh hưởng lớn tới tốc độ huy động trong thời gian tới. Hình 2.10: Lãi suất huy động vốn năm 2008 Nguồn: Tổng cục thống kê 2.2.2.3 Biến động năm 2009 Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Một lý giải chắc chắn cho đợt điều chỉnh lãi suất huy động mới của các ngân hàng là nhằm chuẩn bị một nguồn vốn dồi dào trước các dự báo cho rằng nhu cầu vốn của doanh nghiệp sẽ đặc biệt 42 tăng mạnh trong năm 2009. Các điều chỉnh tăng được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12/3, các NHTM công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm. Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, các NHTM vẫn tiếp tục tranh tăng lãi suất huy động tiền đồng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động tiền đồng đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi từ 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTMNN, lãi suất huy động tiền đồng không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng là 7,3%/năm, 6 tháng là 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTMCP, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Cuối tháng 5, lãi suất huy động bằng tiền đồng tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, mức lãi suất đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Người gửi tiền được hưởng lãi suất kỳ hạn 18 tháng 9%/năm, 24 tháng 9,2%/năm, 36 tháng 9,4%/năm và 60 tháng 9,5%/năm. Từ tháng 8 đến tháng 10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Maritime Bank lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến,5%. Với HDBank, ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng này cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao là 9,1% và 9,3%. Tiếp sau đó, các NHTM đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi suất huy động thêm 0,3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8/2009 lãi suất huy động vốn tiền đồng đã lên tới đỉnh là 10,3%. Đến đầu tháng 11/2009 nhóm NHTMCP điều chỉnh tăng lãi suất huy động tiền đồng với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động đôla Mỹ từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn.Lãi suất của các ngân hàng đã lên tới 9,99%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Tháng 12/2009, lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh cao nhất 12%, nhưng do vẫn còn hỗ trợ lãi suất nên phần thực trả của doanh nghiệp chỉ khoảng 8%/năm. Lãi suất cho vay tiêu dùng cá nhân tối đa phổ biến 15 – 17%/năm, tương đương mức lãi cao nhất (16,2 – 16,6%/năm) thực hiện trong các năm 2005, 2006, 2007. 43 Lãi suất năm 2009 0 2 4 6 8 10 12 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Tháng Lã i s uấ t Lãi suất huy động VNĐ từ 2005-2009 0 5 10 15 20 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T 10 T 11 T 12 Tháng Lã i s uấ t Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Hình 2.11: Lãi suất huy động vốn năm 2009 Nguồn: Tổng cục thống kê Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Hình 2.12 Nguồn: Tổng cục thống kê Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm. Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gửi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với NHTM mà cả đối với NHNN. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng. 44 Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần. Ngoài ra, do tác động của việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của hai chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiềm chế lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động tiền tệ. 2.2.2.4 Diễn biến lãi suất đầu năm 2010 Đầu năm 2010, lãi suất cơ bản tiếp tục được giữ nguyên 8%/năm. Từ đầu năm 2010, khi không còn chính sách hỗ trợ lãi suất như trong năm 2009, lãi suất vay vốn bằng tiền đồng liên tục tăng cao từ 14% - 17%/năm, cá biệt có những trường hợp lên tới 18%/năm, hay có thể cao hơn ở tín dụng tiêu dùng. Lãi suất cao hạn chế hoạt động vay vốn của doanh nghiệp. Tháng 1/2010, lãi suất huy động tiền đồng và đôla Mỹ tăng nhẹ so với cuối năm 2009. Đối với lãi suất tiền đồng: nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động ít biến động, phổ biến ở mức 10 – 10,49%; lãi suất cho vay thông thường phổ biến ở mức 12% năm; lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phổ biến ở mức 15-17%/năm. Đối với lãi suất đôla Mỹ: so với tháng trước, lãi suất huy động và cho vay tăng từ 0,5-0,6%/năm. Lãi suất huy động phổ biến ở mức 2,3-4,5%/năm, lãi suất cho vay tăng từ 0,5-1%/năm, phổ biến ở mức 6-8%/năm. Ở thời điểm hiện tại, lãi suất ngân hàng đã tăng đến đỉnh vào tháng 3/2010 theo động thái thắt chặt tiền tệ của NHNN nhằm kiềm chế lạm phát. Trước đó, bắt đầu từ tháng 12/2009, trước tình hình lạm phát tăng mạnh năm 2009 và nguy cơ lạm phát năm 2010, NHNN đã thắt chặt tiền tệ, khiến lãi suất tăng nhanh. Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 1 tháng tăng từ mức 8,64%/năm ngày 2/2/2010 lên mức 11,54%/năm ngày 31/2/2010. Mặt khác, khi lãi suất cho vay bằng tiền đồng lên cao, nhiều doanh nghiệp quay sang vay đôla Mỹ với lãi suất thấp hơn rất nhiều. Cụ thể, lãi suất cho vay đôla Mỹ ngắn hạn chỉ khoảng từ 5,5% - 6%/năm, dài hạn từ 6% - 8%/năm. Đầu tháng 3/2010, lãi suất bắt đầu giảm và đầu tháng 4/2010, lãi suất đã giảm mạnh. Ngày 9/4/2010, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 1 tháng giảm xuống còn 10,08%/năm. Lãi suất tháng 3 và 4/2010 giảm mạnh cũng có nguyên nhân do NHNN bơm tiền ra lưu thông. 2.2.2.5 Biện pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất hiện nay Từ tháng 1/2007, NHNN Việt Nam đã cho phép mở rộng các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được thực hiện hoán đổi lãi suất. Việc làm này nhằm giúp các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp phòng ngừa, hạn chế rủi ro do biến động của lãi suất thị trường. Các 45 trường hợp được thực hiện hoán đổi lãi suất tiền đồng hoặc ngoại tệ là giữa ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng đó; giữa ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn tại các TCTD khác, vay vốn nước ngoài; giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với TCTD ở nước ngoài. Tuy nhiên, hầu như việc sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất chỉ mới được sử dụng ở một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong khi các ngân hàng trong nước hầu như còn chưa hiểu rõ nghiệp vụ hoán đổi này nên họ ngại khi phải triển khai nghiệp vụ này cho các doanh nghiệp và đây cũng chính là một trong những mặt yếu của các NHTM ở Việt Nam. Vì vậy, một mặt để đảm bảo nguồn vốn trong kinh doanh của các doanh nghiệp, mặt khác tăng sức cạnh tranh thị trường trong nước, các NHTM Việt Nam cần phải nâng cao khả năng nghiệp vụ của mình đặc biệt là các nghiệp vụ mới phát sinh để từ đó phát huy thế mạnh nhằm giúp cho doanh nghiệp trong nước có được những biện pháp phòng ngừa rủi ro trong khi cạnh tranh với các đối thủ khác trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. 2.2.3 Rủi ro ngoại hối Tỷ giá hối đoái giữa các loại ngoại tệ và nội tệ, đặc biệt là tỷ giá USD/VND và sự biến động của nó không chỉ là mối quan tâm trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu, của những người cho vay hay vay ngoại tệ của các NHTM. Trong hoạt động ngoại hối nếu không có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ và không có khả năng dự báo tốt thì có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh của các NHTM. 2.2.3.1 Diễn biến năm 2008 Theo thống kê của thời báo kinh tế Việt Nam thì trong những năm trước năm 2008, tỷ giá USD/VND thường khá ổn định, biến động thấp, năm 2004 tăng 0,4%, năm 2005 tăng 0,9%, năm 2006 tăng 1%, năm 2007 giảm 0,03% - bình quân thời kỳ 2004 - 2007 tăng 0,57%. Nếu tính bình quân năm sau so với năm trước thì năm 2004 tăng 1,57%, năm 2005 tăng 0,56%, năm 2006 tăng 0,95%, năm 2007 tăng 0,62%. Tuy nhiên, bước sang năm 2008, tỷ giá USD/VND có sự biến động khác với các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây: (1) Biến động nhiều hơn, cụ thể có 4 giai đoạn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng kế tiếp, giảm mạnh và đi vào ổn định trong 3 tháng tiếp theo và tăng trở lại trong 3 tháng cuối năm; (2) chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các NHTM lúc mang dấu âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn. Giai đoạn 1 (từ 01/01/2008 đến 25/3/2008): tỷ giá giảm liên tục, dưới mức sàn Với dự kiến tiền đồng sẽ tăng giá so với đôla Mỹ cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa đôla Mỹ và tiền đồng nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán đôla Mỹ mua tiền đồng. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trái phiếu chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ đôla Mỹ), các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán đôla Mỹ cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay đôla Mỹ để phục vụ sản xuất kinh doanh chuẩn bị cho các dịp lễ tết. Bên cạnh đó, 46 đây là giai đoạn kiều hối chuyển về nước khá lớn đã hình thành nên hiện tượng cung lớn hơn cầu, đẩy tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, đôla Mỹ dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD. Trong thời gian này, chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/ năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua đôla Mỹ nhằm hạn chế bơm tiền vào lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75% lên 1%/năm trong ngày 10/3/2008. Giai đoạn 2 ( 26/03/2008 đến 16/7/2008): tỷ giá tăng mạnh với tốc độ nhanh Tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, chênh lệch hơn 2.600 đồng so với mức trần. Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường tự do đẩy đôla Mỹ cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Tỷ giá lên đỉnh ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ USD/VND từ 1% lên 2%. Trong giai đoạn này, nhu cầu trao đổi - mua bán ngoại tệ trên thị trường chợ đen, đặc biệt là đôla Mỹ tăng lên, sẽ xuất hiện các đợt sóng, các cơn sốt ngoại tệ. Yếu tố tâm lý bắt đầu tác động thị trường, khiến cho thị trường ngày càng nóng, nhu cầu trao đổi, giao dịch tìm kiếm lợi nhuận càng tăng cao. Do đó, nếu các nhà đầu tư không có một cái nhìn chính xác về xu hướng tỷ giá và các yếu tố tác động đến nó, cũng như nắm được tâm lý đám đông hành động như thế nào thì không tránh khỏi thua lỗ và không có khả năng sinh lời. Giai đoạn 3 (từ 17/07/2008 đến 15/10/2008): tỷ giá giảm mạnh và dần đi vào bình ổn. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt đôla Mỹ đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 11. Cơn sốt đôla Mỹ làm cho đôla Mỹ trở nên khan hiếm, mọi người đổ xô đi mua đôla Mỹ. Các nhà đầu cơ có cơ hội để kiếm lợi. Nhận thấy tình trạng sốt đôla Mỹ đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ đôla Mỹ khi các thông tin trên thị trường cho rằng đôla Mỹ đang trở nên khan hiếm. Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfQuản trị rủi ro ở các ngân hàng thương mại Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan