Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may VN khi xuất khẩu vào EU

Để phát triển ngành Dệt May, Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư; trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. Đồng thời, xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo.

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4051 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may VN khi xuất khẩu vào EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác hiệp định của Ủy ban châu Âu. Theo ví dụ, những nguyên liệu thô cụ thể không cần xuất xứ nội địa nhưng có thể được đưa về nước xuất xứ tại bất cứ đâu trên thế giới. Qúa trình xử lý thêm nữa theo mỗi kế hoạch cần hỏi ý kiến của nước xuất xứ. Hơn nữa các quy tắc này chỉ được áp dụng cho những hàng hóa và nguyên liệu phi gốc. Khi đưa ra những quy tắc này, người sản xuất và xuất khẩu chỉ cần áp dụng các luật đối với phần sản phẩm phi gốc đó và nhớ rằng các điều khoản về độ sai biệt giá trị có thể vẫn gây mất thời gian cho các nhà xuất khẩu. Ví dụ 10% hay 15% quy tắc về độ sai biệt giá trị (2 ngưỡng phổ biến nhất tại các hiệp định châu Âu) cho phép các nhà sản xuất may mặc sử dụng sợi phi gốc ở một ngưỡng cho phép, thường dựa trên giá cả sản phẩm cũ. Trong khi ví dụ dưới đây được xem xét như một minh họa cho RoO GSP của châu Âu, những yêu cầu tương tự có thể được tìm thấy ở hầu hết các hiệp định thương mại châu Âu được ưu tiên khác. 2.4.3. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 Tổng quan về SA 8000. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 (Social Acountability 8000) được đưa ra lần đầu tiên vào tháng 10/1997 do Tổ chức Quốc tế về Trách nhiệm xã hội (Social Acountability International - SAI) xây dựng và ban hành dựa trên nền tảng các công ước và khuyến nghị của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) cũng như các công ước về quyền con người. Ngày 123/12/2001, SAI đã công bố phiên bản mới của SA 8000 (SA8000:2001) để thay thế SA 8000: 1997. Những điểm chính của SA 8000 là: Không sử dụng lao động trẻ em; không cưỡng bức lao động; đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động; đảm bảo quyền tự do công đoàn, thoả ước tập thể; không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc,thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, không được áp dụng các hình phạt về thể xác, lạm dụng lời nói; đảm bảo thời gian làm việc không quá 60giờ/tuần, trong đó, giờ làm thêm là tự nguyện, trong chu kỳ 7 ngày, người lao động được nghỉ trọn một ngày; đảm bảo tiền lương thu nhập, không áp dụng kỷ luật bằng cách cúp lương; có hệ thống quản lý, hình thành cơ chế thực thi kiểm soát sự đáp ứng các đòi hỏi trong suốt quá trình. Tình hình thực hiện SA 8000 ở Việt Nam.  Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 551 đơn vị đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 140000, nhưng mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý trách nhiệm xã hội và điều kiện lao động SA 8000. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, vì hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 140000 và SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là hàng dệt - may) sang thị trường Mỹ và Châu Âu. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có chính sách với người lao động tốt hơn so với yêu cầu của SA 8000. Thu nhập của người lao động tại nhiều doanh nghiệp còn cao hơn mức tối thiểu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực. Nhưng hiện tại, số doanh nghiệp Việt Nam được chứng nhận đạt SA 8000 chỉ đếm được trên đầu ngón tay. E Những khó khăn chủ yếu trong việc áp dụng SA 8000 tại Việt Nam hiện nay là: - Nhận thức của doanh nghiệp về SA 8000. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều nhìn nhận SA 8000 như một vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu tạo cắt giảm chi phí để tăng lợi nhuận, không phù hợp với mục tiêu kinh doanh. - Các doanh nghiệp không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính, đặc biệt trong các doanh nghiệp tư nhân. - Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000 (chi phí đánh giá, chi phí thực hiện những thay đổi để áp dụng SA 8000). Nhiều công ty muốn được giám định công khai, nhưng không đủ chi phí cho việc giám định. - Sự cách biệt văn hoá giữa khách hàng và nhà cung cấp. Do các quy định đạo đức của từng công ty thường được các công ty đa quốc gia áp đặt một chiều đối với các đơn vị gia công, nên nội dung thực hiện của các tiêu chuẩn không phản ánh được nhu cầu và giá trị địa phương. Việc này sẽ dẫn đến những khó khăn trong áp dụng SA 8000. - SA 8000 là mục tiêu ít được ưu tiên, đặc biệt trong những thời điểm kinh tế suy thoái. Ngay cả khi hệ thống SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài, nhưng nhiều công ty vẫn không muốn đầu tư phục vụ nhu cầu trước mắt để thực hiện SA 8000. - Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối lượng công việc giám sát. Các công ty đa quốc gia sẽ đòi hỏi tất cả các nhà cung cấp và đơn vị gia công thực hiện tiêu chuẩn SA 8000. Nhưng bản chất của hoạt động gia công đảm đương phần lớn công đoạn sản xuất khác nhau tại các doanh nghiệp độc lập, làm cho việc giám sát các hoạt động của doanh nghiệp và đòi hỏi các đơn vị gia công áp dụng SA 8000 trở nên khó khăn. Nhận xét: Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc tìm kiếm và thực hiện những chính sách phát triển, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập khu vực và tiến tới hội nhập toàn cầu. Một trong những phương thức hữu hiệu luôn được các nhà sản xuất và người bán lẻ áp dụng và ghi nhớ là chú trọng bảo vệ uy tín và giá trị của các thương hiệu nhằm giữ vững thế cạnh tranh. Trên các thị trường lớn như Mỹ, Canađa và EU, người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì... mà ngày càng quan tâm hơn đến điều kiện làm việc của công nhân tạo ra các sản phẩm này và luôn bị lôi kéo vào các chiến dịch quảng cáo, nhằm bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Do vậy, SA 8000 được xem là tiêu chuẩn “khẳng định giá trị đạo đức” của sản phẩm mà doanh nghiệp Việt Nam cần thiết phải trang bị cho “hành trang” hội nhập của mình. 2.5. Kết luận rút ra từ nghiên cứu thị trường hàng dệt may EU: 2.5.1 Điểm mạnh: Ø      EU là thị trường lớn về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Ø      Năng lực sản xuất của ngành rất lớn: nhiều doanh nghiệp đã xuất khẩu thành công vào các thị trường lớn mang tính cạnh tranh cao của thế giới, trong đó có EU. Ø      Trong 3 năm qua, nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đầu tư đổi mới công nghệ trang thiết bị của ngành. Ø      Nhiều doanh nghiệp ngành dệt sản xuất phụ kiện, tăng cường đầu tư, đáp ứng một phần nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho ngành. Ø      Nhân công rẻ, người lao động cần cù khéo léo cũng là thế mạnh của ngành. 2.5..2 Điểm yếu: Ø      Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu vẫn dưới dạng gia công (70% kim ngạch), hiệu quả thấp, bị động trong xuất khẩu. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ. Vì thế mà lợi nhuận Việt Nam thu về thường rất nhỏ. Ø      Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sang EU vẫn chiếm tỷ trọng cao (80%) ảnh hưởng đến giá thành và tính ổn định của sản xuất. Ø Ngành dệt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên phụ liệu cho ngành may. Ø      Năng suất lao động của ngành may còn thấp so với các nước trong khu vực. Ø      Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm dệt may nổi tiếng trên thị trường EU. Ø      Công nghệ thiết kế thời trang chưa được quan tâm thỏa đáng. Ø      Phân bổ hạn ngạch bất hợp lý làm hạn chế khả năng xuất khẩu sang EU và làm giá thành sản phẩm may mặc của một số doanh nghiệp tăng lên (chi phí cho chạy quota) GIẢI PHÁP 3.1. Giải pháp trong quá khứ, hiện tại, tương lai: 3.1.1 Giải pháp trong quá khứ: - Giải pháp cho từng loại thị trường: Giải pháp đầu tiên ta đã thực hiện là đánh giá lại nhu cầu về hàng dệt may Việt Nam tại các thị trường thông qua việc thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ và các thị trường tiềm năng khác như Trung Đông, châu Phi. Để làm được việc này, Hiệp hội Dệt may, Tổng công ty Dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp trong ngành đã tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các kênh thương mại khác nhau hiện đang có mặt trên thị trường đó. Những kênh thương mại phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần phải thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường. Đồng thời, chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình. Đặc biệt, sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn cho hoạt động xuất khẩu. Việc đánh giá nhu cầu của thị trường nhằm mục đích nhận định xem các nhu cầu này có ăn khớp với năng lực sản xuất của ngành hay không, bởi sự cân đối giữa cầu và cung sẽ cho phép ngành đạt mức khu biệt hớp sản phẩm (product differentiation) cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh. +Đối với các thị trường hạn ngạch: Việt Nam đề xuất những biện pháp làm cho việc thực hiện hạn ngạch của các doanh nghiệp dệt may được thuận lợi. Ví dụ, việc phân bổ hạn ngạch hợp lý, giảm bớt các loại phí hạn ngạch, tăng cường việc cấp giấy phép xuất khẩu tự động cho các doanh nghiệp, cần xúc tiến các cuộc đàm phán, thương thuyết thương mại, mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước thuộc những thị trường có hạn ngạch này để họ gia tăng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng phi hạn ngạch khác. Trong đó: Với thị trường EU, các doanh nghiệp tăng cường phát huy tính chuyên môn hóa trong sản xuất là những mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn như: các loại gối, vỏ chăn và đồ jean, áp dụng công thức nhà sản xuất Việt Nam + nhà bán lẻ châu Âu, thay vì nhà sản xuất Việt Nam + nhà sản xuất châu Âu nhằm giảm bớt khâu trung gian, tăng cường nhận thức hơn nữa về thị trường này. Đồng thời, phải tìm cách sử dụng được một cách tối đa lực lượng người Việt Nam ở EU để họ làm đầu mối cho mình. Ở giai đoạn 2005, tại 15 nước thành viên EU cũ đã có khoảng chừng 70.000 người Việt Nam làm thương mại tại đây; EU đã mở rộng thành 25 nước thành viên, tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, cần đưa hàng Việt Nam vào các chợ đầu mối, các hệ thống bán lẻ của người Việt Nam tại Ba Lan, Séc, Hungary... thay vì từ trước tới nay chợ của người Việt Nam lại lấy hàng Trung Quốc để bán. Ngoài ra, các công ty ở Việt Nam còn liên kết với các công ty khai thác thị trường của nước ngoài để tạo được sự hợp tác thương mại hai bên cùng có lợi. + Đối với thị trường phi hạn ngạch: Ngành dệt may Việt Nam cần phải nâng cao chất lượng, nhưng không chỉ đơn thuần hiểu là chất lượng sản phẩm, mà cần phải hiểu theo một nghĩa bao quát hơn là chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ đi kèm, giá, yếu tố con người, các yếu tố đạo đức mà khách hàng quan tâm, hình ảnh đất nước, hình ảnh công ty bán hàng. Cụ thể, đối với thị trường Nhật Bản, các mặt hàng dệt kim, khăn bông, các loại quần ka ki và áo sơ mi Việt Nam là những mặt hàng có sức cạnh tranh khá lớn. Như vậy, theo phân tích ở trên, trong các thông tin cần tìm hiểu, các doanh nghiệp dệt may cần chú trọng tới chi phí phức vụ khách hàng. Điều này không chỉ liên quan đến việc lựa chọn thị trường có chi phí phục vụ thấp, mà còn liên quan đến thông nỗ lực giảm các chi phí này như thế nào. Chi phí phục vụ khách hàng trên một sản phẩm có thể thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố như: khối lượng đặt hàng trực tiếp so với bán qua kênh phân phối, thời hạn giao hàng và tính sẵn sàng của luồng đặt hàng cho mục đích kế hoạch và cung ứng, chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng, yêu cầu riêng của khách hàng hoặc yêu cầu sửa đổi lại sản phẩm. Những chi phí này dễ bị việc phân bổ chi phí cố định che lấp hoặc chúng có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm. - Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại hơn nữa, tận dụng các thông tin từ các cơ quan đại diện, tận dụng tính linh hoạt và hiệu quả của các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài. Tất cả nhằm tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đồng thời, khai thông con đường buôn bán trực tiếp với các bạn hàng quốc tế. - Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu nhập khẩu trên cùng một khu vực thị trường nên là một vấn đề được ưu tiên, vì không phải ở mọi nước trên thế giới, những vấn đề thanh toán đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đều được thực hiện dễ dàng. Do đó, việc đổi hàng hay việc thực hiện mậu dịch tam giác có thể giúp các sản phẩm của chúng ta thâm nhập được thị trường. - Các biện pháp đẩy mạnh cạnh tranh lành mạnh: ngành dệt may Việt Nam là một ngành kinh tế nhiều thành phần, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (100% vốn và liên doanh), các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần, công ty tư nhân, các tổ hợp, các hợp tác xã. Để đẩy mạnh cạnh tranh lành mạnh, ngành dệt may cần tăng cường khả năng phối hợp đầy đủ và đồng bộ giữa các đơn vị thành viên trong Tổng công ty Dệt may Việt Nam, xóa bỏ sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp cùng phát triển và đổi mới các qui chế để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, tạo nên môi trường cạnh tranh phong phú và đa dạng. Nhờ đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm sản xuất, quản lý, cũng như thực hiện chuyển giao công nghệ với đối tác nước ngoài. -Để phát triển ngành Dệt May, Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư; trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. Đồng thời, xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo. 3.1.2 Giải pháp trong hiện tại: - Để nâng cao khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế, mỗi doanh nghiệp phải tự trang bị cho mình những hiểu biết về luật pháp quốc tế. Đó là những vấn đề như các hoá chất cấm, tiêu chuẩn lao động, môi trường... và sẽ còn nhiều hạn chế khác mà do không nắm bắt kịp thời sẽ dẫn đến thiệt hại và làm giảm sút tính cạnh tranh. Ngoài ra cần thay đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng gia tăng các sản phẩm trung và cao cấp. - Căn cứ vào những hạn chế áp đặt lên các nhà sản xuất, các doanh nghiệp phải sản xuất các sản phẩm theo cách hợp lý nhất về chi phí và năng suất để giữ vững cơ hội cạnh tranh trên trường quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mang tính cạnh tranh như Châu Âu và Mỹ. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có các quy tắc (RoO) cho phép họ biết được xuất xứ các sản phẩm nhập của họ từ các khách hàng cạnh tranh nhất có thể. Đối với một số nhà sản xuất giữ vững cơ hội cạnh tranh quốc tế thì RoO đối với các thị trường xuất khẩu phải được chú trọng, không hạn chế quyết định kinh doanh của họ và phù hợp với những thực tế thương mại họ phải đối mặt. - Phân tích xu hướng tiêu dùng trong tương lai của khách hàng, giúp nhận thức cơ hội cho ngành dệt may để tổ chức sản xuất hiệu quả hơn. Đặc biệt, các doanh nghiệp nên nhận thức rằng, thái độ thân thiện hơn với môi trường sẽ chi phối hành vi mua sắm trong tương lai của khách hàng, đặc biệt khách hàng của những nước phát triển, khiến họ ưa thích sản phẩm may mặc làm từ chất liệu thiên nhiên như lụa, vải lanh, sợi bông... Do đó, các doanh nghiệp nên triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các mặt hàng vải. - Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt đầu tư vào thị trường Campuchia, để tận dụng lợi thế thị trường rộng lớn của một quốc gia thành viên WTO gần gũi về địa lý với Việt Nam, có nguồn nhân công dồi dào và rẻ, để tránh tình trạng bị động về thị trường trong trường hợp Việt Nam chưa gia nhập tổ chức WTO vào năm 2005. - Các cơ quan quản lý Nhà cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện chính sách chung nhằm hạn chế tối đa thiệt hại từ các rủi ro pháp lý liên quan đến thương mại dệt may. Cụ thể cần tiếp tục chủ trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chủng loại mặt hàng xuất khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng doanh nghiệp kiến thức pháp lý liên quan đến xuất khẩu của các đối tác nhập khẩu lớn, các thông tin giá cả thị trường, đối thủ cạnh cạnh…có cơ chế theo dõi xuất khẩu, khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận các đơn hàng có đơn giá xuất khẩu cao, giá trị gia tăng, hạn chế các đơn hàng có giá trị xuất khẩu thấp. - Các bộ, ngành liên quan cần phối hợp xây dựng cơ chế cảnh báo sớm và phối hợp xử lý các rủi ro pháp lý về tranh chấp thương mại quốc tế. Xây dựng ban hành chuẩn mực quốc gia về nước thải ngành dệt nhuộm với những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp, khả thi. - Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh vào các cụm Công nghiệp Dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ lệ hàng gia công; Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng khác. - Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính, công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Bên cạnh những nỗ lực của doanh nghiệp thf Hiệp hội Dệt may sẽ nỗ lực hơn trong các hoạt động như: thường xuyên cập nhật tình hình thị trường, xúc tiến thành lập trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư sản xuất vải và nguyên phụ liệu tại chỗ... 3.1.3 Giải pháp cho tương lai: - Giải pháp để vượt qua các rào cản kĩ thuật: Ngành Dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều rào cản kỹ thuật mới trong việc bảo vệ môi trường cho người tiêu. Ví dụ theo đạo luật của Mỹ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010, các lô hàng xuất khẩu vào Mỹ phải có giấy kiểm nghiệm của bên thứ 3 xác nhận sản phẩm sử dụng nguyên liệu đảm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng dùng. Nhà sản xuất sẽ phải chịu trách nhiệm về bất kỳ thiệt hại nào gây ra cho người tiêu dùng. Theo rào cản kỹ thuật này, Việt Nam phải có phòng thí nghiệm hiện đại đủ tiêu chuẩn để được phía Mỹ công nhận và cấp giấy chứng nhận. Bên cạnh đó phải tiếp tục tăng tỷ lệ sản xuất nguyên vật liệu trong nước, giảm nhập siêu. Tuy đây mới chỉ là vấn đề gặp phải ở tị trường Mỹ nhưng những tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường xuất khẩu của ngành dệt may ngày càng cao hơn, đặc biệt là ở EU, do đó ngành dệt may Việt Nam phải sớm nâng năng lực làm hàng chất lượng cao, nếu không sẽ khó cạnh tranh được với các đối tác khác đến từ các nước Châu Á. Áp lực này khiến ngành Dệt may phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. Được biết, theo Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May thống kê, phần lớn các thiết bị nghiên cứu, thử nghiệm chất lượng hàng dệt may được đầu tư từ những năm 90, nay đã cũ và lạc hậu. - Giải pháp về môi trường: Ngành dệt may còn cần phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường nơi sản xuất, xây dựng thêm các khu công nghiệp dệt nhuộm có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn tại một số địa phương như Thái Bình, Nghệ An, Trà Vinh... Ðồng thời xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái tại Viện dệt may, làm cơ sở cấp chứng chỉ an toàn cho hàng xuất khẩu và kiểm tra các loại hàng hóa, bảo đảm an toàn cho người sử dụng tại Việt Nam cũng như tại các thị trường nhập khẩu. Ngoài ra là việc xây dựng và quản lý các tiêu chuẩn an toàn sản phẩm và các hàng rào kỹ thuật cần thiết, nhằm bảo vệ người tiêu dùng và thị trường trong nước. Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành dệt may theo hướng thân thiện với môi trường kết hợp với tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.    3.2.Các giải pháp theo phạm vi giới hạn (khuôn khổ WTO): Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động thương mại của doanh nghiệp Việt Nam sẽ được áp dụng các nguyên tắc pháp lý chung như nguyên tắc Tối huệ quốc (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa từ các nước xuất khẩu khác), đối xử quốc gia (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa nội địa nước nhập khẩu), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các quy tắc xương sống của WTO này đều có ngoại lệ (vì mục tiêu an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường…). Do đó, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến những biện pháp áp dụng quyền ngoại lệ này của các quốc gia khi xuất khẩu hàng hóa. 3.2.1 Những rủi ro pháp lý “hữu hình”: 3.2.1.1 Các hàng rào kỹ thuật (TBT): E Các biện pháp hạn chế rủi ro: - Tập hợp thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật và biện pháp kiểm dịch của nước nhập khẩu (để biết trước các điều kiện đối với hàng hóa trước khi xuất khẩu). - Thiết lập hệ thống chất lượng ổn định (để đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn ngay trong quá trình sản xuất sản phẩm). - Hiểu biết đầy đủ về các hạn chế của WTO đối với quyền quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ của các quốc gia để tự khiếu kiện hoặc thông qua Nhà nước khiếu kiện bảo vệ quyền lợi khi cần thiết. 3.2.1.2 Các biện pháp thương mại công bằng: Hiệp định về chống bán phá giá và chống trợ cấp. E Các biện pháp hạn chế rủi ro: - Hiểu biết đầy đủ về bản chất của các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp. - Tham gia tích cực vào các vụ kiện (để có được kết luận điều tra có lợi). - Có biện pháp chủ động (điều chỉnh thị phần, giá, tốc độ gia tăng khối lượng nhập khẩu tại các thị trường…) ngay khi ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu tạo sức ép hay có nguy cơ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp. 3.2.1.3 Biện pháp tự vệ: E Các biện pháp hạn chế rủi ro: Trên thực tế, các nước thường ít sử dụng biện pháp tự vệ (mặc dù họ vẫn có toàn quyền điều tra, quyết định như trong các vụ kiện chống bán phá giá, trợ cấp) bởi hệ quả kéo theo thường khá lớn (bởi họ phải dự kiến đến các cách thức bồi thường thương mại đối với các nước có hàng hóa bị áp đặt biện pháp tự vệ). Tuy nhiên, đây vẫn là một rủi ro mà doanh nghiệp phải tính đến khi xuất khẩu hàng hóa (bằng cách có hiểu biết đầy đủ về các nguyên tắc tự vệ, có biện pháp điều chỉnh thị trường thích hợp trong trường hợp bị áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu…). 3.2.2 Những rủi ro pháp lý “vô hình”: 3.2.2.1 Rủi ro từ nhận thức: - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các quyền của mình: WTO buộc các quốc gia phải hành xử (bằng các quy định và thủ tục) theo cách hạn chế tối đa các rào cản thương mại. Cơ hội cũng từ đó mà mở ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận thị trường và cạnh tranh với hàng nội địa nước nhập khẩu. Vì thế, nếu không biết về các nghĩa vụ của các quốc gia theo quy định của WTO (tương ứng với đó là quyền của doanh nghiệp) cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bỏ qua các cơ hội mà mình lẽ ra được hưởng. - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các nghĩa vụ của mình: WTO quy định các nghĩa vụ của quốc gia, nhưng đồng thời cũng gián tiếp quy định về “nghĩa vụ” của các doanh nghiệp (đặc biệt trong các biện pháp có liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại công bằng). Doanh nghiệp sẽ phải trả giá rất đắt trong trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ (dù rằng việc đó xuất phát từ cố ý vi phạm hay đơn giản là vi phạm do không hiểu biết). - Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về hệ thống pháp luật thương mại nước nhập khẩu: hoạt động thương mại trên lãnh thổ một nước phải tuân thủ hệ thống pháp luật nội địa nước đó. Ở các quốc gia nơi mọi vấn đề được xử lý theo pháp luật, không hiểu biết về pháp luật và hoặc thiếu ý thức tôn trọng pháp luật sẽ là nguy cơ lớn khi tiến hành hoạt động thương mại. E Các biện pháp hạn chế rủ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may VN khi xk vào EU.doc
Tài liệu liên quan