Đề tài Quảng cáo trong kinh doanh thương mại tại Việt Nam, một số điểm cần lưu ý

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I . LÍ THUYẾT VỀ QUẢNG CÁO 2

I . KHÁI NIỆM VỀ QUẢNG CÁO 2

1. Quảng cáo 2

2. Quảng cáo thương mại 2

II. NỘI DUNG CỦA QUẢNG CÁO 3

III. TÁC DỤNG CỦA QUẢNG CÁO 20

IV. CÁC PHƯƠNG TIỆN QUẢNG CÁO 21

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ QUẢNG CÁO TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY 36

I. THÀNH CÔNG QUẢNG CÁO ĐEM LẠI 36

1. Quảng cáo với nhiều hoạt động sáng tạo: 36

2. Khuyến mãi: 38

3. PR -public relation (quan hệ cộng đồng ): 38

4. Events : 39

5. Tài trợ trò chơi truyền hình (game shows) : 39

6. Quảng cáo trực tuyến : 39

II. NHỮNG LỖI QUẢNG CÁO THƯỜNG GẶP 40

1. Quảng cáo thiếu trung thực: 40

2. Quảng cáo nói quá: 41

3. Chi phí quảng cáo lớn: 42

CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ 44

1. Muốn thành công doanh nghiệp nên chú ý các lỗi sau : 47

2. Chú ý tới quảng cáo trên Internet: 48

3. Quan tâm và chú ý hơn tới vai trò của PR-quan hệ công chúng trong doanh nghiệp: 49

4. Để giảm chi phí trong quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, . . 49

KẾT LUẬN 50

 

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quảng cáo trong kinh doanh thương mại tại Việt Nam, một số điểm cần lưu ý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống điều khiển là đảm bảo không có các vấn đề nghiêm trọng nào xảy ra. Các hành động ngăn ngừa không nhắm vào bất cứ khuyết điểm nào ngay trước mắt, mà mục tiêu của nó là ngăn chặn những vấn đề nghiêm trọng ngay trước khi chúng phát triển. B11. Vận dụng Là bước cuối cùng của qúa trình tiến hành quảng cáo, sau khi đã hiệu chỉnh, khắc phục phần nào những sai sót mà bước thử nghiệm mang lại. Đây là bước sử dụng tổng hợp các bước trên để đưa ra một quảng cáo hoàn hảo nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm và thương hiệu của mình đến khách hàng mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông thích hợp nhất. III. Tác dụng của quảng cáo Quảng cỏo là sự trỡnh bày để giới thiệu về hàng hoỏ cho mọi người biết nhằm tranh thủ được nhiều khỏch hàng .Trong kinh doanh thương mại,quảng cỏo khụng cũn là “cỏi đuụi “của buụn bỏn mà là một hệ thống phức tạp ,một cơ cấu hỗn hợp ,lồng khớt vào cơ cấu tổng quỏt của cơ chế kinh doanh của danh nghiệp thương mại .Quảng cỏo vừa là cần thiết khỏch quan ,vừa là một nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp thương mại và vỡ vậy nú cú tac dụng nhiều mặt: Một là: thụng tin dến với nhúm khỏch hàng hoặc quần chỳng biết để tranh thủ được nhiều khỏch hàng đến với doanh nghiệp.Nhờ cú quảng cỏo, khỏch hàng biết đến sản phẩm của doang nghiệp và doanh nghiệp bỏn được nhiờu hàng trong tương lai. Hai là :quảng cỏo là một thụng tin giỳp cho khỏch hàng tự do lựu chọn hàng hoỏ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp cú thể bỏn được nhiều hàng Ba là: nhờ quảng cỏo ,nhiều khỏch hàng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp ,doanh nghiệp bỏn được nhanh và nhiều hơn . Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được chi phớ cho một đơn vị hàng hoỏ bỏn ra, tăng doanh thu và lợi nhuận. Bốn là :tạo ra sự khỏc biệt cho sản phẩm ,nõng cao uy tớn của doanh nghiệp .Qua quảng cỏo ,doanh nghiệp phải lựu chọn ra cỏi tốt của hàng hoỏ của mỡnh để quảng cỏo ,cũng từ đú cú thể so sỏnh với sản phẩm cựng loại . Điều này giỳp cho doanh nghiệp cải tiến và lựu chọn sản phẩm trong kinh doanh , ỏp dụng cỏc tiến bộ kỹ thuật cụng nghệ mới ,dịch vụ mới để đỏp ứng nhu cầu và yờu cầu của khỏch hàng.Trong điều kiện nền kinh tế ở,với tiến bộ khoa học –cụng nghệ như vũ bóo ,nhiều sản phẩm mới được cải tiến với chất lượng cao ra đơỡ ,nhằm thoả món nhu cầu tiờu dựng ngày càng phong phỳ , đa dạng ,phức tạp với nhiều nguồn cung ứng ,nờn quảng cỏo ngày càng trở nờn quan trọng và khụng thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày. Sự phỏt triển của quảng cỏo phụ thuộc vào sự phỏt triển của văn hoỏ ,xó hội ,sự phỏt triển của nghệ thuật ,sự phỏt triển của trỡnh độ dõn trớ ,của cỏc phương tiện thụng tin và cơ chế của nền kinh tế quốc dõn.. IV. Các phương tiện quảng cáo Như đã nêu ở B6, có rất nhiều phương tiện quảng cáo nhưng mỗi loại phương tiện đều có đặc trưng riêng với một tập hợp các đặc tính của nó, các phương tiện khác nhau chủ yếu trên ba mặt: Chi phí cần thiết để phân phối thông điệp quảng cáo. đối tượng thu hút Các khả năng kĩ thuật Các phương tiện khác nhau vươn tới các đối tượng khác nhau vì điều kiện hoạt động của phương tiện khác nhau, có thể là do chủ đích. Ví dụ, hầu hết các tạp chí tập trung năng lực xuất bản của họ vào lĩnh vực nhất định như khoa học và kỹ thuật, và họ hấp dẫn độc giả bằng những lĩnh vực được quan tâm đó. Ngược lại, báo hẫp dẫn độc giả nói chung. Do được mọi đối tượng đọc, báo không tao ra được nhiều loại đối tượng đọc khác nhau ngoài phạm vi địa lý. Các nhà quảng cáo biết và hiểu được sự khác biệt về đối tượng của các loại phương tiện thì họ có nhiều khả năng tiếp cận được thị trường của họ hơn là những nhà quảng cáo không hiểu vấn đề này. Người ta thu nhận thông tin từ các phương tiện thông tin khác nhau và được cho rằng có khuynh hướng hành động như vậy. Một số các phương tiện, bao gồm báo và phát thanh là những nguồn thông tin tốt cho các hoạt động hằng ngày. Những phương tiện khác như tạp chí và một số chương trình truyền hình, là những nguồn thông tin tốt cho những chủ đề đặc biệt như thời trang và nấu ăn. Sự quen thuộc với tập quán thông tin của các phương tiện là điểm cơ bản để xây dựng chiến lược phương tiện. Ta sẽ xem xét các đối tượng của các phương tiện, các đặc trưng kỹ thuật có thể ảnh hưởng đến việc truyền đạt thông điệp, cách thức đối tượng sử dụng thông tin và kết cấu chi phí. Cụ thể như sau: * Báo: ở nứoc ta, báo cùng tạp chí hiện nay đang đứng thứ 2 sau truyền hình do báo chưa thật phổ biến như truyền hình vì nhiều lý do, trong đó có cả lý do báo vẫn còn khá đắt tiền đối với một số người khi so với truyền hình là miễn phí. Khả năng thu hút một phần lớn chi tiêu cho quảng cáo của báo đã phản ảnh khả năng của báo trong việc phân phát thông điệp đến với đối tượng của phương tiện báo + Ưu điểm của báo: 1.Phạm vi: Trong hầu hết các vùng địa lý, và trong một số giới nhóm có cùng quan tâm, bao giờ cũng có báo riêng. Báo cung cấp cho các đơn vị quảng cáo khả năng bao quát phạm vi thị trường địa phương. Mặc dù báo là một phương tiện mang tính địa phương nhiều, nhưng nó cũng hữu ích đối với các đơn vị quảng cáo trên phạm vi toàn quốc hay ở cấp khu vực. 2. Lượng độc giả lớn: Báo là một phương tiện rất tốt để tiếp cận đối tượng trong một khu vực địa lý. Cả nước hiện nay có vài chục tờ báo Việt ngữ và 8 tờ báo Anh ngữ và Pháp ngữ ra hằng tuần, tuần 3 lần, tuần 2 lần, phục vụ hàng chục triệu độc giả. Hầu hết các tờ báo này đều có đăng quảng cáo. Các tờ báo này đều được phát hành trên phạm vi cả nước, nhưng phần lớn là tâp trung vào một số khu vực thành thị và nông thôn thuận lợi về giao thông và có mức sống khá cũng như thị trường lớn. 3.Tính chất đúng lúc: Người ta đọc báo để biết những thông tin quan trọng hiên tại.Báo có tính chất trực tiếp tức thì và nội dung của nó có căn cứ xác đáng. 4. Hạn kết thúc ngắn: Là thời gian mẫu quảng cáo phải có sẵn trong tay của nhà xuất bản để có thể xuất hiện trong số báo cụ thể, thường thì rất ngắn. Một đơn vị quảng cáo có thể đặt một quảng cáo vào ngày rất gần với ngày phát hành mong muốn. Ví dụ  một hãng kinh doanh đồ điện và điện tử có thể tranh thủ cơ hội nghe tin đội tuyển bóng đá Việt Nam lọt vào trận chung kết bóng đá của Seagame để quảng cáo loại ti vi màn ảnh rộng và phẳng của hãng. +Nhược điểm của báo: Đời sống ngắn ngủi: Ngưòi ta đọc báo để biết được những sự kiện hàng ngày phát hành qua bài vở có tính chất tóm lược có thể đọc trong vòng vài phút, và rồi sau đó lại bỏ nó đi. Chính cuộc sống ngắn ngủi của báo hàm ý rằng các đơn vị quảng cáo không thể tính toán được tác động của các mẫu quảng cáo trên báo vào những ngày sau ngày phát hành Chi phí cho pham vi bao phủ cao: Các nhà tiếp thị phải chịu chi phí cao cho phạm vi bao phủ nếu quảng cáo trên báo, đặc biệt nếu họ muốn bao phủ nhiều thị trường cùng một lúc. Chi phí tuyệt đối cho một chiến dịch có quy mô toàn quốc thì rất lớn. Do đó nhiều đơn vị quảng cáo khi tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên báo, thường chỉ chọn những tờ báo hàng đầu tại các thị truờng chính yếu, tuy vậy đây là những nơi thường có chi phí cao hơn chi phí cho những tờ báo địa phương. Việc in mầu không trung thực: Mầu sắc gia tăng khả năng nắm bắt sự chú ý của người đọc và có thể miêu tả tính chất trạng thái của mẫu quảng cáo , nhưng độ trung thực của việc in màu trên mẫu quảng cáo trên báo thì không đáng tin cậy, chủ yếu là do chất lượng giấy kém và quy trình in ấn. Mặc dù trong những năm gần đây đã có những cải tiến rất lớn nhưng độ trung thực màu in vẫn chưa có độ tin cậy cao Sự tắc nghẽn các mẫu quảng cáo cạnh tranh: Các đơn vị quảng cáo thường có thời biểu đặt chỗ quảng cáo tương tự nhau. Do đó, các tờ báo bị tràn ngập các mẫu quảng cáo và một số ngày nhất định, đặc biệt là ngày thứ tư, thứ năm,thứ sáu và chủ nhật . Khối lượng quảng cáo nhiều đã làm cho người đọc bị quá tải về thông tin và làm cho khả năng thu hút sự chú ý người đọc mẫu quảng cáo giảm đi * Tạp chí: Khác với báo ,ưu điểm của tạp chí là cho phép chọn lọc đối tượng khá chính xác ,có bổ sung giữa nội dung của tạp chí và quảng cáo ,và đời sống tương đối dài. + Ưu điểm : Đối tượng chọn lọc: Quảng cáo trên tạp chí sẽ tiếp cận được đối tượng mục tiêu mà đã được xác định rõ theo khu vực địa lý hay nhân khẩu hoặc các hoạt động khác. Tạp chí có độ linh hoạt cao trong vấn đề lựa chọn đối tượng phạm vi cả nước và ở từng địa phương. 2. Tính chất bổ sung của nội dung tạp chí :Thông qua tạp chí chuyên đề như “nhà đẹp” hoặc “kiến trúc” các nhà quảng cáo thêm một số trang thông tin tiếp thị và giới thiệu sản phẩm như đồ nội thất kèm theo tư  vấn về cách trang trí có tác dụng kích thích những ý tưởng và nhu cầu có liên quan. 3. Quảng cáo chất lượng cao,không phô trương: để người đọc chủ động là họ sẽ đọc gì và khi nào thì đọc,nên quảng cáo trên tạp chí can thiệp vào cuộc sống người đọc ít hơn nhiều so với quảng cáo trên truyền hình,chen ngang vào chương trình đang phát mà không quan tâm tác động của chúng đối với người xem .Quảng cáo trên tạp chí không ép buộc người đọc như vậy .Đồng thời chất lượng cao của phương tiện ,màu in trung thực và lời thuyết minh sâu sắc ,có thể chuyển tải thông điệp với những tác động thích hợp. 4. Tuổi thọ cao: Không giống như báo,tạp chí thường tồn tại lâu hơn.Người ta đọc lại nó ,lưu giữ nó và chuyền cho những người khác xem .Điều này có nghĩa là không chỉ có người mua tạp chí mà còn có nhiều người khác đọc và chú ý tới các mẫu quảng cáo .Một cuộc nghiên cứu cho thấy rằng một người đọc phải mất từ 2-3 ngày để đọc hết một quyển tạp chí. + Nhược điểm : 1. Các tạp chí đòi hỏi đơn vị quảng cáo phải nộp mẫu quảng cáo của mình một thời gian khá lâu trước ngày phát hành tạp chí, thông thường là cả tuần. Sự thiếu mềm dẻo về mặt thời gian này đã hạn chế khả năng thay đổi hay bổ sung chiến dịch quảng cáo từ những kết quả mới nhất của thông tin phản hồi của thị trường. Sự tắc nghẽn các thông tin cạnh tranh: Số lượng các trang nội dung và quảng cáo ngày càng lớn của tạp chí sẽ gây khó khăn cho thông điệp của đơn vị quảng cáo trong việc thu hút sự chú ý và quan tâm của người đọc. Phân phối thông điệp một chiều:Trong khi những phương tiện khác như truyền hình và truyền thanh sử dụng âm thanh và những cử động để lôi cuốn sự chú ý, thì tạp chí phải nắm bắt sự chú ý của độc giả và chuyển tải thông điệp chỉ thông qua hình ảnh, tất nhiên là mất đi cơ hội chứng tỏ được sản phẩm một cách đầy đủ nhất. * Truyền hình: Giống như ở nhiều nước khác, quảng cáo trên truyền hình đang bị thống trị bởi một số nhà sản xuất hàng tiêu dùng tầm cỡ và chi phí quảng cáo trên truyền hình chiếm một tỉ lệ khá lớn trong toàn bộ tổng chi phí dành cho quảng cáo của các công ty này. Quảng cáo trên truyền hình có thể có hoặc không có hiệu quả khi truyền tải thông điệp của đơn vị quảng cáo. Tính chất năng động của nó có thể giúp diễn đạt có hiệu quả một thông điệp. Cơ hội để trình bày của những kỹ năng sáng tạo hình ảnh tốt hơn cơ hội của các kỹ năng này trong quảng cáo in, và khi các cơ hội này kết hợp với các yếu tố về âm thanh, thông điệp của đơn vị quảng cáo trở nên hết sức sống động. Mặt khác, quảng cáo trên truyền hình có thể hoàn toàn không có hiệu quả khi đa ra một thông điệp, vì thông điệp gần như không duy trì được sự tồn tại theo thời gian và có những đối tượng xem thờ ơ (thậm chí ghét) quảng cáo. Sự tồn tại của một quảng cáo loại này chỉ ngắn ngủi trong thời gian phát sóng. Nếu đối tượng không chú ý (và thực tế thường không chú ý), cơ hội quảng cáo sẽ qua đi. Cuối cùng, kết quả sau cùng của sự quan tâm của đối tượng đến một quảng cáo phải là một sự nhận thức về sản phẩm hay dịch vụ. Người xem có thể nhớ hay không nhớ đến quảng cáo nhưng phải nhớ đến sản phẩm. ấn tượng do một quảng cáo tạo ra không nên ngoài cái gì khác hơn là ấn tượng đối với sản phẩm. + Ưu điểm của truyền hình: 1. Phạm vi: Truyền hình thực sự là một phương tiện tiếp cận được với hầu hết mọi đối tượng. ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ số hộ có máy truyền hình khá cao (khoảng 80% số hộ gia đình), và tại các vùng đô thị khác tỉ lệ này cũng khá lớn. Cả nước hiện nay có hơn 10 triệu TV, và mỗi năm số lượng TV tăng lên khoảng 10% (1 triệu máy). Không có một phương tiện nào khác ngoài truyền hình trong giờ phát hình chính có thể tiếp cận được gần đến 60% số hộ gia đình của cả nước. 2. Tính động: Những đặc tính về âm thanh và hình ảnh đã tạo cho truyền hình một khả năng độc đáo duy nhất trong việc phân phát thông điệp quảng cáo qua việc sử dụng âm thanh và và các hình ảnh chuyển động. Các quảng cáo được phát trên truyền hình sống động với các hành động, làm lôi cuốn và thú vị hơn nhiều so với bất cứ phương tiện nào khác. Truyền hình có thể tạo ra những cảnh tượng bắt được sự chú ý của người xem, thiết lập những trạng thái bổ trợ cho hình ảnh của sản phẩm, hoặc có thể chứng tỏ một cách đầy đủ các lợi ích của sản phẩm. 3. Phạm vi địa lý có chọn lọc: Một số đơn vị quảng cáo thường chỉ tập trung quảng cáo vào một số khu vực có chọn lọc thay vì quảng cáo trên phạm vi cả nước. Phạm vi bao phủ có giới hạn về phạm vi đại lý của đài truyền hình có thể phục vụ cho các mục đích thử nghiệm tiếp thị, phân phối sản phẩm có chọn lọc khu vực, muốn nâng cao doanh số bán tại một vùng cụ thể nào đó. So sánh chi phí tiếp cận một phần ngàn (CPM) giữa hai loại phương tiện là báo và truyền hình thì có thể họ sẽ thấy như sau: - Quảng cáo trên báo: Giá 1 trang màu : 30 triệu đồng. Phạm vi : 800.000 người đọc CPM sẽ là 30.000.000/800 = 37.500 đồng - Quảng cáo trên truyền hình: Giá một lần xem quảng cáo 30” trong chương trình giải trí là 12 triệu đồng Phạm vi : 1.200.000 người xem. CPM sẽ là: 12.000.000/1.200 = 10.000 đồng Trên đây chỉ là một ví dụ rất đơn giản để so sánh CPM giữa báo và truyền hình. Trong thực tế khi tính toán chúng ta còn phải tính đến rất nhiều yếu tố như: quảng cáo sản phẩm này bằng hình ảnh có đạt hiệu quả không hay phải sử dụng cả âm thanh và chuyển động, đối tượng tiếp cận là nam hay nữ, trong độ tuổi nào và với những đặc điểm nhân khẩu học (thu nhập, nghề nghiệp, học vấn) khác như thế nào? + Nhược điểm của truyền hình: 1. Chi phí tuyệt đối lớn: Với chi phí cho 30 giây quảng cáo trong những chương trình chính lên đến 16.000.000 đồng, và thậm chí cao hơn cho những chương trình đặc biệt, như tường thuật trực tiếp một sự kiện thể thao được hầu hết mọi người quan tâm theo dõi, thì chúng ta có thể thấy được khối lượng chi phí quảng cáo trên truyền hình khổng lồ của các công ty lớn. Đó là chưa kể đến các chi phí cũng rất lớn so với quảng cáo trên các phương tiện khác: chi phí để thiết kế, dàn dựng và thực hiện các tiết mục quảng cáo đôi khi lên đến vài chục triệu hay vài trăm triệu đồng, thậm chí cả tỉ đồng. 2. Hạn chế về thời gian phát quảng cáo: Rõ ràng là thời gian phát quảng cáo trên truyền hình được hạn chế ở một mức có thể chấp nhận được, trong khi đó nhu cầu quảng cáo của các công ty ngày càng tăng. Việc hạn chế này bị quy định bởi tổng số giờ phát sóng trong ngày và tỉ lệ thời gian phát quảng cáo trong toàn bộ tổng thời gian. Hạn chế thời gian phát quảng cáo thật ra lại có ích cho bản thân quảng cáo trên truyền hình. Chúng ta cứ thử tưởng tượng nỗi bực dọc của người xem tăng cao đến mức nào và thái độ của họ tiêu cực đến mức độ nào nếu truyền hình cho phát quá nhiều quảng cáo, làm nát vụn chương trình truyền hình yêu thích của mọi người, và tới một mức độ nào đó thì người xem lại có thái độ tiêu cực đối với đài phát và thậm chí đối với nhãn hiệu đang được quảng cáo! Do đó thời gian phát sóng truyền hình cho quảng cáo có giới hạn và chỉ đáp ứng cho một số đơn vị quảng cáo mà thôi. 3. Tuổi thọ ngắn: Một bất lợi chính của việc sử dụng truyền hình lả một khi tiết mục quảng cáo đã được phát đi thì nó cũng biến mất luôn, không để lại tàn dư hay dấu vết hữu hình nào cả. Không giống như quảng cáo trên các phương tiện in ấn trong đó người đọc có thể xem lại hay truyền cho nhiều người khác xem hoặc là cắt mẫu quảng cáo ra và lưu trữ như những thông tin cần thiết để sử dụng sau này, cơ hội tác động thêm lên người xem ngoài lần phát hình đầu tiên thì không có. Kết quả là để đảm bảo sự tác động tối đa, đơn vị quảng cáo phải bù trừ nhược điểm này của truyền hình bằng cách quảng cáo phát hình lặp đi lặp lại nhiều lần, tốn kém rất nhiều chi phí. 4. Thiếu những phân khúc rõ ràng: Trái với tạp chí, đối tượng của truyền hình không được phân khúc rõ ràng. Ngoại trừ các chương trình đặc biệt như thể thao cuối tuần, khéo tay hay làm, truyền hình không có những phân khúc rõ ràng đáng tin cậy. Khả năng đặc trưng của truyền hình là phạm vi ảnh hưởng rộng lớn đến đối tượng người xem nói chung. Đôi khi nhóm khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp hướng đến chỉ là một bộ phận nhỏ sẽ gây lãng phí ngân sách của doanh nghiệp. * Truyền thanh: + Ưu điểm của truyền thanh: 1. Phạm vi và sự chọn lọc đối tượng: Hơn cả truyền hình, truyền thanh là một phương tiện ở đâu cũng có với tỷ lệ hộ gia đình có máy thu thanh là khá cao (kể cả các máy móc khác có chức năng thu âm thanh nh radio-cassette, mini-hifi, máy nghe nhạc bỏ túi Walkman). Cuối cùng truyền thanh cho phép đơn vị quảng cáo xác định chính xác các phân khúc theo phạm vi địa lý nhờ vào phạm vi phát sóng. Đơn vị quảng cáo không cần thiết phải tốn chi phí cho những ảnh hưởng đến những đối tượng không cần thiết và có độ linh hoạt cao trong việc xác định thông điệp đích của mình. 2. Chi phí quảng cáo thấp: Quảng cáo trên truyền thanh rẻ nhất trong tất cả các loại phương tiện. Bởi vì chi phí để sản xuất các chương trình truyền thanh và duy trì đài phát thấp, nên chi phí tính cho đơn vị quảng cáo cũng thấp..Bởi vì truyền thanh là phương tiện phát sóng âm, cho nên đơn vị quảng cáo tránh được các chi phí cao cho các công việc đồ hoạ như trong quảng cáo truyền hình và tạp chí. + Nhược điểm của truyền thanh: 1. Giới hạn phạm vi địa lý: Truyền thanh chủ yếu là một phương tiện mang tính địa phương và nó tao ít cơ hội đối với đơn vị quảng cáo muốn phát sóng trên phạm vi cả nước. Các chương trình chủ yếu được phát trên phạm vi này là tin tức thời sự. Kết quả là không có gì ngạc nhiên khi truyền thanh chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số chi phí quảng cáo tại Việt Nam. 2. Mức độ chú ý thấp: Truyền thanh ít đòi hỏi sự tham gia của đối tượng nghe. Không giống như truyền hình trong đó đối tượng phải xem một cách tích cực để thưởng thức, hay là tạp chí vốn đòi hỏi người đọc phải có những nỗ lực có ý thức để đọc, một máy radio đang hát thường không phải là điểm tập trung chú ý cơ bản của người nghe. Đơn vị quảng cáo trên truyền thanh phải sẵn sàng trả nhiều hơn để phát nhiều lần quảng cáo của mình làm cho thông điệp tiếp cận được đối tượng. * Quảng cáo ngoài trời: + Ưu điểm của quảng cáo ngoài trời: 1. Phạm vi và chọn lọc về địa lý: Quảng cáo ngoài trời khá hiệu quả trong các chiến dịch quảng cáo toàn quốc, bởi vì nó kết hợp được phạm vi bao phủ tại các thị trường trung tâm chính yếu nhất. Phương tiện này cũng cho phép đơn vị quảng cáo có khả năng chọn lọc cao các thị trường mục tiêu. Một đơn vị quảng cáo có thể mua phạm vi bao phủ trong toàn bộ một vùng hoặc một số khu vực nào đó trong vùng này. 2. Đối tượng không ở trong nhà: Đối với đơn vị quảng cáo thì điều này có nghĩa là cho họ thêm khả năng tiếp cận ngoài các khả năng tiếp cận trong nhà truyền thống như báo, tạp chí, truyền hình hay radio. Tiếp cận ngoài nhà xảy ra khi người ta di chuyển trên xe máy, ôtô hay trên các phương tiện chuyên chở công cộng hay đơn giản là khi đi bộ. 3. Bộc lộ hay tác động lặp lại: Các quảng cáo ngoài trời xuất hiện dọc theo hoặc gần các nơi giao thông. Phô bày tại các khu vực giao thông đông đúc nh tại các giao lộ chính không gian những tiếp cận được với nhiều đối tượng, mà sự tiếp cận này còn lặp đi lặp lại rất nhiều lần nữa. 4. Chi phí thấp: Với mức giá thay đổi (tuỳ theo loại vật liệu là bảng quảng cáo bình thường, hộp đèn hay đèn nêon) từ 100-250 USD/m2 thì quả thật quảng cáo ngoài trời có chi phí khá thấp nếu so với quảng cáo trên báo hay truyền hình. 5. Tác động thị giác: Quảng cáo ngoài trời chiếm được sự chú ý của đối tượng thông qua các ấn tượng thị giác rất mạnh mẽ. Các đặc trưng của các quảng cáo ngoài trời gây ấn tượng là kích thước to, màu sắc sống động, sáng. Một số đơn vị quảng cáo sử dụng các hiệu quả đặc biệt như phát sáng kỳ lạ, hình ảnh chuyển động, và đôi khi các hình ảnh ba chiều nổi bật. + Nhược điểm của quảng cáo ngoài trời: 1. Hiệu quả thị giác đơn giản: Hơn nữa, quảng cáo ngoài trời chắn ngang tầm nhìn của đối tượng khi họ đang di chuyển và như vậy phải cần truyền đạt được thông điệp trước khi đối tượng đi qua. Do đó mà quảng cáo ngoài trời bị giới hạn chỉ trong một số từ nhất định (nếu có sử dụng chữ), và minh hoạ phải đơn giản và thể hiện đúng nội dung thông điệp cần thiết. 2. Mức độ chú ý thấp: Người ta đọc tạp chí hay đọc báo là do ý muốn của họ, và họ bật tivi là để xem. Bất cứ sự bộc lộ của đối tượng đối với quảng cáo ngoài trời là do tình cờ. Một bảng quảng cáo được chú ý không phải là do đối tượng đi tìm để nhìn nó, mà là bảng quảng cáo này đã được đặt đúng chỗ vào đúng thời điểm đối tượng đi qua. Nhưng thường thì sự chú ý của đối tượng là nhằm vào việc lái xe hay nhìn tín hiệu và biển báo giao thông. 3. Bối cảnh lộn xộn: Quảng cáo ngoài trời phải cạnh tranh với nhiều loại bảng hiệu khác. Những bảng này có thể là các bảng tên các cửa hàng, công ty, bảng hướng dẫn, và vô số các loại bảng khác mà người đi đường có thể nhìn thấy. Sự đông đúc của các loại bảng quảng cáo cũng như không phải quảng cáo, đã làm rối sự chú ý của đối tượng đối với các quảng cáo. * Quảng cáo quá cảnh: Quảng cáo quá cảnh là trưng bày các thông điệp quảng cáo bên trong và bên ngoài các phương tiện chuyên trở, và tại các địa điểm đầu mối giao thông. + Ưu điểm của quảng cáo quá cảnh: 1. Chọn lọc địa lý: Quảng cáo quá cảnh mang tính địa phương. Phạm vi bao phủ của nó chỉ tập trung tại thị trường nơi có các phơng tiện giao thông đặt bảng quảng cáo. Đối với đơn vị quảng cáo có thị trường phân theo vùng địa lý cụ thể, quảng cáo quá cảnh cho phép tiếp cận thị trường mục tiêu một cách chính xác. 2. Đối tượng rộng lớn: Quảng cáo quá cảnh cho phép đơn vị quảng cáo vơn tới một số lớn đối tượng. Hàng trăm ngàn người sử dụng các phương tiện vận chuyển trong một tháng. Trong tương lai khi hệ thống xe buýt, mini buýt và các phương tiện vận chuyển công cộng khác phát triển để giải quyết nhu cầu đi lại của người dân thì số lượng người sử dụng các phương tiện này càng tăng lên nhanh chóng. Mặt khác, các phương tiện giao thông mang quảng cáo cũng có tác dụng như những bảng quảng cáo ngoài trời di động liên tục, tiếp cận với hàng trăm ngàn, hàng triệu người khác. 3. Chi phí phần ngàn thấp: Quảng cáo quá cảnh là một trong những loại phương tiện quảng cáo có mức chi phí thấp nhất. + Nhược điểm của quảng cáo quá cảnh: Quảng cáo quá cảnh có hai nhược điểm chính là: giới hạn về cung (diện tích quảng cáo), và đặc trưng của đối tượng không rõ ràng ngoài trừ phạm vi địa lý. Quảng cáo quá cảnh ít có khả năng cho phép lựa chọn đối tượng theo các tiêu thức khác, ít có cuộc nghiên cứu nào mô tả đối tượng của loại phương tiện này. Tuy vậy, hiện nay chúng ta có thể thấy rằng những người sử dụng các loại phương tiện quá cảnh chủ yếu là các cư dân thành phố có mức sống thấp khác với những người có xe riêng để đi lại. * Quảng cáo qua thư gửi trực tiếp: Quảng cáo qua thư gửi trực tiếp là việc truyền thông điệp quảng cáo từ nhà tiếp thị đến đối tượng mục tiêu thông qua đường buư điện. Quảng cáo như vậy thì trực tiếp ở chỗ về cơ bản nó do nhà tiếp thị kiểm soát, chứ không phải qua những người trung gian. + Ưu điểm của thư trực tiếp: Các ưu điểm chính của quảng cáo qua thư trực tiếp là: khả năng chọn lọc đối tượng cao, trực tiếp hoá giao tiếp, đúng lúc và khả năng linh hoạt về thiết kế. 1. Chọn lọc đối tượng: Trong tất cả các loại phương tiện thì quảng cáo qua thư trực tiếp có khả năng tiếp cận đối tượng mục tiêu chính xác nhất. Khả năng chính xác này là do tính chất của danh sách gửi thư. Danh sách gửi thư bao gồm tên tuổi và địa chỉ của các cá nhân được lọc ra theo các tiêu thức thích hợp để bảo đảm những cá nhân này là những người mang đặc trưng của khách hàng mục tiêu của công ty 2. Trực tiếp hoá giao tiếp: Viết thư trình bày một cách trực tiếp tới một người nào đó sẽ tăng sự chú ý quan tâm của người này hơn. Hơn nữa, với việc sử dụng kỹ thuật dùng từ ngữ để trình bày và xưng hô, thư trực tiếp là phương tiện diện rộng duy nhất có thể tiếp cận đối tượng một cách trực tiếp như vậy. 3. Đúng lúc: Lịch trình của quảng cáo qua thư trực tiếp rất linh hoạt, bởi vì thư trực tiếp do người làm tiếp thị tiến hành và điều khiển. Đơn vị quảng cáo có thể an tâm rằng thư trực tiếp của họ sẽ đến với đối tượng đúng lúc khi họ mong đợi. + Nhược điểm của thư trực tiếp: 1. Chi phí cao: Tuỳ theo mức độ phức tạp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32732.doc
Tài liệu liên quan